Mở đầu
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ đã
giúp cho nền kinh tế phát triển với nhiều nhà máy công nghiệp lớn thì cũng gây ra
nhiều ảnh hởng có hại đến môi trờng. Các khu công nghiệp này đã và đang là
những nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trờng sống của chúng ta với
những rác thải công nghiệp, nớc thải, bụi khói lò, tiếng ồn,ở trong rác thải, nớc
thải công nghiệp có các hợp chất hữu cơ khó bị phân huỷ và có khả năng tích luỹ
sinh học làm ô nhiễm nguồn nớc, ô nhiễm môi trờng gây ảnh hởng đến đời sống
và sức khoẻ con ngời.
Trong công nghiệp giấy, dịch đen sau nấu bột và nớc thải ở các khâu trong
quá trình sản xuất đều có hàm lợng các hợp chất hữu cơ cao ngoài ra còn có nhiều
hoá chất khác độc hại nếu không xử lý tốt thải ra môi trờng thì sẽ gây ô nhiễm lớn
cho môi trờng xung quanh. ở các nớc phát triển, các nớc tiên tiến thì các nhà máy
làm việc với dây chuyền khép kín có thêm các khâu thu hồi tái sử dụng và xử lý
chất thải. Dịch kiềm đen sau nấu đợc thu hồi đa đi cô đặc, đốt, xút hoá để tái sử
dụng hoá chất; nớc trắng ở xeo, nớc rửa lới và chăn cũng đợc lắng, tuyển nổi để
tận dụng bột và nớc trong, giảm thiểu các chất thải ra môi trờng.
ở Việt Nam, trừ công ty giấy Băi Bằng còn ở các nhà máy khác đều không
có đều các hệ thống thu hồi cô đặc và đốt dịch đen, mà thải trực tiếp ra môi trờng.
Đây là nguồn ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng đối với môi trờng. ở nhà máy giấy
Hoà Bình bột sau nấu đợc rửa khuyếch tán nên sử dụng nhiều nớc. Nớc thải bao
gồm rất nhiều xơ sợi, nhiều dẫn xuất của lignin là các hợp chất cao phân tử vòng
thơm và các hóa chất khác. Đây là các hợp chất rất khó bị phân huỷ mà nớc thải từ
nhà máy không đợc xử lý, lại thải trực tiếp ra sông Đà gây ô nhiễm lớn đến nguồn
nớc. Chính phủ có dự án lấy nớc sông Đà cấp nớc sinh hoạt cho thành phố Hà Nội,
nên nếu không xử lý nớc thải nhà máy có nguy cơ phải dừng sản xuất.
Vì vậy vấn đề xử lý ô nhiễm nớc thải nhà máy giấy nói chung và nhà máy
giấy Hoà Bình nói riêng hiện đang là vấn đề cấp bách. Có rất nhiều phơng pháp để
1
xử lý nớc thải nhà máy giấy, trong đó phơng pháp xử lý sinh học đã mang lại hiệu
quả đáng kể cả về kỹ thuật lẫn kinh tế.
Phần I: Tổng quan
I.1. Sơ lợc Về Ngành Giấy
2
Giấy là sản phẩm có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con ngời. Có thể nói, sự tiến bộ của mỗi quốc gia, nền văn minh của xã hội luôn
gắn liền với sự phát triển của ngành giấy. Hiện nay trên thế giới ngời ta dựa vào l-
ợng tiêu thụ giấy trên đầu ngời mỗi năm để đánh giá sự phát triển của mỗi quốc
gia.
Giấy đợc làm ra từ rất sớm, bắt đầu từ Trung Quốc vào khoảng năm 105,
xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ 7, và đến thế kỷ 16 thì xuất hiện ở châu
Âu, châu Mỹ.
Thế kỷ 20 đợc xem là thời gian phát triển nhanh nhất của ngành giấy với
nhiều kỹ thuật hiện đại nh nấu liên tục, nấu biến tính, tẩy nhiều giai đoạn, ép keo,
tráng phủ
Giấy đợc sản xuất từ bột giấy, bột giấy lại đợc sản xuất ra từ nguyên liệu
ban đầu là các loài thực vật nh gỗ, tre nứa, các loài cây thân thảo Bột giấy có
thành phần hóa học chủ yếu là xenluloza.
ở các loài thực vật nói chung có thành phần chính nh sau: Xenluloza,
hemoxenluloza, lignin và các hợp chất khác.
+ Xenluloza và hemixenluloza là các polisaccarit, xenluloza là một hợp chất còn
hemixenluloza là tập hợp các hợp chất khác nhau. Tuỳ mục đích sử dụng mà yêu
cầu hàm lợng hemixenluloza trong bột khác nhau, và cũng tuỳ theo đó mà ngời ta
sử dụng các phơng pháp chế biến khác nhau để loại bỏ hemixenluloza. Còn
xenluloza là thành phần chính của bột, thành phần chủ yếu tạo nên sự bền vững
của tờ giấy. Cho nên trong quá trình sản xuất ngời ta cố gắng làm sao cho
xenluloza càng ít bị tác động càng tốt và giữ cho hàm lợng xenluloza còn lại trong
bột càng cao càng tốt.
+ Lignin là hợp chất cao phân tử mà mắt xích cơ sở là đơn vị phenylpropan với
một số nhóm định chức khác nhau, có các liên kết khác nhau. Đây là một hợp chất
có chứa vòng thơm có khả năng gây màu cho bột cần phải loại bỏ trong quá trình
sản xuất bột giấy. Và trong quá trình sản xuất bột ngời ta cố gắng tìm mọi điều
kiện kỹ thuật công nghệ phù hợp để làm sao loại bỏ hoàn toàn đợc lignin. Bột sau
nấu đợc đa qua công đoạn rửa, làm sạch, tẩy trắng để thu đợc bột xenluloza cho
giai đoạn sản xuất giấy.
Trong công nghệ sản xuất giấy, nguyên liệu đầu vào là bột xenluloza (có
thể là bột đen hoặc bột trắng). Ngời ta nghiền bột tới độ nghiền thích hợp, pha
3
loãng bột với nồng độ thích hợp, cho thêm các chất phụ gia (để tăng hiệu quả kinh
tế và tạo đợc các tính chất mong muốn của tờ giấy). Sau đó dung dịch bột này đợc
đa lên máy xeo, cho ra sản phẩm cuối cùng là tờ giấy.
I.2. Sơ Lợc Về Nhà Máy Giấy Hoà Bình
Nhà máy giấy Hoà Bình đặt tại xã Dân Hạ, huyện Kì Sơn, tỉnh Hoà Bình,
cách quốc lộ 6 khoảng 2 km, nằm bên cạnh dòng sông Đà. Trớc đây nhà máy giấy
Hoà Bình là một nhà máy sản xuất độc lập, nhng trong những năm gần đây đã sát
nhập với Công ty giấy Việt Trì và trở thành chi nhánh của Công ty giấy Việt Trì.
Nguyên liệu sản xuất chính là tre nứa và gỗ keo, sản phẩm là bột không tẩy,
một phần cung cấp nguyên liệu bột cho công ty giấy Việt Trì, phần còn lại dùng
cho dây chuyền sản xuất giấy cactông sóng ở ngay tại nhà máy. Hàng năm dự tính
nhà máy có thể sản xuất đợc khoảng 3000 tấn bột và 1000 tấn giấy cactông sóng.
Nhng trong thực tế thì mỗi năm, nhà máy chỉ sản xuất đợc khoảng hơn 2200 tấn
bột và gần 1000 tấn giấy, và cũng sản xuất theo đơn đặt hàng từng đợt.
ở nhà máy có một hệ thống ba nồi nấu hình cầu 8m
3
, dới mỗi nồi nấu này
có các bể rửa khuếch tán và mới lắp thêm một nồi nấu hình cầu 25m
3
với máy rửa
chân không thùng quay. Một téc 25m
3
dùng để chứa dịch đen sau nấu dùng cho
hai máy cô đặc, hai máy này có thể làm bốc hơi khoảng 70% nớc để thu đợc dịch
đen 19-22
o
Be làm phụ gia cho sản xuất bê tông. Hiện tại nhà máy có một máy
xéo dài, xeo cáctông 3 lớp với lớp mặt là bột nấu, còn các lớp đế là bột giấy rách
và giấy lề thu hồi.
Nớc thải nhà máy giấy Hoà Bình bao gồm nớc thải từ công đoạn rửa và làm
sạch bột; nớc thải từ lò hơi, cô đặc; nớc thải từ phần ép tấm bột đợc tập trung lại
chảy trong cống ngầm nhà máy. Sau đó chảy ra mơng hở ngoài tờng rào, ở đây kết
hợp với nớc thải từ phần xeo chảy ra sông Đà, lu lợng nớc thải khoảng 300m
3
/
ngày đêm.
I.2.1. Nớc thải từ công đoạn nấu, rửa và làm sạch
Nấu bột là quá trình tách những hợp chất nh lignin, chất trích li,
hemixenluloza ra khỏi gỗ để thu đợc bột chất lợng tốt bằng các tác nhân hoá học
nh dung dịch NaOH, NaOH + Na
2
S, H
2
SO
4
+ NaHSO
3
... Dịch nấu dới tác dụng
của nhiệt độ và áp suất sẽ thẩm thấu vào tế bào gỗ và phản ứng với các thành phần
trong gỗ, cắt đứt các liên kết của chúng với nhau và tách những phần còn lại ra
4
khỏi bột, khuyếch tán chúng ra ngoài môi trờng và hoà tan chúng trong môi trờng
phản ứng. Sản phẩm thu đợc sau nấu bao gồm hai phần: Phần lỏng là dịch đen
gồm có những sản phẩm của phản ứng hoà tan với hàm lợng hữu cơ cao chủ yếu là
hợp chất cao phân tử nên rất độc hại với môi trờng nớc; Phần rắn là bột xenluloza
có màu đen do lingnin vẫn còn sót lại trong bột cha bị hoà tan hết. Bột thu đợc sau
nấu cần đợc rửa và làm sạch để tách phần dịch đen và loại hết mấu mắt, bột sống...
Vì vậy nớc thải ở giai đoạn này có:
+ Chứa nhiều xơ sợi xenluloza, mấu mắt, bột sống và các chất lơ lửng tạo thành
lợng huyền phù khá lớn trong nớc thải.
+ pH cao vì ở đây trong quá trình nấu có sử dụng tác nhân là kiềm, trong dịch
đen sau nấu vẫn còn một lợng kiềm cha phản ứng hết, nó sẽ theo dịch đen và theo
nớc thải ra ngoài sông.
+ Trong quá trình nấu thì tác nhân nấu tấn công vào các thành phần của gỗ, cắt
đứt các liên kết giữa chúng và khuyếch tán các hợp chất có hại với bột ra ngoài
môi trờng. Các chất đó là: hợp chất vòng thơm lignin, các chất trích ly, một phần
hemixenluloza... Do đó trong nớc thải giai đoạn này có hàm lợng chất hữu cơ cao,
mà chủ yếu là những hợp chất hữu cơ vòng thơm cao phân tử khó bị phân huỷ. Vì
vậy nớc thải ở phần này rất độc hại cho môi trờng và có màu xẫm.
I.2.2. Nớc thải ngng từ lò hơi đốt, bộ phận cô đặc
Nớc thải ở giai đoạn này có chứa các kim loại nặng nh Cd, Co, Ni, Pb, As,
Hg, Si... gây ô nhiễm đến môi trờng, ảnh hởng đến sức khoẻ con ngời.
I.2.3. Nớc thải từ bộ phận sản xuất giấy
ở nhà máy giấy Hoà Bình, máy nghiền Hà Lan và nghiền thuỷ lực làm việc
gián đoạn từng mẻ. Giai đoạn nghiền thô có nhiệm vụ đánh tơi nguyên liệu đầu,
đến giai đoạn nghiền tinh làm tăng độ nghiền của bột bằng quá trình phân tơ chổi
hoá. Đồng thời ở giai đoạn này ngời ta cũng cho các chất phụ gia vào để tăng hiệu
quả kinh tế, tăng tính chất tờ giấy và chuẩn bị cho bột lên lới. Nhà máy sử dụng
khoảng 35 kg phèn/tấn giấy; 10 kg nhựa thông/ tấn giấy.
Nớc thải chủ yếu của phần xeo là nớc trắng thoát ra từ giấy trên lới, nớc rửa
chăn, rửa bạt, lới... Nớc thải ở giai đoạn này có chứa nhiều xơ sợi xenlulôza bị thất
thoát theo nớc, ngoài ra còn có một lợng các chất phụ gia đi theo. Vì vậy hàm lợng
chất rắn bao gồm các chất vô cơ, hữu cơ là khá cao.
5
Ngoài các hợp chất hoá học, trong nớc thải còn có chứa các vi khuẩn, nấm
men, tảo, siêu vi trùng, động vật nguyên sinh... Trong đó vi sinh vật chiếm tỉ lệ
khá cao và đóng vai trò chủ yếu trong quá trình phân huỷ các hợp chất hữu cơ
trong nớc thải. Thành phần nhóm loài của các hệ vi sinh vật trong nớc thải phụ
thuộc nhiều vào đặc tính hoá học của nớc thải.
Nh vậy nớc thải của một nhà máy giấy nói chung, nớc thải nhà máy giấy
Hoà Bình nói riêng rất độc hại, cần phải đợc xử lý trớc khi thải ra môi trờng.
I.3. Tác Động Của Nớc Thải Nhà Máy Giấy Đến Môi Trờng
Với thành phần phức tạp và chứa nhiều tác nhân gây ô nhiễm, nớc thải của
nhà máy giấy có ảnh hởng khá nghiêm trọng đến môi trờng. ở nhà máy giấy Hoà
Bình, nớc thải không đợc xử lý lại thải trực tiếp ra dòng sông Đà, gây ô nhiễm cho
nguồn nớc, ảnh hởng đến đời sống của ngời dân và môi trờng xung quanh.
Trong nớc có hàm lợng hợp chất hữu cơ cao, làm tăng BOD do đó làm giảm
oxi hoà tan trong nớc. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm các vi sinh
vật trong nớc chết vì không đủ oxi. Fikret Berker chỉ ra rằng nớc thải nhà máy
giấy có thể gây ra tác hại đến hầu hết các loài vi sinh vật trong nớc sống cách mặt
nớc khoảng 56 km. Mật độ và chủng loại cá ở những nơi này do đó cũng giảm,
đồng thời hoạt động của cá cũng bị thay đổi và suy yếu.
Xơ sợi, các hợp chất hữu cơ, chất rắn lơ lửng trong nớc thải có thể làm ngộ
độc thức ăn của cá trong nớc sông. Khi con ngời ăn phải những con cá này cũng sẽ
bị ngộ độc.
Đối với thực vật sống dới nớc, sự tăng độ đục do có mặt nhiều chất huyền
phù làm tăng nhiệt độ nớc, làm giảm khả năng xuyên qua của ánh sáng do đó làm
giảm tỉ lệ quang hợp và khả năng sản xuất oxi của chúng, và sẽ hạn chế sự phát
triển của các loài thực vật này.
Ngoài ra, sự phân huỷ các xơ sợi, các hợp chất hữu cơ bằng vi khuẩn là
nguyên nhân của sự thối rữa, làm thay đổi màu và mùi của nớc. Đây là môi trờng
tốt cho các vi sinh vật phát triển mạnh, trong đó có cả loài vi sinh vật có hại gây
bệnh truyền nhiễm cho ngời và động vật.
Trong nớc thải nhà máy giấy có cả các kim loại nặng trong đó có một số
kim loại độc hại nh Hg, As, Pb... chúng có hại với các sinh vật trong nớc và với
sức khoẻ con ngời. Khi nớc đợc thải ra sông, những chất này có thể đợc tích luỹ
6
trong cơ thể sinh vật nớc, gây hại cho sinh vật nớc và khi con ngời sử dụng nguồn
nớc đó cũng sẽ bị ảnh hởng.
Đa số thực vật, động vật ở trong nớc chỉ sống đợc ở pH môi trờng trong
khoảng 5 ữ 8, trong khi đó ở nớc thải nhà máy giấy Hoà Bình vẫn còn một phần
kiềm d làm cho pH nớc thải khá cao trong khoảng 8 ữ 11. Khi thải ra sông sẽ làm
ảnh hởng đến hệ động vật thủy sinh.
ảnh hởng của các chất độc trong nớc thải nhà máy giấy đến các loài sinh
vật nớc, đến môi trờng xung quanh và đến sức khoẻ con ngời có thể là ngay lập tức
hoặc lâu dài. Các hợp chất vòng thơm ở trong dịch đen nớc thải có thể theo chuỗi
thức ăn vào cơ thể sinh vật và tích lũy, có thể gây biến dị gen. Tỷ lệ nở trứng của
cá giảm rất nhiều do sự phát triển của các chất nhờn nhớt xung quanh màng trứng
trong phôi trứng nhiễm độc làm ngăn cản sự trao đổi chất qua màng.
Nh vậy nớc thải nhà máy giấy có mức độ ô nhiễm khá cao, gây ảnh hởng
đến môi trờng sinh thái và từ đó có ảnh hởng xấu đến đời sống và sức khỏe con
ngời. Do đó vấn đề xử lý nớc thải nhà máy giấy nói chung nớc và xử lý thải nhà
máy giấy Hoà Bình nói riêng là vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay.
I.4. Các Chỉ Tiêu Cơ Bản Đánh Giá Nớc Thải Công Nghiệp
I.4.1. Nhu cầu oxi sinh hóa (BOD
5
)
Nhu cầu oxi sinh hoá kí hiệu BOD
5
(BOD ở 20
0
C trong 5 ngày) là lợng oxi
do vi sinh vật tiêu thụ để oxi hoá các hợp chất hữu cơ trong nớc ở điều kiện tiêu
chuẩn về nhiệt độ và thời gian. BOD phản ánh lợng chất hữu cơ dễ bị phân huỷ
sinh học ở trong mẫu nớc thải
I.4.2. Nhu cầu oxi hóa học (COD)
Nhu cầu oxi hoá học là lợng oxi cần để oxi hoá hoàn toàn các chất hữu cơ,
vô cơ trong mẫu nớc thải. COD thể hiện toàn bộ các chất có thể bị oxi hoá bắng
tác nhân hoá học. Tỷ lệ BOD/ COD cũng là yếu tố đánh giá mức độ độc hại của n-
ớc thải. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ thì lợng chất hữu cơ khó bị phân huỷ sinh học
càng lớn, tức là mức độ độc hại của nớc thải càng cao.
I.4.3. Hàm lợng oxi hòa tan (DO)
Hàm lợng oxi hoà tan trong nớc đánh giá mức độ ô nhiễm của nớc thải tác
động lên môi trờng. DO thấp dới mức cho phép sẽ ảnh hởng đến sinh vật nớc.
I.4.4. Tổng lợng chất rắn (TS)
7
Tổng chất rắn là lợng chất rắn còn lại trong bình sau khi chng bốc mẫu nớc
thải và sấy mẫu trong tủ sấy ở nhiệt độ nhất định. Bao gồm: Tổng lợng rắn huyền
phù- là phần rắn còn lại trên giấy lọc; Và tổng lợng rắn hòa tan- phần đi qua giấy
lọc. Nó ảnh hởng lớn đến tính chất của nớc vì có chứa nhiều hợp chất hữu cơ khó
phân huỷ. Ngoài ra đối với nớc thải nhà máy giấy do có nhiều xơ sợi nên còn có
chỉ tiêu TS - 70 (là lợng chất rắn lơ lửng có kích thớc lớn hơn 70 àm) để đặc trng
cho hàm lợng xơ sợi trong nớc thải.
I.4.5. pH
pH là 1 chỉ tiêu quan trọng để đánh giá nớc thải vì các quá trình làm mềm
nớc, kết tủa, đông tụ, phân hủy các hợp chất hữu cơ, ăn mòn đều phụ thuộc vào pH
.
Theo TCVN 5945-1995 thì các chỉ tiêu về nớc thải công nghiệp có thể thải
ra môi trờng là :
pH : 5,5 9
BOD
5
: < 50 mg/l
COD : < 100 mg/l
DO : > 2 mg/l
TS : < 100 mg/l
TOCl : < 0.45 mg/l
T
0
C : < 40
0
C
I.5. Xử Lý Nớc Thải Nhà Máy Giấy
I.5.1 Các phơng pháp xử lý nớc thải
Có rất nhiều phơng pháp xử lý nớc thải của nhà máy giấy, nhng hiện nay
chủ yếu ngời ta sử dụng các phơng pháp: lắng, keo tụ và xử lý sinh học.
Phơng pháp lắng nhằm thu hồi chất rắn dạng bột hoặc xơ sợi bằng phơng
pháp lắng, quan trọng ở đây cần chọn thời gian lu nớc thải trong bể lắng thích hợp.
Để giảm thời gian lu nớc thải trong bể lắng ngời ta thờng hay dùng loại bể lắng
tuyển nổi có tải trọng bề mặt từ 5 ữ 10 m
3
/m
2
.h. Nớc thải ở đây đợc thổi khí nén
với áp suất 0,4 ữ 0,6 MPa. Hiệu suất lắng sẽ cao và thời gian lắng sẽ ngắn hơn.
Phơng pháp keo tụ hoá học dựa trên sự tạo thành hạt keo để lắng các hạt rắn
lơ lửng, các chất hữu cơ hoà tan và chất độc. Chất keo tụ thờng là phèn sắt, phèn
nhôm, vôi. Dùng chất trợ keo tụ là các chất polyme làm tăng tốc độ lắng. Với phèn
8
sắt cần pH trong khoảng 5 ữ 11, phèn nhôm cần pH trong khoảng 5 ữ 7 và với vôi
cần pH >11.
Phơng pháp sinh học dùng xử lý các chất hữu cơ hoà tan, các chất này dễ bị
phân huỷ hiếu khí và yếm khí bởi vi sinh vật có trong nớc thải. Trong nớc thải nhà
máy giấy thờng có phần hợp chất hữu cơ khó phân huỷ sinh học, bị phân huỷ hiếu
khí và phân huỷ yếm khí rất chậm bởi các vi khuẩn trong chính nớc thải đó. Ngoài
ra nớc thải ngành giấy tuy giàu hợp chất hữu cơ nhng lại nghèo nitơ và phôtpho, là
những chất dinh dỡng cần thiết cho vi sinh vật. Do đó khi xử lý sinh học cần chú ý
cân bằng dinh dỡng cho vi sinh vật phát triển.
I.5.2. Các nghiên cứu về xử lý nớc thải nhà máy giấy trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu mới về vấn đề xử lý nớc thải
nhà máy giấy đợc đa ra chủ yếu là các nghiên cứu về xử lý bằng phơng pháp sinh
học.
Trong báo cáo nghiên cứu về xử lý kết hợp yếm khí và hiếu khí đối với nớc
thải quá trình sản xuất bột nhiệt cơ của Jukka Rintala và Pertti Vuoriranta [TAPPI
Journal, 1988], thì các ông đã tiến hành nghiên cứu xử lý nớc thải đã qua lắng của
nhà máy liên hợp sản xuất bột và giấy từ bột nhiệt cơ. Kết quả là, ở giai đoạn yếm
khí 60-70% COD hòa tan của nớc thải đợc tách loại với tốc độ là 5-8 kg COD/m
3
.
Và sau giai đoạn xử lý hiếu khí tiếp theo, COD giảm khoảng 80-85%. Còn trong
giai đoạn xử lý đơn, xử lý bằng bùn hoạt tính cũng thu đợc sự giảm COD tơng tự.
Quá trình tạo ra metan ở giai đoạn yếm khí là 0,22 - 0.33 m
3
CH
4
/kg COD đợc loại
bỏ. Ngoài ra quá trình tạo bùn ở quá trình xử lý kết hợp yếm khí và hiếu khí là
khoảng 1/3 so với ở giai đoạn xử lý đơn, xử lý bằng bùn hoạt tính. Sau giai đoạn
xử lý hiếu khí đối với nớc thải đã đợc xử lý yếm khí sẽ làm thay đổi màu của nớc
thải từ màu nâu đen thành màu đỏ. Và các ông cũng đã chỉ ra rằng, việc bổ sung
chất dinh dỡng cho vi sinh vật cũng ảnh hởng lớn đến hiệu quả xử lý. Đối với quá
trình xử lý hiếu khí riêng biệt, khi không bổ sung dinh dỡng, sau xử lý COD chỉ
giảm 35-50%, BOD
7
chỉ giảm 40-60%; còn khi có bổ sung dinh dỡng P, N thì
COD giảm 80-85%, BOD
7
giảm >90%.
J.A.Servizi và R.W. Gordon với nghiên cứu về loại bỏ chất độc trong nớc
thải từ nhà máy sản xuất bột nhiệt cơ và hóa nhiệt cơ trong hồ hiếu khí qui mô thử
nghiệm [Pulp & Paper Canada, 87:11, 1986], đã tiến hành nghiên cứu trực tiếp lần
9
lợt đối với nớc thải bột nhiệt cơ và bột hóa nhiệt cơ để làm giảm cấp độ độc hại
bằng các xử lý sinh học. Các ông đã chỉ ra rằng, xử lý sinh học đã loại bỏ đợc độ
độc trong nớc thải bột nhiệt cơ và hóa nhiệt cơ nhng nó lại rất nhạy cảm với thời
gian lu và việc bổ sung dinh dỡng nitơ. Với sự tăng thời gian xử lý và việc cho
thêm chất bổ sung nitơ đã sinh ra nhiều amoniac và nitrit làm tăng cấp độ độc hại.
R.W.Wilson, K.L.Murphy và E.G.Frenette qua nghiên cứu về xử lý hiếu khí
và yếm khí nớc thải từ quá trình sản xuất bột bán hóa và hóa nhiệt cơ đã kết luận
rằng:
- Xử lý trong bể sục khí 7-9 ngày và xử lý bằng bùn hoạt tính 25 ngày đều
có khả năng tách loại >80% BOD từ các hợp chất hữu cơ trong nớc thải bột bán
hóa và bột hóa nhiệt cơ ở điều kiện nhiệt độ mùa hè.
- Các xử lý yếm khí tốc độ cao và tốc độ thấp đều là các phơng pháp khả
thi về tính kỹ thuật để giảm BOD mặc dù mục đích tách loại >80% BOD không
thể đạt đợc bởi một mình quá trình xử lý yếm khí. Nếu sau quá trình xử lý yếm khí
mà tiếp tục xử lý hiếu khí 3-5 ngày thì BOD giảm >95% ở cả 2 trờng hợp.
- Việc giảm chất độc phụ thuộc vào thời gian lu của nớc thải với tổng 6-7
ngày yêu cầu để xử lý hiếu khí thu đợc nớc thải không độc hại. Nếu chỉ một giai
đoạn xử lý yếm khí thì hiệu quả trong việc giảm chất độc trong nớc thải sẽ không
cao.
I.6. Cơ Sở Lựa Chọn Phơng Pháp Xử Lý Ph ơng Pháp Sinh
Học
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về xử lý nớc thải của nhà máy giấy, và
hầu hết các nghiên cứu này đều đa đến kết quả là phơng pháp xử lý sinh học mang
lại hiệu quả cả về mặt kinh tế và kỹ thuật.
Nhng các nghiên cứu này đa số tiến hành ở những vùng có điều kiện khí
hậu, môi trờng, nhiệt độ khác nhiếu so với điều kiện ở nớc ta. Nh vậy cho nên khi
áp dụng vào xử lý nớc thải ở các nhà máy giấy ở nớc ta thì sẽ gặp nhiều khó khăn
và cha chắc đã đem lại hiệu quả. Vì vậy trong nghiên cứu của mình chúng tôi hi
vọng xác định một số chủng vi khuẩn (gồm cả vi khuẩn khử sunphat và vi khuẩn
kị khí) có khả năng phân huỷ tốt các hợp chất hữu cơ trong nớc thải và có thể thích
nghi tốt trong điều kiện nớc thải của các nhà máy ở nớc ta. Đây là một nghiên cứu
10