Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.65 KB, 101 trang )

1







Luận văn


Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động
kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam
2

LỜI NÓI ĐẦU
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời
từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự
ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Trong khi thẻ ngân
hàng đã được sử dụng phổ biến và là một phần không thể thiếu trong cuộc
sống hàng ngày của đông đảo dân chúng trên thế giới thì tại thị trường Việt
Nam nó mới thu hút được sự quan tâm, đầu tư của các ngân hàng thương
mại trong nước vài năm trở lại đây. Hướng tới đối tượng khách hàng cá
nhân, thẻ trở thành công cụ quan trọng trong chiến lược phát triển hoạt động
ngân hàng bán lẻ của các ngân hàng. Phát hành thẻ ghi nợ và triển khai hệ
thống ATM là lựa chọn của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai
đoạn ban đầu gia nhập thị trường thẻ, làm bàn đạp cho ngân hàng tiếp tục
triển khai hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế.
Cùng với nhịp phát triển sôi động trên thị trường, hàng ngày qua các
phương tiện thông tin, người dân được tiếp cận với nhiều thông tin về thẻ,


đặc biệt là những thông tin liên quan đến rủi ro phát sinh trong quá trình sử
dụng thẻ. Theo thống kê của tổ chức thẻ quốc tế Visa, năm 2004, giá trị giả
mạo thẻ Visa của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong lĩnh vực phát
hành lên tới hơn 100.000 USD, tăng 34 % so với năm 2003, trong lĩnh vực
thanh toán thẻ là 381.000 USD. Tỷ lệ giả mạo trong phát hành và thanh toán
thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam thường xuyên cao hơn tỷ lệ
trung bình của thế giới. Theo khuyến cáo của các tổ chức thẻ quốc tế, sau
khi chính phủ các nước trong khu vực như Thái Lan, Malayxia, Singapore
áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh thẻ thì
các tổ chức tội phạm thẻ bắt đầu chuyển hướng sang các thị trường mới
trong khu vực trong đó có Việt Nam.
3

Tham gia hoạt động kinh doanh thẻ từ những ngày đầu tiên tại Việt
Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam luôn chú trọng phát triển sản
phẩm, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, nâng cao chất lượng dịch
vụ, tiện ích sử dụng thẻ cho khách hàng. Doanh số phát hành, thanh toán và
sử dụng thẻ của ngân hàng Ngoại thương luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao,
chiếm hơn 50% doanh số trên thị trường. Bên cạnh những thành tựu đạt
được, ngân hàng Ngoại thương cũng phải đối mặt với những rủi ro trong quá
trinh kinh doanh thẻ, sự tấn công của các tổ chức tội phạm thẻ quốc tế khi
chúng chuyển hướng sang thị trường Việt nam. Từ năm 2002 đến nay, tình
hình giả mạo trong thanh toán và sử dụng thẻ tại ngân hàng Ngoại thương
đang tăng với tốc độ đáng ngại gây tổn thất cho ngân hàng, ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh doanh, đòi hỏi ngân hàng cần có sự quan tâm thích đáng đến
hoạt động quản lý rủi ro trong quá trình kinh doanh thẻ của ngân hàng mình.
Là một cán bộ phòng Quản lý thẻ ngân hàng Ngoại thương, qua thực
tiễn công tác và với mong muốn cho hoạt động kinh doanh thẻ của
NHNTVN ngày càng an toàn, hiệu quả tôi đã chọn đề tài : " Giải pháp hạn
chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt

Nam " làm đề tài nghiên cứu của mình.
1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ phân tích đánh giá thực trạng kết quả hoạt động kinh
doanh thẻ, thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam. Qua đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm
giảm thiểu tổn thất, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
thẻ tại ngân hàng.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4

 Đối tượng: Hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam giai đoạn 1995 - 2004.
 Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
tại ngân hàng Ngoại thương Việt nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp phương
pháp duy vật lịch sử, điều tra - phân tích - tổng hợp thống kê, kết hợp nghiên
cứu lý thuyết với phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh để phân tích,
chứng minh và đề xuất giải pháp.
4. Đóng góp của luận văn
 Hệ thống hoá lý luận về thẻ ngân hàng và rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh thẻ của ngân hàng.
 Đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động
kinh doanh thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt nam.
5. Kết cấu luận văn
Tên đề tài: " Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam "
Bố cục luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3
chương:

Chương 1: Thẻ ngân hàng và rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại ngân
hàng Ngoại thương Việt nam.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại
ngân hàng Ngoại thương Việt nam.

5



CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

NHNTVN: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Vietcombank, VCB: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
NHPH: Ngân hàng phát hành thẻ
NHTT: Ngân hàng thanh toán thẻ
TCTQT: Tổ chức thẻ quốc tế
NHTM: Ngân hàng thương mại
Amex: American Express
ĐVCNT: Đơn vị chấp nhận thẻ.







6


CHƯƠNG 1: THẺ NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.

1.1 Những vấn đề chung về thẻ ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về thẻ thanh toán
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời
từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự
ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Thẻ ngân hàng là
công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng
thanh toán hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi
của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp. Thẻ ngân hàng còn dùng để thực
hiện các dịch vụ thông qua hệ thống giao dịch tự động hay còn gọi là hệ
thống tự phục vụ ATM.
Theo “ Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng “ ban
hành kèm theo quyết định số 371/1999 QĐ/NHNN ngày 19/10 năm 1999
thì thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành cấp cho
khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và
chủ thẻ.
Thẻ ngân hàng luôn được làm bằng Plastic theo kích cỡ tiêu chuẩn
quốc tế và bao gồm các yếu tố: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo
của nhà phát hành thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực và tên của chủ thẻ. Ngoài ra trên
thẻ còn có thể có tên công ty phát hành thẻ hoặc thêm một số yếu tố khác
theo tiêu chuẩn của Tổ chức hoặc tập đoàn thẻ quốc tế…
7

* Phân loại: Có rất nhiều tiêu thức để phân loại thẻ nhưng chủ yếu
người ta sử dụng theo 2 phương thức chính: Phân loại theo công nghệ sản
xuất và phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ.
 Nếu căn cứ theo công nghệ sản xuất chia thành 3 loại: thẻ in

nổi, thẻ từ và thẻ thông minh:
Thẻ in nổi ( Embossed Card ): Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được
khắc nổi các thông tin cần thiết. Ngày nay loại thẻ này ít được sử dụng vì
công nghệ in quá thô sơ, dễ bị làm giả mà kết hợp với các công nghệ mới
như thẻ từ, thẻ thông minh.
Thẻ từ: là loại thẻ mà các thông tin của chủ thẻ vừa được dập nổi ở
mặt trước của thẻ vừa được mã hoá trong băng từ ở mặt sau của thẻ. Các
thông tin này phải đảm bảo chính xác và khớp với nhau. Thẻ từ hiện nay
đang chiếm phần lớn trong tổng số lượng thẻ đang sử dụng trên thị trường.
Nhược điểm của thẻ từ là số lượng các thông tin được mã hoá không nhiều
và mang tính cố định nên không thể áp dụng kỹ thuật mã hoá an toàn và có
thể bị ăn cắp thông tin bằng các thiết bị nối với máy vi tính.
Thẻ thông minh ( Smart card ): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ, có đặc
tính bảo mật và an toàn rất cao, dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, gắn vào
thẻ một chip điện tử có cấu tạo như một máy tính hoàn hảo. Thông thường
một tấm thẻ thông minh được gắn chip điện tử để thay thế cho dải băng từ
sau thẻ. Cũng có trường hợp thẻ thông minh có cả Chip điện tử và băng từ.
Chip điện tử độc lập với thẻ và được gắn trên bề mặt của thẻ, về bản chất
gồm 2 loại chip: chip bộ nhớ và chip xử lý dữ liệu. Chip bộ nhớ lưu trữ toàn
bộ các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thanh toán thẻ trong mỗi lần
sử dụng còn chip xử lý dữ liệu có khả năng bổ sung, xoá bỏ hoặc điều chỉnh
các thông tin trong bộ nhớ. Thẻ thông minh gắn chip xử lý dữ liệu có khả
8

năng vừa lưu trữ các thông tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích luỹ đồng thời
lưu trữ cả số liệu về những lần giao dịch của chủ thẻ tại ĐVCNT. Tính năng
vượt trội này của thẻ thông minh giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân
hàng và các trung gian thanh toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và
thông tin của chủ thẻ cũng như việc cập nhật thông tin liên quan tới thẻ giờ
đây đã được thực hiện ngay tại ĐVCNT. Tuy nhiên, do sử dụng công nghệ

mới nên giá thành cao, hệ thống máy móc chấp nhận thanh toán thẻ này
cũng đắt nên sử dụng còn chưa phổ biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp
nhận thanh toán thẻ này mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển dù các tổ
chức thẻ quốc tế vẫn khuyến khích các ngân hàng thành viên phát hành và
thanh toán lại thẻ này nhằm giảm tỷ lệ rủi ro do giả mạo thẻ.
 Nếu căn cứ vào tính chất thanh toán có thể chia thành thẻ tín
dụng ( Credit card ) và thẻ ghi nợ ( Debit card ).
Thẻ tín dụng ( Credit card ) là phương thức thanh toán không dùng
tiền mặt cung cấp cho nguời sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Tại
thời điểm khách hàng thanh toán hàng hóa dịch vụ ngân hàng sẽ đứng ra tạm
ứng thanh toán cho đơn vị cung cấp hàng hoá dịch vụ và sau đó sẽ tiến hành
thu hồi khoản tiền này từ khách hàng sau một khoảng thời gian nhất định
theo thoả thuận giữa ngân hàng và chủ thẻ. Khoảng thời gian kể từ khi thẻ
đuợc dùng để thanh toán hàng hoá dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho
ngân hàng có độ dài tuỳ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của từng tổ chức
thẻ khác nhau. Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn,
thời gian này sẽ trở thành thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được miễn
lãi đối với số dư nợ cuối kỳ. Tuy vậy nếu hết thời gian này mà chủ thẻ vẫn
chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán hết dư nợ cuối kỳ cho ngân hàng thì
chủ thẻ sẽ phải chịu những khoản phí và lãi chậm trả trên số dư nợ còn lại.
9

Sau khi thanh toán hết dư nợ phát sinh trong kỳ, hạn mức tín dụng của chủ
thẻ sẽ được khôi phục như ban đầu. Đây chính là tính chất tuần hoàn của thẻ
tín dụng
Ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành thẻ tín dụng cho khách
hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng. Khả
năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên các tiêu chí như: thu nhập, tình
hình chi tiêu, uy tín, mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính, tài sản thế
chấp … của khách hàng. Khi sử dụng thẻ, thay bằng tiền mặt, chủ thẻ xuất

trình thẻ của mình tại các điểm cung ứng hàng hóa dịch vụ có chấp nhận thẻ
để thanh toán.
Ngoài các sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế thông thường như Visa,
Master vàng, chuẩn để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, các tổ chức
thẻ quốc tế còn đưa ra một sản phẩm thẻ tín dụng đặc biệt phục vụ những
khách hàng có thu nhập rất cao, có khả năng tài chính vững vàng và có mức
chi tiêu lớn. Đó là thẻ thanh toán ( charge card ). Khi sử dụng thẻ thanh toán
khách hàng được hưởng một hạn mức tín dụng đặc biệt cao hoặc không bị
chi phối bởi hạn mức tín dụng nhưng chủ thẻ sẽ phải thanh toán toàn bộ số
tiền phát sinh cho ngân hàng vào ngày đến hạn.
Thẻ ghi nợ ( debit card ): Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ cũng là
một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Nó cho phép khách hàng
tiếp cận với số dư tài khoản của mình qua hệ thống kết nối trực tuyến để
thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các ĐVCNT hoặc thực hiện các giao dịch
liên quan tới tài khoản tại các máy ATM. Mức chi tiêu của chủ thẻ phụ
thuộc chủ yếu vào số dư trong tài khoản. Ngân hàng giữ vai trò cung cấp
dịch vụ cho chủ thẻ và thu phí dịch vụ. Đối với thẻ ghi nợ, giữa ngân hàng
và khách hàng không diễn ra quá trình cho vay tín dụng, không có việc phân
10

loại khách hàng nên mọi khách hàng chỉ cần có tài khoản tại ngân hàng đều
có thể tiếp cận với sản phẩm thẻ ghi nợ của ngân hàng. Chính vì vậy về mức
độ có thể thay thể tiền mặt, thẻ ghi nợ chiếm ưu thế vượt trội so với thẻ tín
dụng.
Thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép
khách hàng có thẻ tiếp cận trực tiếp tới tài khoản tại ngân hàng từ máy rút
tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều giao dịch khác nhau tại máy
ATM bao gồm: rút tiền, chuyển khoản, xem số dư tài khoản, in sao kê, xem
các thông tin quảng cáo… Hệ thống ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ
gửi tiền vào tài khoản của mình ngay tại các máy ATM, đổi séc qua máy rút

tiền tự động, thực hiện nộp hồ sơ cho một khoản vay cũng như tự mình thực
hiện nhiều dịch vụ ngân hàng khác. Cùng với thẻ ATM, hệ thống ATM đã
cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch ngoài giờ làm việc,
ngoài trụ sở ngân hàng và khả năng tự phục vụ.
Theo thời gian, các tổ chức thẻ đã chủ động kết nối hệ thống ATM với
nhau tạo nên một mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực
hiện giao dịch tại nhiều máy ATM hơn. Hiện nay hai hệ thống ATM lớn
nhất trên thế giới là Cirrus của MasterCard và Plus của Visa, sẵn sàng cho
phép thẻ của ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác kết nối, tạo nên một
mạng lưới rộng khắp toàn cầu.
Ngoài hai loại thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ nói trên, một hình thức thẻ
ngân hàng đang ngày càng trở nên phổ biến là thẻ liên kết. Thẻ liên kết là
sản phẩm của một ngân hàng hay tổ chức tài chính kết hợp với một bên thứ
ba và thông thường tên, nhãn hiệu thương mại hoặc logo của bên thứ ba này
cũng đồng thời xuất hiện trên tấm thẻ. Ngoài những đặc điểm sẵn có của thẻ
ngân hàng thông thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn hơn với khách hàng bởi
11

chính những lợi ích phụ trội do bên thứ ba đem lại. Ví dụ thẻ Visa co-brand
do ngân hàng Standard Chartered và tập đoàn thời trang Espirit phát hành
mang lại cho chủ thẻ những tiện ích phụ trội riêng biệt như được chăm sóc
sắc đẹp miễn phí, giảm giá 20% cho tất cả các mặt hàng hiệu Espirit trong 3
tháng đầu tiên, chương trình điểm thưởng tích luỹ theo lượng tiền thanh toán
bằng thẻ….
 Nếu căn cứ vào phạm vi sử dụng của thẻ có thể chia thành thẻ
trong nước và thẻ quốc tế.
Thẻ trong nước là thẻ do các ngân hàng, tổ chức tín dụng phát hành sử
dụng thay thế tiền mặt để thanh toán hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt trong
phạm vi quốc gia. Thông thường đó là thẻ ghi nợ nội địa của các ngân hàng
thương mại phát hành sử dụng tại hệ thống máy ATM và mạng lưới các

ĐVCNT của ngân hàng phát hành và ngân hàng đại lý, ngân hàng liên kết
với ngân hàng phát hành đó trong một nước.
Thẻ quốc tế là thẻ mang thương hiệu của các tổ chức thẻ quốc tế do
các ngân hàng, tổ chức tín dụng làm đại lý phát hành. Thẻ quốc tế có thể
được sử dụng trên phạm vi trong nước và quốc tế, tại bất kỳ các ĐVCNT
hoặc máy ATM có mang biểu tượng chấp nhận thanh toán thẻ đó. Để phát
hành thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành thẻ phải đăng ký và được chấp nhận
làm thành viên của Tổ chức thẻ quốc tế, tuân thủ chặt chẽ các quy định trong
việc phát hành và thanh toán thẻ do Tổ chức thẻ quốc tế đó ban hành. Có 2
loại thẻ quốc tế là thẻ ghi nợ quốc tế và thẻ tín dụng quốc tế.
1.1.2 Lịch sử phát triển thẻ ngân hàng:
Để có được các sản phẩm đa dạng như hiện nay, lĩnh vực thẻ ngân
hàng đã trải qua nhiều giai đoạn thử nghiệm và phát triển. Tuy nhiên, xét về
12

mặt thời gian, kinh doanh thẻ là một ngành kinh doanh tương đối mới mẻ, ra
đời và bắt đầu phát triển từ những năm đầu thế kỷ 20 cho tới nay.
Thẻ ngân hàng được hình thành tại Mỹ từ thói quen cho khách hàng
mua chịu của các chủ tiệm bán lẻ trên cơ sở uy tín của khách đối với cửa
hàng. Thông thường các chủ tiệm theo dõi khách hàng một cách riêng rẽ, ghi
rõ các khoản mà mỗi khách hàng sẽ phải thanh toán và chấp nhận cho khách
hàng trả tiền sau vì họ tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua.
Tuy nhiên vốn của các cửa hàng thường không đủ lớn, dần dần các chủ tiệm
nhận thấy mình không có đủ khả năng cho khách hàng nợ và trả tiền sau liên
tục như vậy. Chính yếu tố này đã góp phần giúp các tổ chức tài chính hình
thành ý tưởng về sản phẩm thẻ. Với năng lực về tài chính, khả năng quay
vòng vốn và kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, các tổ
chức ngân hàng tài chính có đủ khả năng cung cấp cho khách hàng những
khoản vay miễn lãi trong một thời gian nhất định.
Vào những năm 1914, tổ chức chuyển tiền Western Union của Mỹ lần

đầu tiên cung cấp cho các khách hàng đặc biệt của mình dịch vụ thanh toán
trả chậm. Công ty này phát hành những tấm kim loại có chứa các thông tin
in nổi thực hiện hai chức năng:
 Nhận diện và phân biệt khách hàng
 Cung cấp và cập nhật dữ liệu về khách hàng, bao gồm các
thông tin về tài khoản và các giao dịch thực hiện.
Các tổ chức khác cũng nhận ra giá trị của loại hình dịch vụ nói trên và
chỉ trong một thời gian ngắn sau đó rất nhiều đơn vị như nhà ga, khách sạn
cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa chọn cung cấp dịch vụ trả
chậm cho khách hàng của mình. Trong số đó, tập đoàn xăng dầu của Mỹ cho
13

ra đời tấm thẻ mua xăng đầu tiên vào năm 1924 cho phép người dân sử dụng
thẻ này để mua xăng dầu tại các cửa hàng trên toàn quốc.
Tiếp theo các tổ chức cung cấp hàng hóa dịch vụ, các ngân hàng
nhanh chóng bước vào thị trường thẻ với mục tiêu nhanh chóng nhân rộng
hình thức thanh toán này trên cơ sở mối quan hệ sẵn có giữa các đơn vị cung
câp hàng hóa dịch vụ trên cả nước với hệ thống đại lý rộng khắp của ngân
hàng.Với tốc độ phát triển rất nhanh chỉ vài năm sau đó hơn 100 ngân hàng
trên nước Mỹ cùng thực hiện cung cấp dịch vụ thanh toán trả chậm, tiền thân
của thẻ tín dụng sau này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển sản phẩm quá
nhanh, các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính đã gặp những bài học
xương máu và buộc phải xem lại chiến lược kinh doanh của đơn vị mình.
Vào năm 1950, Diners Club phát hành tấm thẻ tín dụng đầu tiên được
làm bằng chất liệu Plastic. Sau này Frank NcNamara, người sáng lập ra
Diners Club kể lại là ông đã từng trải qua một trường hợp rất lúng túng khi
ông đi ăn tại một cửa hiệu ở New York nhưng quên mang theo ví. Chính
việc phải cam kết thanh toán sau đó đã gợi lên ý tưởng kinh doanh thẻ đối
với Frank NcNamara.
Sau Diners Club, vào năm 1958, công ty American Express cũng

tham gia vào thị trường thẻ ngân hàng và đã thiết lập thành công tên tuổi của
mình trong lĩnh vực mới mẻ này. Cũng giống như các đối thủ cạnh tranh,
American Express chú trọng phát triển thẻ trong lĩnh vực giải trí và du lịch,
hai lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh chóng tại Mỹ và châu Âu trong thời
kỳ sau chiến tranh thế giới.
Đến trước năm 1970, khái niệm thẻ tín dụng đã được mọi người biết
đến và nhanh chóng được đón nhận. Năm 1966, ngân hàng Bank of
American chính thức trao quyền phát hành thẻ BankAmerican của mình cho
14

các ngân hàng khác thông qua việc ký các hợp đồng đại lý, khởi đầu cho giai
đoạn tăng tốc trong phát triển dịch vụ thẻ. Người dân đi du lịch nhiều hơn
trên nước Mỹ và cả nước ngoài mà không còn lo lắng tới việc phải có sẵn
tiền để thanh toán. Thẻ tín dụng lúc này không chỉ mặc định dành cho những
đối tượng giàu có và nổi tiếng mà trở thành một phương tiện thanh toán
thông dụng. Thương hiệu BankAmerican với một loạt sản phẩm có ba màu
xanh, trắng, vàng đặc trưng ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu
dùng. Bằng việc ký hợp đồng đại lý và cho các ngân hàng khác hưởng phí
thanh toán chuyển đổi, Bank of American đã nhanh chóng tăng được lượng
thẻ phát hành cũng như ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các ĐVCNT trên
khắp nước Mỹ và mở rộng ra thế giới. Tới năm 1977, thẻ của ngân hàng
Bank of American thực sự được chấp nhận trên toàn cầu và thay vì tên
BankAmerican, tên thẻ Visa ra đời với màu sắc đặc trưng vẫn là xanh lam,
trắng và vàng.
Cũng vào năm 1966, 3 nhóm ngân hàng lớn phía đông nước Mỹ quyết
định hợp tác thành lập tập đoàn kinh doanh tín dụng riêng, có tên là
Interbank Card Association ( ICA ). Sau này ICA được đổi thành
MasterCard. ICA ban hành các quy định về cấp phép giao dịch, thanh toán
bù trừ, các biện pháp Marketing, bảo mật và các vấn đề liên quan tới luật
pháp nhằm vận hành công việc một cách có hiệu quả.

Năm 1968, ICA bắt đầu chiến lược mở rộng kinh doanh trên phạm vi
toàn cầu thông qua việc liên kết với ngân hàng Banco National của Mexico.
Sau đó ICA tiếp tục tìm kiếm các đối tác tại thị trường châu Âu và cho ra
đời thẻ Eurocard. Cũng vào năm 1968, ICA kết nạp thêm thành viên là một
số ngân hàng tại Nhật nhằm từng bước thâm nhập và nắm bắt thị trường
Đông Á này.
15

Như vậy, thẻ ngân hàng ra đời từ nhu cầu thanh toán và phát triển dựa
trên nền tảng công nghệ cũng như chiến lược thay thế tiền mặt trong lưu
thông. Thực tế cho thấy, thẻ ngân hàng là sự phát triển tất yếu trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng, đồng thời đã và đang phản ánh sự phát triển của khoa
học công nghệ và văn minh xã hội. Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu
của thế giới về khoa học kỹ thuật, nhất là về công nghệ thông tin, hệ thống
thẻ ngày càng hoàn thiện và phát triển. Cùng với mạng lưới thành viên và
khách hàng phát triển hàng ngày, các TCTQT đã xây dựng hệ thống xử lý
giao dịch và trao đổi thông tin toàn cầu về phát hành, thanh toán, cấp phép,
tra soát, khiếu kiện và quản lý rủi ro. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ
USD mỗi năm, thẻ ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và
séc trong hệ thống thanh toán toàn cầu. Đây là thành công đáng kể đối với
một ngành kinh doanh mới chỉ có vài thập kỷ hình thành và phát triển.
1.1.3. Các thành phần tham gia hoạt động kinh doanh thẻ
Hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng trong nước
có sự tham gia chặt chẽ của 4 thành phần cơ bản là: ngân hàng phát hành
thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ
(ĐVCNT). Đối với thẻ quốc tế còn thêm một thành phần nữa là các Tổ chức
thẻ quốc tế. Mỗi chủ thể đóng vai trò quan trọng khác nhau trong việc phát
huy tối đa tính năng phương tiện thanh toán hiên đại không dùng tiền mặt
của thẻ ngân hàng.
Tổ chức thẻ quốc tế là đơn vị đứng đầu quản lý mọi hoạt động và

thanh toán thẻ trong mạng lưới của mình. Đây là hiệp hội các tổ chức tài
chính, tín dụng lớn có mạng lưới hoạt động rông khắp và đạt được sự nổi
tiếng với thương hiệu và sản phẩm đa dạng như: tổ chức thẻ Visa, tổ chức
thẻ MasterCard,công ty thẻ American Express, công ty thẻ JCB, công ty thẻ
16

Diners Club, công ty Mondex…. Tổ chức thẻ quốc tế đưa ra những quy định
cơ bản về hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung
gian giữa các tổ chức và các công ty thành viên trong việc điều chỉnh và cân
đối các lượng tiền thanh toán giữa các công ty thành viên.
Ngân hàng phát hành là ngân hàng tự mình phát hành thẻ mang
thương hiệu riêng hoặc được tổ chức thẻ quốc tế, công ty thẻ trao quyền phát
hành thẻ mang thương hiệu của những tổ chức và công ty này. Ngân hàng
phát hành là ngân hàng có tên in trên thẻ do ngân hàng đó phát hành thể hiện
đó là sản phẩm của mình. Ví dụ như ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phát
hành thẻ nội địa Connect 24 và phát hành các loại thẻ tín dung quốc tế có tên
Vietcombank Visa, Vietcombank MasterCard và Vietcombank American
Express.
Ngân hàng phát hành quy định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ
đối với khách hàng. Ngân hàng có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ
ba là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc
thanh toán và phát hành thẻ tín dụng. Trong trường hợp này, ngân hàng phát
hành tận dụng được ưu thế của bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm
nhập thị trường và những ưu thế về vị trí địa lý. Tuy nhiên cũng phải chịu
chấp nhận rủi ro về tài chính bởi ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho bên thứ ba
làm ngân hàng đại lý của mình trong việc phát hành thẻ. Bên thứ ba khi ký
kết hợp đồng đại lý với ngân hàng phát hành được gọi là ngân hàng đại lý
phát hành. Nếu tên của ngân hàng đại lý xuất hiện trên tấm thẻ của khách
hàng thì nhất thiết ngân hàng đại lý đó phải là thành viên chính thức của tổ
chức thẻ hoặc công ty thẻ quốc tế.

Ngân hàng thanh toán: Ngân hàng thanh toán là ngân hàng chấp
nhận các loại thẻ như một phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp
17

đồng chấp nhận thẻ với các điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ trên địa bàn.
Ngân hàng thanh toán sẽ cung cấp cho các ĐVCNT thiết bị phục vụ cho việc
thanh toán thẻ, hướng dẫn đơn vị cách thức vận hành, chấp nhận thanh toán
thẻ cũng như quản lý và xử lý những giao dịch thẻ tại các đơn vị này. Thông
thường ngân hàng thanh toán sẽ thu từ các ĐVCNT một mức phí chiết khấu
cho việc chấp nhận thanh toán thẻ của đơn vị, nó có thể tính phần trăm trên
giá trị mỗi giao dịch hoặc tính theo tổng giá trị giao dịch thẻ. Mức chiết khấu
cao hay thấp phụ thuộc vào từng ngân hàng và vào mối quan hệ chiến lược
của ngân hàng với ĐVCNT.
Trên thực tế rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành vừa là
ngân hàng thanh toán thẻ. Với tư cách là ngân hàng phát hành, khách hàng
của họ là chủ thẻ còn với tư cách là ngân hàng thanh toán, khách hàng là các
đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ.
Chủ thẻ: Chủ thẻ là những cá nhân hoặc người được uỷ quyền ( nếu
là thẻ do công ty uỷ quyền sử dụng ) được ngân hàng phát hành thẻ, có tên in
nổi trên thẻ và sử dụng thẻ theo những điều khoản, điều kiện ngân hàng quy
định. Theo thông lệ, mỗi chủ thẻ chính có thể phát hành thêm thẻ phụ, cả thẻ
chính và thẻ phụ cùng chi tiêu chung một tài khoản. Chủ thẻ phụ cũng có
trách nhiệm thanh toán các khoản phát sinh trong kỳ nhưng chủ thẻ chính là
người có trách nhiệm thanh toán cuối cùng đối với ngân hàng. Chủ thẻ sử
dụng thẻ của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị cung ứng
hàng hoá, dịch vụ có chấp nhận thẻ ( ĐVCNT), các điểm ứng tiền mặt thuộc
hệ thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại máy rút
tiền tự động. Đối với thẻ tín dụng, sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ
theo quy định của từng ngân hàng phát hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê (
statement ). Sao kê là bảng thông báo chi tiết các giao dịch chi tiêu sử dụng

18

thẻ của chủ thẻ trong kỳ sao kê, số dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán
cũng như số tiền thanh toán tối thiểu mà khách hàng phải thanh toán trong
kỳ cho ngân hàng và các thông báo liên quan đến việc sử dụng thẻ. Căn cứ
vào các thông tin trên sao kê, nếu không có gì thắc mắc chủ thẻ sẽ thực hiện
việc thanh toán sao kê cho ngân hàng phát hành thẻ, ngược lại chủ thẻ có
quyền khiếu nại đối với các thông tin, các giao dịch không chính xác hoặc
không thực hiện gửi tới ngân hàng yêu cầu được giải đáp.
Đơn vị chấp nhận thẻ ( ĐVCNT ): Các đơn vị cung ứng hàng hoá
dịch vụ ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ như một phương tiện thanh toán
được gọi là đơn vị chấp nhận thẻ ( ĐVCNT ). Các ngành kinh doanh của các
ĐVCNT trải rộng từ những cửa hiệu bán lẻ đến các nhà hàng ăn uống, khách
sạn, sân bay Tại nhiều nước trên thế giới khi thẻ ngân hàng đã trở thành
một phương thức thanh toán thông dụng, chúng ta có thể nhìn thấy những
biểu trưng của thẻ xuất hiện rộng rãi tại các cửa hàng. Ở Việt Nam, các
ĐVCNT tập trung chủ yếu tại các ngành hàng, dịch vụ phục vụ cho người
nước ngoài như hàng thủ công mỹ nghê, nhà hàng, khách sạn, du lịch, các
đại lý bán vé máy bay. Mặc dù phải trả cho ngân hàng thanh toán một tỷ lệ
phí chiết khấu nhất định nhưng bù lại các ĐVCNT thông qua đó thu hút
được một khối lượng khách hàng lơn, bán được nhiều hàng hơn qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như lợi nhuận của đơn vị.
Để trở thành ĐVCNT của một ngân hàng nhất thiết đơn vị đó phải có
tình hình tài chính tốt và có năng lực kinh doanh. Cũng như các ngân hàng
phát hành thẩm định khách hàng trước khi phát hành thẻ, ngân hàng thanh
toán cũng tiến hành đánh giá lựa chọn ĐVCNT. Chỉ có những đơn vị có hiệu
quả kinh doanh cao, có khả năng thu hút được nhiều giao dịch thanh toán thẻ
19

thì ngân hàng mới có thể thu hồi được vốn đầu tư cho các đơn vị đó và có

lãi.

1.1.4. Các hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng thương mại
Có thể mô hình hóa chu trình hoạt động kinh doanh thẻ theo sơ đồ
sau đây:
Sơ đồ 1-1 : Quy trình sử dụng và thanh toán thẻ


Hoạt động phát hành: Hoạt động phát hành của ngân hàng bao
gồm việc quản lý và triển khai toàn bộ quá trình phát hành thẻ, sử dụng thẻ
và thu nợ khách hàng. Ba quá trình này có vai trò quan trọng như nhau, có
liên quan chặt chẽ đến việc phục vụ khách hàng và quản lý rủi ro cho ngân
hàng. Các tổ chức tài chính, các ngân hàng phát hành thẻ phải xây dựng các
quy định về việc sử dụng thẻ và thu hồi nợ: số tiền thanh toán tối thiểu, ngày
sao kê, thời gian ân hạn, các loại phí và lãi, hạn mức tín dụng tối đa, tối
thiểu, các chính sách ưu đãi đối với chủ thể…….
Chủ thẻ



Đơn vị chấp
nhân thẻ
Ngân hàng
thanh toán
Tổ chức
thẻ quốc tế
1
-
mua hàn
g hóa d

ịch vụ

3
-
tạm
ứng
2
-

hóa
đơn
giao
dịch
Ngân hàng
phát hành


8

Sao

4
-
g
ửi dữ liệu

5
-
báo có


6
-
g
ửi dữ liệu

7

báo n



9
thanh
toán
20

Về cơ bản hoạt động phát hành thẻ gồm các nội dung chính sau đây:
 Tổ chức các hoạt động tiếp thị để đưa sản phẩm vào thị trường.
 Thẩm định khách hàng phát hành thẻ.
 Cấp hạn mức tín dụng đối với thẻ tín dụng.
 Thiết kế và tổ chức mua thẻ trắng.
 In nổi, mã hóa thẻ và tạo số PIN cho khách hàng.
 Quản lý thông tin khách hàng.
 Quản lý hoạt động sử dụng thẻ của khách hàng.
 Quản lý tình hình thu nợ của khách hàng.
 Cung cấp dịch vụ khách hàng.
 Tổ chức thanh toán bù trừ với các tổ chức thẻ quốc tế.
Triển khai hoạt động phát hành thẻ, ngoài việc hưởng phí phát hành
thẻ thu được từ chủ thẻ, các ngân hàng phát hành còn được hưởng khoản phí
trao đổi do ngân hàng thanh toán chia sẻ từ phí thanh toán thông qua các tổ

chức thẻ quốc tế. Đây là phần lợi nhuận cơ bản của các tổ chức tài chính,
ngân hàng phát hành thẻ. Trên cơ sở nguồn thu này, các tổ chức tài chính,
ngân hàng phát hành thẻ đưa ra được những chế độ miễn lãi và ưu đãi khác
cho khách hàng nhằm thu hút khách hàng cũng như khuyến khích chi tiêu
thẻ.

Hoạt động thanh toán: Cùng với phát hành, hoạt động thanh toán
thẻ đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của dịch vụ thẻ. Việc triển khai
hoạt động thanh toán thẻ của một ngân hàng không chỉ là thu lợi nhuận từ
21

nguồn phí chiết khấu tính trên giá trị giao dịch thanh toán bằng thẻ từ các
ĐVCNT mà còn là mong muốn cung cấp cho khách hàng một dịch vụ hoàn
chỉnh, tạo cơ sở thuận lợi cho việc sử dụng thẻ. Đối với TCTQT và các
thành viên, việc khuyến khích hoạt động thanh toán thẻ thông qua mở rộng
ĐVCNT có ý nghĩa rất quan trọng.
Thứ nhất: Hoạt động thanh toán một loại thẻ nhất định nào đó được
mở rộng trên một thị trường, điều đó có nghĩa là chủ thẻ có thể sử dụng thẻ
một cách dễ dàng và thuận tiện hơn. Khi mà nhu cầu du lịch, giải trí của
người dân nói chung ngày càng tăng thì việc phát triển thị trường thanh toán
thẻ ra nước ngoài càng trở nên cấp thiết. Số lượng ĐVCNT lớn, có mặt tại
khắp các thị trường tiềm năng và các ngành hàng kinh doanh đồng nghĩa
rằng thẻ ngân hàng được chấp nhận thanh toán tại nhiều nơi hơn, dễ dàng
hơn, thuận tiện hơn và mang lại lợi ích nhiều hơn cho cả chủ thẻ, các
ĐVCNT và sau đó là các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ.
Thứ hai: Không chỉ mở rộng thị trường thanh toán bằng cách ký kết
hợp đồng thanh toán với các ĐVCNT mới, một ngân hàng thanh toán thẻ
đặc biệt quan tâm tới việc duy trì mối quan hệ với các ĐVCNT sẵn có, thể
hiện trong công tác chăm sóc khách hàng. Nếu không có những chính sách
thích hợp, những dịch vụ hỗ trợ tốt, tạo điều kiện cho các ĐVCNT có thể

chấp nhận thanh toản thẻ một cách dễ dàng, được ngân hàng báo có đúng
cam kết sau khi đã trừ đi tỷ lệ phí chiết khấu, các ngân hàng khác sẽ tranh
thủ cơ hội này để chào những dịch vụ hoàn hảo hơn tới các ĐVCNT. Như
vậy, khách hàng trong hoạt động thanh toán sẽ giảm đi, mục tiêu thu lợi của
các ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng sâu sắc.
Hiện nay hoạt động thanh toán thẻ trên thị trường quốc tế đã phát triển
ở mức độ rất cao với trên hàng trăm nghìn ĐVCNT tại hơn 200 quốc gia,
22

chấp nhận thẻ mang các thương hiệu nổi tiếng thế giới như Visa,
MasterCard, American Express,, Diners Club, JCB và nhiều loại thẻ quốc tế
và ngân hàng nội địa khác. Tại Việt nam tuy thẻ ngân hàng còn mới mẻ
nhưng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của một lượng lớn khách nước
ngoài cũng như thị trường nội địa càng phát triển, số lượng các ngân hàng
thanh toán thẻ tính đến năm 2002 đã đạt khoảng 13 ngân hàng với mạng lưới
hơn 5000 ĐVCNT trên toàn quốc. Hoạt động thanh toán thẻ của các ngân
hàng bao gồm các hoạt động chủ yếu sau:
 Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin khách hàng ĐVCNT
 Quản lý hoạt động của mạng lưới ĐVCNT.
 Tổ chức thanh toán các giao dịch sử dụng thẻ cho các ĐVCNT
 Cung cấp dịch vụ khách hàng
 Tổ chức tập huấn kiến thức thanh toán thẻ cho nhân viên các
ĐVCNT
 Cung cấp trang thiết bị , vật tư phục vụ cho công tác thanh toán
thẻ.

Hoạt động quản lý rủi ro: Hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng
phải đối mặt với nhiều loại rủi ro khác nhau: thẻ giả, đánh cắp thông tin
khách hàng, giao dich giả mạo Những rủi ro đó ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi nhuận, uy tín của ngân hàng phát hành thẻ và gây phiền nhiễu cho chủ

thẻ. Chính vì vậy ngân hàng cần có sự quan tâm đặc biệt đến hoạt dộng quản
lý rủi ro. Bộ phận quản lý rủi ro tại các ngân hàng có hoạt động kinh doanh
thẻ được coi là bộ phận xương sống (backbone) trong hoạt động thẻ, bao
gồm các chức năng chính sau:
23

 Ngăn ngừa và điều tra các hành vi sử dụng thẻ giả mạo.
 Quản lý danh mục các tài khoản liên quan tới những thẻ đã
được thông báo mất cắp, thất lạc.
 Xây dựng các kế hoạch theo dõi việc bảo mật phôi thẻ, thẻ đã
in, thẻ hỏng, thẻ bị thu hồi.
 Cập nhật thông tin trên các Danh sach thẻ mất cắp, thất lạc của
Tổ chức thẻ quốc tế.
 Hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền liên quan trong việc
điều tra, xử lý các hành vi vi pham hợp đồng, giả mạo.
 Tổ chức tập huấn cho nhân viên ĐVCNT và chủ thẻ về các biện
pháp phòng ngừa giả mạo.
Kinh doanh thẻ ngân hàng càng phát triển thì lĩnh vực quản lý rủi ro
càng được đầu tư nhiều hơn. Các chuyên gia trong lĩnh vực này thường là
những người có kinh nghiệm và thực sự am hiểu về thẻ và công nghệ vì chỉ
có vậy họ mới có thể ngăn ngừa, dự đoán và phát hiện các hành vi giả mạo
trong lĩnh vực thẻ.
Marketing và dịch vụ khách hàng: Cũng như những ngành nghề
kinh doanh khác, kinh doanh thẻ ngân hàng đòi hỏi chú trọng đáng kể vào
công tác Marketing và dịch vụ khách hàng. Về lý thuyết, Marketing và dịch
vụ khách hàng trong kinh doanh thẻ là khái niệm tương đối rộng, bao gồm
toàn bộ các phương thức để tìm kiếm khách hàng (ĐVCNT và chủ thẻ ),
giúp họ tiếp cận, quyết định và lựa chọn phương thức thanh toán phi tiền
mặt này và trở thành khách hàng lâu dài của ngân hàng
Hoạt động Marketing bao gồm các hoạt động cơ bản sau:

24

 Tiếp xúc với các đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ có tiềm
năng cho hoạt động thẻ, thuyết phục họ ký kết hợp đồng chấp nhận thanh
toán thẻ.
 Cung cấp dịch vụ cho các ĐVCNT : lắp đặt thiết bị đọc thẻ,
hướng dẫn quy trình nghiệp vụ chấp nhận thẻ, bảo trì bảo dưỡng máy móc
thiết bị thanh toán thẻ
 Tiến hành việc quảng cáo cho các ĐVCNT nói chung hoặc các
ĐVCNT tiềm năng cùng với chương trình quảng cáo, khuyếch trương thẻ
 Xây dựng chính sách khuyến mãi hợp lý đối với các ĐVCNT
bằng cách xếp hạng, tính điểm phục vụ hoặc lượng giá trị giao dịch tại đơn
vị để từ đó có chính sách giảm phí, tỷ lệ chiết khấu cho chủ thẻ và ĐVCNT
 Tiếp xúc với các khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp có tiềm
năng sử dụng thẻ, thuyết phục họ ký kết hợp đồng sử dụng thẻ thông qua
những tiện ích của thẻ ngân hàng nói chung và các ưu thế về dịch vụ ngân
hàng cung cấp.
 Duy trì mối liên hệ với chủ thẻ, khuyến khích tiêu dùng của chủ
thẻ thông qua việc xây dựng các chương trình khuyến mại, điểm thưởng
Tuy nhiên, yếu tố quan trọng và đóng vai trò quyết định trong hoạt
động Marketing chính là yếu tố con người. Các cán bộ Marketing phải là
người vừa vững về nghiệp vụ thẻ,thông hiểu về thị trường thẻ và có khả
năng nghiệp vụ Marketing

Hệ thống công nghệ: Thẻ ngân hàng là một sản phẩm gắn liền với
công nghệ hiện đại. Chính vì vậy hệ thống công nghệ kỹ thuật đóng vai trò
rất quan trọng cho dịch vụ thẻ phát triển và hoạt động hiệu qủa. Giải pháp
25

cho hệ thống công nghệ của từng ngân hàng được lựa chọn phù hợp với định

hướng chiến lược phát triển của ngân hàng đó. Các ngân hàng triển khai dịch
vụ thẻ phải đầu tư một hệ thống công nghệ kỹ thuật theo chuẩn quốc tế bao
gồm hệ thống quản lý thông tin khách hàng, hệ thống quản lý hoạt động sử
dụng và thanh toán thẻ đáp ứng yêu cầu của các tổ chức thẻ quốc tế. Hệ
thống này sẽ kết nối trực tuyến với hệ thống xử lý dữ liệu của các TCTQT.
Bên cạnh đó ngân hàng cũng phải đầu tư hệ thống trang thiết bị phục vụ cho
việc phát hành và thanh toán thẻ như máy thanh toán thẻ tự động, thiết bị
thanh toán thẻ cà tay, máy in thẻ, máy giao dịch tự động ATM, máy cấp
phép thanh toán thẻ CAT, các thiết bị kết nối hệ thống, các thiết bị đầu cuối.
Hệ thống này phải đồng bộ và có khả năng tích hợp cao do giao dịch thẻ
được xử lý nhanh hay chậm cũng phụ thuộc vào tính đồng bộ và tốc độ xử lý
của hệ thống.
1.2. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng thương
mại.
1.2.1. Khái niệm
Trong thuật ngữ tài chính, rủi ro là khả năng mất mát tài chính của
ngân hàng. Rủi ro gắn liền với bất cứ hoạt động tài chính nào và cũng như
bản thân các giao dịch tài chính nó cần được quản lý một cách đúng mực.
Các ngân hàng có thể phải đối mặt với các tổn thất lớn nếu không quản lý
chặt các rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động thẻ của ngân hàng thương mại là các tổn thất
về vật chất hoặc phi vật chất phát sinh trong quá trình kinh doanh thẻ của
ngân hàng, bao gồm cả hoạt động phát hành và hoạt động thanh toán thẻ.
Ngân hàng kinh doanh thẻ có thể nhận thức được các rủi ro ngân hàng có thể
gánh chịu nhưng không thể triệt tiêu được rủi ro vì nó xảy ra ngoài dự kiến

×