Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Chăm sóc đúng cách trẻ dị ứng đạm sữa bò doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.5 KB, 5 trang )






Chăm sóc đúng cách trẻ dị ứng đạm sữa bò


Dị ứng đạm sữa bò (DƯĐSB) là một hiện tượng phổ biến ở nhiều nước. Theo một
khảo sát tại Mỹ trên 38.480 trẻ em thì có 8% trẻ bị dị ứng thực phẩm, trong đó
39% tiền sử có phản ứng nghiêm trọng và 30% dị ứng với nhiều loại thực phẩm
khác nhau.

Thông tin khoa học về dị ứng đạm sữa bò
Tại hội thảo khoa học“Chẩn đoán và xử trí dị ứng đạm sữa bò ở trẻ nhũ nhi”tổ
chức tại TP HCM ngày 16/6, Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Gia Khánh, Phó chủ tịch Hội
Nhi khoa Việt Nam, Chủ tịch Hội Tiêu hóa – Gan Mật Nhi khoa Việt Nam cho
biết, con số trẻ dị ứng sữa bò ở Việt Nam hiện nay là rất đáng quan tâm. Nhiều
nghiên cứu ban đầu cho thấy DƯĐSB ở trẻ dưới 3 tuổi là 2,1%; Tuy nhiên con số
trẻ bị DƯĐSB được cho là nhiều. Bởi có 5,4% trẻ dưới 3 tuổi bị DƯĐSB do mẹ tự
đánh giá và 12,6% trẻ được 3 tuổi được nghi ngờ là DƯĐSB. Trong số các trẻ bị
DƯDSB có 50% – 60% biểu hiện viêm da dị ứng, 50% – 60% biểu hiện tiêu hóa.
Mẫn cảm với sữa bò thông qua bú mẹ biểu hiện bắt đầu bằng viêm da dị ứng hoặc
viêm hậu môn trực tràng.
Nguyên nhân DƯĐSB là do một phản ứng miễn dịch với một hoặc nhiều đạm
(protein) trong sữa bò. Thông thường trẻ DƯĐSB sẽ có biểu hiện ngay sau khi
uống sữa bò từ vài phút tới 2 giờ. Trường hợp chậm nhất thì sau khi uống sữa bò
48 giờ tới 1 tuần. Phần lớn các trẻ em khi bị dị ứng sữa bò sẽ có các triệu chứng
chung như: Đau quặn bụng thường xuyên (quấy khóc > 3 giờ mỗi ngày), ít nhất 3
ngày/tuần suốt hơn 3 tuần trẻ bị DƯĐSB có thể bị từ 1 đến nhiều các triệu chứng,
trong đó: Viêm da dị ứng; Sưng môi hoặc mi mắt (phù mạch); Mề đay (không liên


quan nhiễm trùng/thuốc); nôn ói, tiêu chảy, táo bón (có hoặc không phát ban);
phân có máu và gây nên tình trạng thiếu máu, thiếu sắt; Chảy nước mũi (viêm tai
giữa); Ho mạn tính; Thở khò khè (không liên quan nhiễm trùng đường hô hấp) …
Một số trẻ có phản ứng dị ứng chậm dễ bị bỏ qua hoặc nhầm với bệnh khác; Một
số biểu hiện kéo dài như nôn trớ, tiêu chảy kéo dài, táo bón, thiếu máu thiếu sắt,
suy dinh dưỡng lâm sàng có thể chưa chú ý tới nguyên nhân dị ứng sữa bò;
DƯĐSB thường chẩn đoán nhầm lẫn với tình trạng bất dung nạp Lactose. Đây là 2
tình trạng khác nhau. DƯĐSB là phản ứng miễn dịch với đạm có trong sữa bò. Bất
dung nạp lactose không phải là tình trạng phản ứng miễn dịch, nó xảy ra ở người
không hấp thụ được đường trong sữa-đường lactose. Cả hai tình trạng trên đều gây
ra các rối loạn tiêu hóa như tiêu chảy, đầy bụng khó tiêu… nhưng phát ban, chàm
hay khó thở chỉ gặp ở DƯĐSB. Để chẩn đoán chính xác bệnh, khi có một trong các
dấu hiện trên, các bà mẹ cần nhanh chóng đưa trẻ đến gặp các bác sĩ chuyên khoa
để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Cách điều trị
Tại hội thảo, Giáo sư Colin Rudolph, Đại học California, San Francisco, Mỹ,
nhà khoa học hàng đầu về dinh dưỡng và tiêu hóa nhi cho biết, điều trị
DƯĐSB là cần loại bỏ đạm sữa bò nguyên vẹn trong chế độ ăn của trẻ và dùng
công thức đạm thủy phân toàn phần hoặc amino axit thay thế (được chứng minh là
dung nạp tốt với 90% trẻ dị ứng đạm sữa bò).
GS.TS.BA Nguyễn Gia Khánh cũng khẳng định, khi trẻ có các dấu hiệu của
DƯĐSB phụ huynh cần đưa trẻ đến gặp bác sĩ chuyên khoa. Điều trị DƯĐSB ưu
việt nhất là điều chỉnh chế độ dinh dưỡng cho trẻ bằng cách cho sử dụng sữa công
thức eHF (sữa thủy phân toàn phần). Sữa thủy phân là sữa mà thành phần protein
(đạm) sữa bò trong sữa đã được chia nhỏ ra cho bé dễ tiêu hóa và hấp thụ. Sản
phẩm dinh dưỡng công thức đạm thủy phân một phần không dùng trong điều trị trẻ
mắc chứng dị ứng này. Vì hệ tiêu hóa của các bé vẫn sẽ tấn công các protein và sẽ
gây nên các hiện tượng dị ứng như nổi mẫn, tiêu chảy, đầy hơi, nôn trớ, không tăng
cân… bị nặng có thể bị sốc phản vệ, nguy hiểm cho bé.
Thức ăn bổ sung của trẻ trên 6 tháng tuổi cần kiểm soát để không có protein sữa bò

cho tới khi test thử thách âm tính. Các thức ăn khác cũng phải đưa vào từng loại
với số lượng ít một khi mẹ còn đang cho bú nhưng ít nhất phải sau 16-17 tuần tuổi,
chậm cho ăn các thức ăn có nguy cơ dị ứng cao như trứng, cá, bột mỳ, không có
hiệu quả phòng dị ứng.

×