Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.76 KB, 56 trang )


Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
1
















Dự án xây dựng khu BTTN
Bắc Hướng Hoá






















Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
2




LỜI NÓI ĐẦU

Khu bảo tồn nằm ở phía bắc huyện Hướng Hóa, đây là vùng địa hình cao nhất
của tỉnh Quảng Trị với hai đỉnh núi cao nổi trội là đỉnh Sa Mù (1550 m) và đỉnh Voi
Mẹp (1771 m-Voi nằm). Đường Hồ Chí Minh nhánh tây bắt đầu từ thị trấn Khe Sanh
và chạy xuyên qua khu bảo tồn sau đó sang tỉnh Quảng Bình. Trung tâm khu bảo tồn
Bắc Hướng Hóa cách trung tâm huyện Hướng Hóa (Khe Sanh) khoảng 50 km về phía
bắc và thị xã Đông Hà khoảng 100 km theo quốc lộ 9 đến thị trấn Khe sanh và đường
Hồ Chí Minh nhánh tây.

Khu vực bảo tồn giới hạn trong khoảng toạ độ địa lý:

+ Từ 16

0
43'22’’ đến 16
0
59'55’’ vĩ độ Bắc
+ Từ 106
0
33'00’’ đến 106
0
47'03’’ kinh độ Đông

Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa có ranh giới phía tây giáp với nước
Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào khoảng 6 km ; phía bắc giáp với tỉnh Quảng Bình
khoảng 20 km ;phía nam giáp các xã Hướng Phùng, Hướng Sơn và Hướng Linh; phía
đông giáp với 3 huyện Vĩnh Linh (1,5 km), Gio Linh và Đakrông. Rừng khu vực đã
và đang đóng vai trò phòng hộ đầu nguồn quan trọng của 4 hệ thủy lớn là sông Bến
Hải, sông Cam Lộ (sông Hiếu), sông Rào Quán (sông Quảng Trị) và sông Xê Păng
Hiêng (chảy vào sông Mê Kông bên Lào). Đặc biệt quan trọng là hệ thủy Rào Quán
nơi có công trình thủy điện Rào Quán, sắp hoàn thành. Theo kết quả tính toán độ che
phủ rừng tự nhiên trong khu bảo tồn lên tới 83,5%. Về đa dạng sinh học, các kết quả
khảo sát bước đầu của Tổ chức BirdLife Quốc tế Chương trình Việt Nam cho thấy
đây là điểm nóng về đa dạng sinh học mang tầm vóc quốc gia và quốc tế. Đây là nơi
sinh sống của các loài động thực vật có ý nghĩa bảo tồn quốc tế. Thú lớn và linh
trưởng có các loài: Saola, Bò tót, Mang lớn, Vooc Hà Tĩnh, Vượn đen má trắng,
Vooc vá chân nâu. Đây là nơi đã phát hiện nhiều loài chim đặc hữu và đang bị đe dọa
ở cấp quốc gia và quốc tế như: Gà lôi lam mào trắng, Trĩ sao, Hồng hoàng, Niệc nâu,
Gà so trung bộ và nhiều loài chim phân bố hẹp khác.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực trong nhiều lĩnh vực, Ủy Ban Nhân
Dân tỉnh Quảng Trị đã đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thành lập
mới hai khu rừng đặc dụng thuộc tỉnh Quảng Trị là Bắc Hướng Hóa và Khu bảo vệ
cảnh quan đường Hồ Chí Minh huyền thoại, theo công văn số 2036/TT-UB, ngày

8/10/2004. Bộ NN&PTNT đã có công văn trả lời số 1736/BNN-KL, ngày 13/7/2005
về việc thống nhất với đề nghị của UBND tỉnh Quảng Trị. Hai khu rừng nói trên đã
được Bộ NN&PTNT đưa vào danh mục các khu rừng đặc dụng Việt Nam quy hoạch
đến năm 2010 để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt (trích nguyên công
văn của Bộ NN&PTNT trả lời tỉnh Quảng Trị). Hơn nữa trong chiến lược phát triển
lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2005-2010 và định hướng phát triển đến năm
2020 đã được Bộ NN&PTNT góp ý theo công văn số 605/BNN-LN, ngày 23/3/2005
và đã được tỉnh phê duyệt theo quyết định số 1775/QĐ-UBND, ngày 4/8/2005.

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
3

Để có cơ sở đầu tư lâu dài nhằm bảo tồn rừng, đa dạng sinh học và phòng hộ
đầu nguồn của Bắc Hướng Hóa, Bộ NN&PTNT đã yêu cầu tỉnh Quảng Trị phải xây
dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật (Dự án đầu tư) thành lập khu rừng đặc dụng để trình
Bộ NN&PTNT thẩm định.
Thực hiện công văn trên của Bộ NN&PTNT, Chi cục Kiểm lâm tỉnh được
UBND tỉnh Quảng Trị là cơ quan chức năng thực hiện công tác bảo tồn thiên nhiên
của tỉnh Quảng Trị. Với sự hỗ trợ của Tổ chức BirdLife Quốc tế Chương trình Việt
Nam về tài chính và chuyên gia quy hoạch bảo tồn. Nhóm xây dựng dự án đầu tư
thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc hóa đã triển khai thực địa để thu thập: số liệu
đa dạng sinh học; đánh giá tình trạng rừng; xác định phương án quy hoạch ranh giới
ngoài thực địa; thu thập số liệu kinh tế xã hội ở 5 xã vùng đệm của huyện Hướng Hóa
để xây dựng dự án đầu tư thành lập khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, giai
đoạn 2006-2010.

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
4

Chương 1


TÊN CÔNG TRÌNH, MỤC ĐÍCH VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ

1.1 Tên công trình
Dự án xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

1.2 Mục đích, nội dung của dự án

Mục đích
Xây dựng một khu bảo tồn thiên nhiên mới cho tỉnh Quảng Trị nhằm bảo vệ đa dạng
sinh học tiêu biểu của vùng và duy trì và phát triển chức năng phòng hộ quan trọng
của rừng Bắc Hướng Hóa đối với phát triển kinh tế của địa phương và của vùng.

Nội dung
Dự án đầu tư khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa bao gồm các nội dung chính
sau:
 Mô tả các đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội khu vực có liên quan đến vùng dự
án
 Đánh giá các giá trị của khu vực về môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học của
Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa
 Xác định và đề xuất phương án quy hoạch về ranh giới khu bảo tồn thiên nhiên
Bắc Hướng Hóa
 Xác định các mục tiêu của khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa
 Xây dựng các chương trình hoạt động để định hình khu bảo tồn thiên nhiên Bắc
Hướng Hóa
 Khái toán vốn đầu tư cho các chương trình hoạt động của khu bảo tồn thiên nhiên
Bắc Hướng Hóa
 Hiệu quả đầu tư mong đợi từ các chương trình đầu tư
 Kết luận và kiến nghị


1.3 Cơ sở pháp lý và khoa học

1.3.1 Cơ sở pháp lý
Các văn bản pháp lý có liên quan đến quá trình lập dự án đầu tư khu bảo tồn thiên
nhiên Bắc Hướng Hóa:
Công văn số 605/BNN-LN, ngày 23/3/2005 của Bộ NN&PTNT về góp ý thẩm
định dự thảo Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
Quyết định số 1775 /QĐ-UBND, ngày 4/8/2005 của UBND tỉnh Quảng Trị về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2005-2010
và định hướng đến năm 2020.
Tờ trình số 2036/TT-UB, ngày 8/10/2004 của UBND tỉnh Quảng Trị giử Bộ
NN&PTNT về việc Đề nghị thành lập hai khu rừng đặc dụng mới thuộc tỉnh Quảng
Trị.
Công văn số 1736/BNN-LN, ngày 13/7/2005, của Bộ NN&PTNT về việc
thành lập hai khu rừng đặc dụng của tỉnh Quảng Trị.

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
5

Căn cứ Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg, ngày 11/01/2001 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng
sản xuất.
Căn cứ Quyết định số 62/2005/QĐ-BNN, ngày 12/10/2005 về việc ban hành
Bản quy định về tiêu chí phân loại rừng đặc dụng.
Căn cứ vào Thông tư số 43/2002/TT-BTC ngày 07/5/2002 hướng dẫn việc
quản lý, cấp phát vốn ngân sách nhà nước cho Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
Tài liệu hướng dẫn của Bộ Lâm Nghiệp tháng 6 năm 1991 về nội dung,
phương pháp xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật rừng đặc dụng.

1.3.2 Cơ sở khoa học và môi trường

Kết quả nghiên cứu về đa dạng sinh học tại Bắc Hướng Hóa các năm 2004 và
2005 của Tổ chức BirdLife Quốc tế Chương trình Việt Nam phối hợp với Chi cục
Kiểm lâm Quảng Trị đã đánh giá rằng rừng và tài nguyên rừng của Bắc Hướng Hóa
có tính đa dạng sinh học cao; diện tích rừng tự nhiên trong phạm vi khu bảo tồn đề
xuất chiếm 83,5% tổng diện tích dự kiến; khu vực hiện có quần thể của nhiều loài
quý hiếm có liên quan đến bảo tồn như: Saola (Pseudoryx nghetinhesis), Bò tót (Bos
gaurus), Voọc Hà tĩnh (Semnopithecus laotum hatinhensis) Voọc vá chân nâu
(Pygathrix nemaeus), Vượn đen má trắng (Nomascus leucogenys) và thỏ vằn.
Rừng Bắc Hướng Hóa là một phần của khu vực chim đặc hữu của Vùng đất
thấp Miền Trung Việt Nam, là điểm nóng về đa dạng sinh học, tại đây đã phát hiện
nhiều loài chim đặc hữu và quý hiếm như Gà lôi lam mào trắng, Gà so trung bộ, Trĩ
sao, Hồng hoàng, Niệc nâu và nhiều loài chim có vùng phân bố hạn hẹp.
Rừng của Bắc Hướng Hóa đã và đang đóng vai trò phòng hộ đầu nguồn quan
trọng của ba con sông lớn của tỉnh Quảng Trị là sông Bến Hải, sông Cam Lộ (sông
Hiếu) và sông Rào Quán (sông Quảng Trị) và là một chi lưu phòng hộ của sông Mê
Kông (Xê Păng Hiêng). Đặc biệt quan trọng là phòng hộ đầu nguồn, điều tiết cung
cấp nước cho công trình thủy lợi, thủy điện Rào Quán chuẩn bị hoàn thành.
Rừng và thảm thực vật Bắc Hướng Hóa còn có giá trị kinh tế to lớn đối với
cộng đồng địa phương đang sống trong và xung quanh ranh giới khu bảo tồn như
cung cấp cây thực phẩm, các sản phẩm phi gỗ bao gồm cả cây làm thuốc, gỗ củi v.v



Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
6

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, SINH HỌC VÀ KINH TẾ XÃ HỘI


2.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên

2.1.1 Địa lí sinh học

Khu vực đề xuất khu bảo tồn thuộc vùng núi thấp miền Trung Việt Nam nằm ở
phía đông bắc của bán đảo Đông Dương. Vùng này cũng đã được một số tác giả đề
cập với các tên gọi khác nhau như: đơn vị 18 (King và cộng sự, 1975); đơn vị 05b
(MacKinnon and MacKinnon, 1986); đơn vị 05c (MacKinnon, 1989). Một số tác giả
khác gọi vùng này là Rừng Mưa Đông Dương hay đơn vị 4.5.1 (Udvardy, 1975).
Trong xuất bản gần đây "Các vùng chim đặc hữu thế giới", một số khu vực
thuộc miền Trung Việt Nam, đặc biệt là thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế
được xếp trong vùng đất thấp Trung Bộ (đơn vị 143). Vùng này bao gồm vùng đất
thấp, vùng đồi chuyển tiếp bắc Trung Bộ và một phần phụ cận thuộc Trung Lào
(Stattersfield và công sự, 1998).
Từ các quan điểm về địa sinh vật, khu vực đề xuất nằm gần ranh giới phía
đông giữa Đông á và cổ Bắc cực nhưng chính thức nó thuộc vùng Đông Á. Theo
Lekagul và Round, 1991, xác định chi tiết vị trí của khu nghiên cứu theo trật tự dưới
đây:
+ Vùng Đông Á
+ Tiểu vùng Đông Dương
+ Bắc Đông Dương
+ Vùng đất thấp bắc Trung Bộ (Stattersfield và cộng sự 1998).
Tuy nhiên về địa lý động vật Việt Nam (Đào Văn Tiến 1963, Võ Quý 1978)
khu vực này là một phần của khu hệ động vật Bắc Trung Bộ.

2.1.2 Địa hình

Địa hình khu vực khảo sát là vùng núi thấp ở phía nam của giải Trường Sơn
Bắc với dãy núi cao trên 1000 m chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam dọc ranh giới
hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Về phía Quảng Trị địa hình nâng cao hơn, chia cắt

mạnh, độ dốc cao phổ biến từ 15-25
o
, có nhiều nơi, nhiều chỗ dốc đứng. Trong khu
vực có các đỉnh cao điển hình như: Động Sa Mù (1550m) gần đỉnh đèo Sa Mù và
Động Voi Mẹp/Voi nằm (1771m) ở phía đông nam khu bảo tồn. Trong khu vực ngoài
đồi, núi đất chiếm đa số còn lại có hai dãy núi đá vôi. Ở gần trung tâm là dãy đá vôi
chạy theo hướng Đông-Tây, ranh giới hai xã Hướng Lập và Hướng Việt, gần trung
tâm xã Hướng Việt có dãy núi đá vôi chạy theo hướng Bắc-Nam.

2.1.3 Địa chất

Khu vực nghiên cứu nằm trên hệ địa máng-uốn nếp Caledon Việt Lào ở Bắc
Trung Bộ, giới hạn bởi đứt gãy sâu Sông Mã ở phía bắc và đứt gãy sâu Tam Kỳ-Hiệp
Đức ở phía nam. Các phức hệ địa máng phát triển từ kỷ Cambri (có thể từ Sini) cho
đến cuối Silur hoặc đầu Đevon. Trên chúng đã hình thành các lớp phủ nền trẻ

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
7

Epicaledon Paleozoi giữa-muộn, cũng như các võng chồng hoạt hoá-tạo núi trong
Mesozoi-Kainozoi. Hầu hết các núi trung bình được cấu tạo bởi đá Granit phân bố
khá phổ biến trong vùng. Các núi thấp được cấu tạo bởi đá trầm tích lục nguyên tuổi
Ocdovic-Silur gồm có cát kết Mica, cát kết phân phiến, bột kết và sét kết phân phiến
bị biến chất yếu ở dạng Xirixit. Ngoài đá Granit nêu trên là các đá biến chất yếu tuổi
Cambri-Ordovic hạ bao gồm phiến thạch kết tinh, phiến thạch Xirixit, Pyrit, cát kết bị
quarzit hoá (Theo bản đồ địa chất Việt Nam).

2.1.4 Đất

Trong phạm vi khu vực nghiên cứu có các loại đất sau:

 Đất Feralit đỏ vàng vùng đồi và núi thấp phát triển trên đá trầm tích và biến chất
có kết cấu hạt mịn.
 Đất Feralit vàng nhạt vùng đồi phát triển trên đá trầm tích và biến chất có kết cấu
hạt thô.
 Đất Feralit mùn vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá trầm tích và biến chất có
kết cấu hạt thô.
 Đất Feralit vàng nhạt núi thấp phát triển trên đá hỗn hợp.
 Đất Feralit vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá phún xuất tính chua.
 Đất Feralit mùn vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá phún xuất tính chua.
 Đất phù sa sông suối.

2.1.5 Khí hậu

Khu vực bảo tồn nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông
lạnh, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 5(Biểu đồ khí hậu Việt Nam). Ba tháng có lượng
mưa nhiều nhất là tháng 8, 9 và 10. So với khí hậu Quảng Trị, vùng này mùa khô đến
sớm hơn và mùa mưa cũng đến sớm hơn.

Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng từ 24
o
C-25
o
C tương đương với tổng nhiệt
năm khoảng 8300-8500
o
C. Mùa đông tương đối lạnh và rất ẩm ướt do ảnh hưởng của
gió mùa đông bắc, nhiệt độ trung bình trong các tháng này ở vùng đồng bằng xuống
dưới 22
o

C, còn trên các vùng có độ cao từ 400-500 m trở lên thường xuống dưới
20
o
C và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất xuống dưới 15
o
C ở Khe Sanh vào tháng
12 và tháng 1. Ngược lại mùa hè do có sự hoạt động của gió Tây nên rất nóng và khô.
Có tới 3-4 tháng (từ tháng 1 đến tháng 5) nhiệt độ không khí trung bình lớn hơn 25
o
C,
tháng nóng nhất thường là tháng 4 hoặc tháng 5 nhiệt độ trung bình lên tới 29
o
C.
Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên tới 39-40
o
C. Độ ẩm trong các tháng này cũng xuống
rất thấp, dưới 30%.

Chế độ mưa ẩm
Vùng nghiên cứu có lượng mưa rất lớn, lượng mưa trung bình năm đạt tới
2400-2800mm hoặc lớn hơn và tập trung chủ yêú trong mùa mưa, hai tháng có lượng
mưa lớn nhất là tháng 9 và 11, chiếm tới 45% tổng lượng mưa toàn năm. Mưa ít bắt

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
8

đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 11, tuy vậy lượng mưa trung bình của tháng 5 ở
Khe Sanh cũng đạt tới 157,4 mm.
Độ ẩm không khí trong vùng đạt tới 85-90%, trong mùa mưa độ ẩm lên tới
91%. Mặc dù vậy những giá trị cực đoan thấp vẫn đo được trong thời kỳ khô nóng

kéo dài.
Trong bảng là số liệu khí hậu cơ bản thu được từ 3 trạm khí tượng trong vùng,
trong đó trạm Khe Sanh và Tuyên Hóa là những trạm nằm ở vùng giáp gianh và có
điều kiện tự nhiên gần với khu bảo tồn.

Bảng 1: Số liệu khí tượng một số trạm có liên quan đến vùng dự án
Các số liệu khí hậu Khe Sanh Quảng Trị Tuyên Hóa
Tổng lượng mưa TB/năm (mm) 2262,0 2563,8 2266,5
Lượng mưa TB tháng lớn nhất (mm)

469,6 (IX) 620,5 (X) 582,0
Lượng mưa TB tháng nhỏ nhất
(mm)

17,3 (II) 66,2 (IV) 34,9
Số ngày mưa TB trong năm 161,1 151,2 -
Nhiệt độ TB năm 22,4 25,0 24,3
Số giờ nắng trung bình trong năm - 1885,7 -
Nhiệt độ KK cao nhất tuyệt đối 38,2 42 -
Nhiệt độ KK thấp nhất tuyệt đối 7,7 (XII) 9,8 (I) -
Độ ẩm trung bình năm (%) 87 82 84

Một số hiện tượng thời tiết đặc biệt
Gió Tây khô nóng: Đây là vùng chịu nhiều ảnh hưởng của gió Tây khô nóng,
hoạt động của gió Tây thường gây nên hạn hán trong thời kỳ đầu và giữa mùa hè (từ
tháng 2-4). Trong những tháng này nhiệt độ tối cao có thể vượt quá 39
o
C và độ ẩm tối
thấp xuống dưới 30%.
Sạt lở đất: Đây là vùng có lượng mưa lớn hàng năm, do địa hình dốc, các công trình

giao thông đang mở rộng và nâng cấp thường xảy ra sạt lỡ đất, đôi khi lũ quét cục bộ
trong những tháng mùa mưa. Nhìn chung đây là một trong những vùng khí hậu ít
thuận lợi ở nước ta.

2.1.6 Thuỷ văn
Do có địa hình có độ dốc lớn nên sông suối xuất phát từ đây thường ngắn, dốc đổ
ra biển theo hướng đông hoặc đông bắc. Trong vùng nghiên cứu có các hệ thống sông
chính sau:
 Phía đông bắc là sông Bến Hải, tất cả các con suối bắt nguồn từ sườn đông đều
chảy vào sông Bến Hải và đổ ra biển đông ở Cửa Tùng.
 Phía tây bắc và nam của khu bảo tồn là thượng nguồn sông Xê Păng Hiêng chảy
qua Lào vào sông Mê Kông.
 Phía đông nam, bao gồm bắc Động Sa Mùi và đông Động Voi Mẹp là thượng
nguồn của sông Cam Lộ (gọi là nguồn Rào) và đổ ra biển Đông tại Cửa Việt.
 Phía nam là hệ thống suối của sông Rào Quán, là một chi lưu của sông Quảng Trị
(Thạch Hãn). Nơi đây có công trị thủy điện Rào Quán đang xây dựng.


Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
9

2.2 Thảm và khu hệ thực vật
2.2.1 Thảm thực vật rừng
Toàn bộ khu vực được bao phủ bởi các kiểu rừng kín thường xanh. Ở độ cao
dưới 600 m là rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và từ 600m trở lên là kiểu
rừng kín thường xanh á nhiệt đới. Nhưng trải qua quá trình tác động lâu dài của con
người như đốt nương làm rẫy, khai thác lâm sản và ảnh hưởng của chiến tranh, đặc
biệt là chiến tranh hoá học đã làm thay đổi nhiều diện mạo của rừng thường xanh ở
khu vực Bắc Hướng Hóa.
Bảng 2: Diện tích các loại đất đai khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa

Kiểu sử dụng đất Tổng
Tỉ lệ rừng
TN (%)
Tỉ lệ (%)
Tổng diện tích
25.200


100

Rừng tự nhiên
20.646,2

82,0


Rừng thường xanh giàu
1.923,0


7,63

Rừng thường xanh trung bình
14.158,1


56,20

Rừng thường xanh nghèo
983,0



3,90

Rừng phục hồi (rừng non)
2.268,1


9,00

Rừng tre nứa
3,0


0,01

Rừng trên núi đá
1.311,0


5,20

Đất trống cây gỗ rải rác
2.224,2


8,82

Đất trống cỏ cây bụi
860,9



3,41

Núi đá không có rừng
889,0


3,52

Đất khác*
579,7


2,30

Ghi chú: * Đất khác bao gồm đất nông nghiệp, thổ cư, mặt nước và sông suối

2.2.1.1 Thảm thực vật nguyên sinh
Phạm vi khảo sát nằm ở phía bắc và tây bắc tiếp giáp với tỉnh Quảng Bình, nơi
đây có nhánh Tây đường Hồ Chí Minh đi qua, khu vực khảo sát là rừng nguyên sinh
rất ít bị tác động kể từ năm 1975 trở lại đây. Thảm thực vật tại đây phản ánh sâu sắc
yếu tố địa hình, địa chất và hoạt động của con người. Phần mô tả thảm chỉ khái quát
những đặc trưng hình thái, ghi nhận những cấu trúc ban đầu trong tổ thành của hệ
thực vật.

Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới (phân bố dưới 600m)
Kiểu phụ rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất
Kiểu phụ rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất chiếm phần lớn
diện tích khu vực nghiên cứu, hầu như không bị tác động (kể từ năm 1975 trở lại

đây), thành phần thực vật có tính đa dạng cao; Trong tổ thành có sự tham gia của rất
nhiều họ thực vật nhiệt đới ẩm, cây lá rộng xanh quanh năm, cây to, tán lớn, tròn.
Những họ thường gặp là: Họ Xoan (Meliaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Trám
(Burceraceae), họ Côm (Eleocarpaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ
Na (Annonaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Ba mảnh vỏ
(Euphorbiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Dung (Simplocaceae), họ Trôm
(Sterculiaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Mùng quân (Flacoutiaceae), họ Nhân
sâm (Araliaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Dâu tằm (Moraceae). Nhóm dây leo gỗ
thường to và dài, có thể dài đến 20-30m, đường kính có thể đạt tới 10cm. Thường gặp

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
10

các loài thuộc các họ: họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Na (Annonaceae), họ Đậu
(Fabaceae), họ Nho (Vitaceae), họ Thiên lý (Aslepiadaceae), họ Cau dừa
(Arecaceae). Cây gỗ nhỏ, cây bụi dưới tán thường gặp các loài trong họ Cà phê
(Rubiaceae), họ Ôrô (Acanthaceae), họ Mua (Melastomataceae), họ Ngũ gia bì
(Araliaceae), họ Cau dừa (Arecaceae), Dương xỉ mộc (Cyatheaceae). Trong tầng cỏ
quyết: phổ biến gặp là các loài Dương xỉ (Polypodyophyta), nhiều loài thuộc họ Môn
ráy (Araceae), họ Gai (Urticaceae), họ Dứa gai (Pandanaceae), họ Đao dong
(Maranthaceae), họ Riềng (Zingiberaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Đơn
nem (Myrsinaceae). Ở những khoảng trống nhiều ánh sáng có thể có sự có mặt nhiều
loài của chi Hedyotis họ Cà phê (Rubiaceae), nhiều loài cỏ thuộc họ Hòa thảo
(Poaceae), một số loài thuộc họ Cúc (Asteraceae). Trên các khe, vách nơi ẩm gặp một
số loài họ Thu hải đường (Begoniaceae).
Đặc trưng về tầng tán: thể hiện rõ sự phân tầng; rừng này thường thấy có 5 tầng.
Tầng 1 (Tầng vượt tán/tầng nhô). Trên khu vực núi đất trong tầng vượt tán có
chiều cao 20-25m đôi chỗ có thể có cây cao trên 25m. Các loài thường gặp trong tầng
này là các cây gỗ cao to, đường kính dao động từ 40 – 80cm. đôi chỗ có thể có cây
đạt tới đường kính 1-1,2m. Tuy nhiên độ phủ của tầng này không cao chỉ ở mức 15-

20%, nghĩa là số cây gỗ cao to vượt tán không nhiều, các loài thường gặp trong tầng
này là loài Cà ná mũi nhọn (Canarium subulatum) và Trám trắng (Canarium album)
thuộc họ Trám (Burceraceae).
Tầng 2 (Tầng ưu thế sinh thái). Thường cây gỗ có chiều cao tương đối đồng đều
10-15m, tán tròn tạo ra một màn có độ che phủ cao đạt tới 50-60%. Cây gỗ có đường
kính trung bình 30-40cm; Tầng này là sự đan xen, có tính đa dạng cao của các họ
thực vật nhiệt đới ẩm, lá rộng thường xanh. Xét về số cá thể của các họ khó có thể
khẳng định độ ưu thế thuộc về họ nào; có thể ở nơi này ưu thế thuộc về họ Dẻ
(Fagaceae) thì ở nơi khác vị trí khác lại thuộc họ De (Lauraceae) và có thể ở vị trí
khác ưu thế lại thuộc về các họ khác: họ Đậu (Fabaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ
Bồ hòn (Sapindaceae). Tầng này chứa đựng tính đa dạng thực vật cao và có ý nghĩa
lớn về mặt sinh thái và giá trị môi trường.
Tầng 3 (Tầng dưới tán/tầng cây bụi và gỗ nhỏ). Có chiều cao 7-10m. Thường
gặp các cây tái sinh của hai tầng trên và những loài cây gỗ nhỏ thuộc họ Trúc đào
(Apocynaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Ba mảnh vỏ
(Euphorbiaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Dâu tằm
(Moraceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Côm (Eleocarpaceae), họ Dẻ (Fagaceae),
họ Mùng quân (Flacourtiaceae), họ Na (Annonaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Cam
quýt (Rutaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Dung (Simplocaceae),
họ Máu chó (Myristicaceae). Những nơi ẩm thung lũng có Dương xỉ gỗ, chi
Cyatheca, nhiều loài Ficus chi Sung vả (Ficus) họ Dâu tằm (Moraceae); một số loài
chi Sarauja, họ Dương đào (Actinidiaceae), một hai loài Sổ chi Sổ (Dillenia) họ Sổ
(Dilleniaceae) và cũng những khu vực ven suối thung lũng có sự tham gia của Nứa
dại họ Poaceae.
Tầng 4 (Tầng cây bụi): có chiều cao 3-5m thường là các cây bụi chịu rợp sống
dưới tán. Phổ biến hơn cả là các loài họ Mua (Melastomataceae), họ Ôrô
(Acanthaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cau dừa (Arecaceae) với những cây tái
sinh của tầng 1,2,3 do bị che rợp sống còi cọc.
Tầng 5 (Tầng thảm tươi/tầng cỏ quyết). Nhìn chung các khu vực được khảo sát,
có lẽ do tính ổn định cao; rừng ít bị tác động, tàn che của các tầng 1,2,3 và 4 ổn định


Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
11

nên tầng cỏ quyết phát triển yếu, thưa thớt, chỉ ở những khu vực ven suối thung lũng
thấp, nơi có ánh sáng, tầng này mới thể hiện rõ, ưu thế của tầng này thuộc về các loài
Dương xỉ (Polypodyophyta), nhiều loài thuộc họ Môn ráy (Araceae), họ Gừng
(Zingiberaceae), họ Đao dong (Maranthaceae), họ Gai (Urticaceae), họ Thài lài
(Commelinaceae), họ Hòa thảo (Poaceae).

Kiểu phụ thảm thực vật rừng kín cây lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên
núi đá vôi.
Do đặc trưng về lập địa: thường các dãy núi đá vôi có thành rất dốc, có chỗ vách
đá dựng đứng, chóp nhọn, tầng đất mặt rất mỏng hay không có, phần chân thoải.
Rừng trên núi đá vôi có độ che phủ thấp, không tạo được một màn khép tán liên tục
như kiểu rừng trên núi đất. Về mặt cấu trúc tầng tán: Vẫn thể hiện 5 tầng; Nhưng điều
khác biệt cơ bản của kiểu phụ thảm thực vật trên núi đá vôi so với kiểu phụ trên núi
đất là thành phần hệ thực vật. Ưu thế trong các tầng của kiểu thảm này là những loài
chịu khô, phát triển trên nền đá vôi với những loài đặc trưng không gặp trên vùng núi
đất. Với những họ thường gặp có số cá thể khá phong phú là các loài trong chi Lòng
mang (Pterospermum) họ Trôm (Sterculliaceae); Nhiều loài thuộc chi Trâm
(Syzygium) họ Sim (Myrtaceae), nhiều loài thuộc chi Thị rừng (Diospyros) họ Thị
(Ebenaceae); chi Bứa (Garcinia) họ Măng cụt (Guttiferae). Nhiều loài thuộc chi Cóc
rừng (Spondias), Dâu gia xoan chi Allospondias; Xuyên cóc chi Choerospondias,
Sưng đào chi Semecarpus; họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Nhiều loài Bình linh chi
Bình linh (Vitex) họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Một số loài thuộc họ Gai
(Ulmaceae). Chi Sếu (Celtis); Nhiều loài họ Đay (Tiliaceae). Đặc biệt phải kể đến cây
Phay rất thường gặp ở các thung lũng ven suối núi đá vôi (Duabanga sonneratoides)
họ Bần (Sonneratiaceae) và một số loài thuộc chi Đùng đình (Caryota) họ Cau dừa
(Arecaceae). Nhiều loài thuộc chi Lụi (Rhapis), loài Đùng đình (Caryota

bacsonensis) cây to đường kính tới 50cm, cao 10-15m rất đặc trưng cho vùng núi đá
vôi. Đặc biệt ở kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi thảm
thực vật bò leo trên đá rất nhiều loài thuộc họ Môn ráy (Araceae) và họ Hồ tiêu
(Piperaceae); cũng trong tầng thảm tươi là sự có mặt rất đặc trưng của các loài Lá
han: Han trâu (Dendrocnide urentissima), Han tím (Laportea interrupta), Han bò
(Laportea thorelli) khi cọ sát vào da rất ngứa; và nhiều loài khác thuộc họ Gai
(Urticaceae). Trên những thành vách đá có rất nhiều loài chi Đa sung (Ficus) nhóm
cây có nhựa mủ chịu khô hạn; Những nơi ẩm thường gặp một số loài chi Ngũ gia bì
(Schefflera) họ Nhân sâm (Araliaceae) chịu khô hạn tốt, rễ nổi bám vào các khối hay
thành vách đá phát triển mạnh .

Rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp (phân bố từ độ cao 600m trở lên)
Khu vực Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, kiểu thảm thực vật thường xanh á
nhiệt đới núi thấp phân bố từ độ cao 600m trở lên chỉ gặp trên núi đất (khu vực núi đá
vôi ít, không có các đỉnh cao). Kiểu thảm này có diện tích khá, phần lớn giữ được
tính tự nhiên ít bị tác động. Về cấu trúc tầng không đồng nhất ở các khu vực: vùng
thung lũng, nơi bằng có dạng điển hình 5 tầng gần giống với kiểu rừng kín thường
xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất, cũng thể hiện rõ 5 tầng (Tầng 1:Tầng vượt tán;
Tầng 2: Tầng ưu thế sinh thái; Tầng 3: Tầng cây gỗ nhỏ và cây bụi; Tầng 4: tầng dưới
tán – Tầng cây bụi; Tầng 5: Tầng cỏ quyết – Thảm tươi). Nhưng ở những triền núi
dốc hay ở các đỉnh dông, đỉnh núi, do bị bào mòn tầng đất mặt mỏng (có nhiều đá lộ

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
12

đầu), yếu tố ánh sáng mạnh cộng với tác động của gió đã ảnh hưởng mạnh tới hệ thực
vật: Không có cây to cao, nên ít thấy cây vượt tán, như thế rừng chỉ thấy rõ 4 tầng.
Các đỉnh cao, các chóp núi thường có gió liên tục, cường độ, mật độ ánh sáng phân
bố đều, cộng với tầng đất mặt rất mỏng chỉ thích hợp cho một số loài ưa lạnh, chịu
gió, phát triển được trên tầng đất nghèo dinh dưỡng, nên thành phần thực vật nghèo

nàn; Tầng tán đơn giản, chỉ thấy rõ 3 tầng.
Tầng đất mặt rất mỏng, gió thường xuyên, lại có mù luôn xuất hiện nên chỉ thấy
rải rác có cây bụi và ưu thế là những loài họ Hòa thảo (Poaceae), Chè vè (Miscanthus
floridulus), Chít (Thysanoloena maxima) hay Trúc gai (Sinarundinaria griffithiana)
phát triển mạnh.
Những khác biệt lớn phân biệt kiểu thảm này với kiểu thảm thực vật thường
xanh mưa mùa nhiệt đới là sự có mặt của các loài khỏa tử. Thường tới độ cao 600m
thấy xuất hiện một số loài khỏa tử. Rất phổ biến trong khu vực này là loài Thông tre
lá dài (Podocarpus neriifolius), Thông nàng – Thông lông gà (Dacrycarpus
imbricatus), Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri). Trong kiểu thảm này ưu thế
tuyệt đối về các loài Dẻ thuộc họ Dẻ (Fagaceae) ở một số vị trí Dẻ ưu thế chiếm đến
50 - 60% cá thể trong quần xã. Trong kiểu thảm này còn có sự có mặt của một số loài
thuộc họ Thích (Aceraceae), một số loài Chẹo thuộc chi Chẹo (Engelhardtia) họ Óc
chó (Juglandaceae); Loài Chắp tay (Symingtonia populnea) thuộc họ Sau sau
(Hamamelidaceae). Nhiều loài thuộc chi Eurya, Adinandra, Camellia, Godonia, Vối
thuốc – Chò sót (Schima wallichii) thuộc họ Chè (Theaceae); Dưới tán rừng cũng chỉ
ở đai này mới gặp loài Trúc gai (Sinarundinaria griffithiana) có cá thể nhiều, những
nơi sáng chiếm ưu thế tuyệt đối. Cũng trong kiểu thảm này gặp nhiều loài gỗ có giá
trị: Giổi lá nhẵn (Michelia faveolata), Giổi găng (Paramichella baillonii) họ Mộc lan
(Magnoliaceae), Sến (Madhuca pasquieri) họ Hồng xiêm (Sapotaceae). Tại khu vực
đèo Sa mù dưới tán kiểu thảm này ở độ cao 1200m có gặp loài Lan hài
(Paphiopedilum amabile) có số lượng cá thể khá, là loài quí hiếm.

2.2.1.2 Thảm thực vật thứ sinh
Nhìn chung cả đai thấp dưới 600m và đai cao 600m trở lên có thể nơi nhiều, nơi
ít nhưng không tránh khỏi sự tác động của con người, sự tác động mạnh mẽ nhất là
canh tác nương rẫy, thể hiện rõ ở đai thấp dưới 600m, tiếp đến là khai thác gỗ và lâm
sản khác. Ở đai cao từ 600m trở lên ít bị tác động bởi canh tác nương rẫy. Một số nơi
thảm thực vật nguyên sinh bị hủy diệt do chất độc hóa học (trước năm 1975) và một
số nơi khác là những căn cứ quân sự (Nơi đóng quân, hầm hào, lô cốt). Đó là nguyên

dân dẫn đến thảm thực vật nguyên sinh bị mất đi. Cây gỗ, cây bụi, cây thảo tái sinh
phát triển trở lại tạo nên các thảm thực vật thứ sinh. Tùy thuộc vào mức độ tác động
nhiều hay ít, diễn ra một hay nhiều lần, thời gian phục hồi của thảm thực vật thứ sinh
diễn ra dài hay ngắn mà thảm thực vật thứ sinh có những nét đặc trưng khác nhau về
ngoại mạo, về cấu trúc, về thành phần hệ thực vật, cũng như tính đa dạng thực vật.
Đương nhiên các thảm thực vật thứ sinh không thể có tính đa dạng sinh học cao so
với thảm thực vật nguyên sinh.

Rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy
Phần lớn phân bố từ độ cao 600m trở xuống. Khác với vùng núi phía Bắc và các
vùng khác; Tại khu vực Bắc Hướng Hóa chỉ có dân tộc Vân Kiều số lượng không
nhiều; sống ở các khu vực thấp ven suối; nương rẫy canh tác cũng không xa bản.

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
13

Trình độ dân trí thấp, chưa biết sản xuất hàng hóa: Canh tác nương rẫy chỉ là Lúa,
Ngô nhằm giải quyết nhu cầu lương thực tại chỗ nên rừng thứ sinh sau canh tác
nương rẫy không nhiều, vùng thấp quanh khu vực bản làng. Những khu vực sau canh
tác nương rẫy, được bỏ hoang từ 8 – 10 năm, rừng thứ sinh hình thành. Cấu trúc và
thành phần hệ thực vật cũng như hình thái ngoại mạo khác biệt rõ rệt so với rừng
nguyên sinh. Thường không có tầng tán rõ rệt.

Tầng 1 (Tầng ưu thế sinh thái) Tầng này với các cây gỗ ưa sáng phát triển trở lại
từ chồi hay hạt, cùng tuổi có chiều cao dao động từ 8 -10m, đường kính dao động từ
10 – 15cm. Phổ biến ở tầng này là các loài Bời lời chi Bời lời (Litsea), Kháo
(Machilus), Nang trứng (Lindera) họ Long não (Lauraceae), một số loài chi Ba soi
(Macaranga spp.), chi Ba bét (Mallotus spp.), chi Sòi tía (Sapium spp.), chi Bi điền
(Bridelia spp.), Vạng trứng (Endospermum sinensis) thuộc họ Ba mảnh vỏ
(Euphorbiaceae). Một hai loài Trám chi Canarium; Ba gạc lá xoan (Euodia melifolia),

Bưởi bung (Acronychia pedunculata) họ Cam chanh (Rutaceae), Ngát lông
(Gironniera subaequalis), Hu đay (Trema orientalis), Sếu (Centis sinensis) họ Sếu
(Ulmaceae). Một số loài họ Đậu (Fabaceae); họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Đào lộn
hột (Anacardiaceae). Những khu vực ẩm là các loài thuộc chi Sung vả (Ficus) họ Dâu
tằm (Moraceae).
Tầng 2 (Tầng gỗ nhỏ cây bụi). Có chiều cao 5 - 7m. Thường gặp các loài thuộc
họ Cà phê (Rubiaceae), chi Chè (Camellia), chi Súm (Eugenia) họ Chè (Theaceae).
Một số loài chi Cò ke (Grewia) họ Đay (Tilliaceae).
Tầng 3 (Tầng cây bụi dưới tán). Tầng này không dày rậm, thường gặp một số
loài họ Mua (Melastomataceae) , họ Cà phê (Rubiaceae), chi Lồng đèn
(Clerodendron) họ Cỏ doi ngựa (Verbenaceae), cây Lụi (Rapis excelsa) họ Cau dừa
(Arecaceae), có nơi có số lượng cá thể nhiều.
Tầng 4 (Tầng cỏ quyết) Trong tầng này của rừng thứ sinh gặp rất ít các loài
dương xỉ. Phổ biến hơn là các họ Gừng (Zingiberaceae); Các loài Môn ráy họ Môn
ráy (Araceae). Những nơi có ánh sáng nhiều, gặp một số loài cỏ họ Hòa thảo
(Poaceae), nơi ẩm có thể gặp một số loài họ Cà phê (Rubiaceae) chi Cỏ vừng
(Hydeotis), một số loài thuộc họ Ôrô (Acanthaceae) chi Staurogyne và chi
Strobilanthes.
Nét đặc trưng của rừng thứ sinh sau nương rẫy là hệ dây leo nói chung, dây leo
gỗ nói riêng rất ít. Tầng cỏ quyết đơn điệu, nghèo nàn, độ phủ tầng này rất thấp. Tầng
bì sinh (Phong lan, dương xỉ sống bám) hầu như không có; có lẽ do độ ẩm thấp và
chưa đủ thời gian cho những loài bì sinh, dương xỉ hay Phong lan phát triển trở lại.

Trảng cây bụi, cỏ cao
Kiểu thảm này có diện tích đáng kể trong khu vực Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng
Trị. Phân bố ở đai thấp dưới 600m và trên 600m. Thảm này cần có những nghiên cứu
sâu nguyên nhân hình thành kiểu thảm này, đặc biệt là những diện tích bị rải chất diệt
cỏ (trước 1975). Qua khảo sát tại một số khu vực chúng tôi thấy có 4 nguyên nhân:
1. Phát nương làm rẫy
2. Cháy rừng

3. Chất độc hóa học (trước 1975)
4. Xây dựng cứ điểm quân sự trong chiến tranh

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
14

Bốn nguyên nhân trên đã làm mất đi thảm thực vật nguyên sinh: Ở đai thấp
(dưới 600m) là rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới, đai cao (từ 600m trở lên) là
rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp; Diễn thế rừng thứ sinh diễn ra khi đất
nương rẫy được bỏ hoang, đất sau cháy rừng và những diện tích rừng bị hủy diệt do
chất độc hóa học của Mỹ rải xuống (trước 1975).
Nguyên nhân làm mất thảm thực vật nguyên sinh là khác nhau nhưng thảm thực
vật thứ sinh: Trảng cây bụi, cỏ cao có những đặc trưng hình thái và cấu trúc ngoại
mạo giống nhau ở cả đai cao và đai thấp.
Đặc trưng của kiểu thảm thứ sinh trảng cỏ, cây bụi cao là các loài cỏ cao thuộc
họ Hòa thảo (Poaceae): Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena
maxima), Lách (Saccharum spontaneum), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Cỏ Lau
(Imperata conferta). Cấu trúc đơn điệu, những loài cỏ cao có chiều cao từ 1 – 2m, độ
phủ đạt 70 – 80%, rất ít những khoảng trống, rải rác có những cụm cây bụi, cây gỗ
nhỏ, những loài ưa sáng cao 5 – 8m.Thành phần cây bụi có sự khác biệt ít nhiều phụ
thuộc vào nguyên nhân làm mất rừng nguyên sinh và kiểu thảm nguyên sinh vốn có
tại đó.
Ở những khu vực thấp (dưới 600m) đất sau nương rẫy bỏ hoang, trảng cây bụi
cỏ cao là trạng thái bắt đầu của diễn thế thứ sinh. Cây bụi cỏ cao phát triển nhanh, ưu
thế là những cây ưa sáng phát triển nhanh: Hu đay (Trema orientalis; Trema
cannabina), Ba soi (Macaranga spp.), Ba bét (Mallotus spp.). Một số loài Bời lời chi
Bời lời (Litsea), Vối thuốc (Schima wallichii), Ba gạc lá xoan (Euodia melifolia),
Bưởi bung (Acronychia paniculata), Trám (Canarium spp.), Vạng trứng
(Endospermum sinensis), một số loài họ Dẻ (Fagaceae) và do đất ẩm xốp Chè vè
(Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ Lau (Imperata conferta)

phát triển mạnh tạo nên các bụi, cụm lớn độ phủ cao. Có nơi độ phủ cao đạt tới 70 –
80%.
Những diện tích rừng nguyên sinh bị rải chất độc hóa học trước đây và sau đó
cháy đi cháy lại nhiều lần: ưu thế tuyệt đối thuộc những loài cỏ cao họ Hòa thảo
(Poaceae) Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ tranh
(Imperata cylindrica), Lau (Imperata conferta) phát triển kém hơn, cằn cỗi, cao 1 -
1,5m, rải rác có cây bụi gỗ nhỏ; Thường là những loài chịu khô, chịu cháy, sống trên
đất thoái hóa nghèo mùn.Phổ phiến là các loài họ dẻ (Fagaceae), Họ Óc chó
(Juglandaceae), Họ chè (Theaceae), Họ Nhựa ruồi (Aquifoliaceae), một số loài họ
Long não (Lauraceae), họ Côm (Eleocarpaceae).

Trảng thứ sinh tre nứa (Trúc sặt) phân bố ở độ cao 600m trở lên
Ở độ cao 700 – 1200m có một diện tích khá nhiều Trảng thứ sinh Trúc sặt
(Arundiunria peteloti). Cây cao từ 3 - 5m có mật độ khá dầy, mọc tản (không hình
thành bụi cụm) ưu thế tuyệt đối 60 – 70% độ phủ. Rải rác có cây gỗ thuộc họ Dẻ
(Fagaceae), họ Chè (Theaceae), họ Bồ đề (Styraceae), họ Nhựa ruồi (Aquifoliaceae),
họ Côm (Eleocarpaceae), một hai loài họ Mộc lan (Magnoliaceae), họ Thích
(Aeraceae). Tuy nhiên cây gỗ trong kiểu trảng này thưa thớt. Kiểu trảng thứ sinh này
rất đặc trưng , thường phân bố ở độ cao từ 800 – 1500m gặp ở Ba Vì, Tam Đảo, Phan
Xi Phăng. Có lẽ do một tác động nào đó (cháy rừng, chất độc hóa học) làm cho thảm
thực vật rừng ẩm thường xanh á nhiệt đới núi thấp bị mất đi. Loài Trúc sặt
(Arundinaria petelotii) – một loài thuộc họ Hòa thảo (Poaceae) ưa sáng thân ngầm
lan nhanh, phát triển mạnh, ưu thế tuyệt đối nhờ sức cạnh tranh đã chiếm lĩnh nhanh

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
15

chóng diện tích rừng nguyên sinh á nhiệt đới núi thấp bị mất. Cây gỗ, cây bụi, tái sinh
phát triển chậm, sức cạnh tranh kém cũng bị loại, tạo nên kiểu trảng thứ sinh Trúc sặt
gần như thuần loài, dầy đặc, độc đáo ổn định.



Trảng cỏ cây bụi thấp
Trên những vùng đất bằng chân núi, gần khu vực bản làng, những diện tích canh
tác nương rẫy diễn ra nhiều năm, đất bạc màu, tầng đất mỏng do bị xói mòn. Đây
cũng là nơi chăn thả, kiếm ăn của gia súc, sự giẫm đạp, tác động thường ngày của gia
súc đã hạn chế sinh trưởng của cây. Nên tại những khu vực này chỉ còn những loài
cây bụi cỏ thấp phát triển được trên nền đất thoái hóa nghèo dinh dưỡng. Tùy theo
mức độ thoái hóa của tầng đất mặt và mức độ tác động ít nhiều của gia súc mà thành
phần cây bụi, cây thảo là loài này hay loài khác và ưu thế thuộc về cây bụi hay cây
thảo.
Những khu vực đất chưa bị thoái hóa nặng thành phần cây bụi phong phú:
thường gặp các loài cây bụi họ Cà phê(Rubiaceae), họ Ôrô(Acanthaceae), họ Cúc
(Asteraceae) , họ Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) và nhiều loài mua chi Melastoma, họ
Mua (Melastomataceae). Một số loài cỏ cao thường gặp trong kiểu thảm này thuộc
chi Cỏ đắng (Paspalum), cỏ Tranh (Imperata cylindrica), cỏ Sả (Cymbopogon spp.),
cỏ Bông (Eragrostis spp.), cỏ Rác (Isachne spp.), cỏ Sâu róm (Sertaria spp.) cao tới
70 – 80cm.
Ở những khu vực đất thoái hóa nặng, đất bị lèn chặt do gia súc giẫm đạp thường
xuyên. Tầng cỏ thấp, chỉ cao 10 – 20cm và có thể thấp hơn, thường gặp những loài cỏ
thấp chi cỏ Chỉ (Digitaria spp.), cỏ gà (Cynodon dactylon), cỏ may (Chrysopogon
aciculatus), cỏ đắng (Paspalum spp.). Cây bụi thấp: họ Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) –
cây Đuôi chuột (Stachytarpheta jamaicensis), một hai loài Trinh nữ (Mimosa sp),
một vài loài họ Hoa mõm chó (Scrophuliaceae) chi Lindernia, thường gặp loài Cam
thảo nam (Seoparia dulcis).
Những khu vực đất chua, cây bụi ưu thế là các loài mua (Melastoma spp.) và cỏ
thấp. Đơn điệu về cấu trúc, nghèo nàn về thành phần. Một vài loài cỏ thấp thuộc chi
cỏ đắng (Paspalum spp.) hay thuần loại cỏ May (Chrysopogon aciculatus), cỏ gà
(Cynodon dactylon), cỏ Chỉ (Digitaria spp.).


2.2.2 khu hệ thực vật
Điều tra ban đầu đã ghi nhận được 920 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc
518 chi và 130 họ (tham khảo Bảng 3 và phụ lục). Trong đó có 17 loài quý hiếm được
ghi trong sách đỏ Việt Nam và 23 loài được ghi trong sách đỏ Thế Giới (IUCN 1994).
Về kinh tế trong tổng số những loài thống kê được có 125 loài cây cung cấp gỗ, 161
loài cây làm thuốc, 44 loài cây làm cảnh và 89 loài cây làm thực phẩm (ăn được).
Bảng 3: Thành phần thực vật khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa
Ngành Thực Vật Họ Chi Loài
Ngành Thông Đất (Lycopodiophyta) 2 2
6
Equisetophyta – Ngành Mộc tặc 1 1
1
Ngành Dương Xỉ (Polypodiophyta) 11 31
68
Ngành Thông (Pinophyta) 4 6
9
Ngành Mộc Lan (Magnoliophyta) 112 478
836
- Lớp Mộc Lan (Magnoliopsida) 91 388 707

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
16

- Lớp Hành (Liliopsida) 21 90 129
Tổng Số 130 518 920

Đa dạng của một số họ thực vật tại Bắc Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị
Kết quả ở Bảng 4 cho thấy: có 13 họ có tính đa dạng cao về số lượng chi và loài.
Xét về số lượng chi có 12 họ có số chi từ 7 – 20 chi. Họ Cà phê (Rubiaceae), họ Hoà
thảo (Poaceae), họ Lan (Orchidaceae) có số lượng chi cao nhất từ 16 – 20 chi. Họ

Long não (Lauraceae) và họ Cam chanh (Rutaceae) có số lượng lớn hơn 10 chi (14 và
11). Còn 7 họ khác: họ Mua (Melastomataceae); Dâu tằm (Moraceae); Bồ hòn
(Sapindaceae); Chè (Theaceae); Gai (Urticaceae); Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) và Cau
dừa (Arecaceae) có số chi dao động từ 7 đến 9 chi.

Bảng 4. Thống kê những họ có tính đa dạng cao bậc chi và loài ở Bắc Hướng
Hoá tỉnh Quảng Trị
STT Họ Số lượng chi Số lượng loài
Tên khoa học Tên Việt nam
NGÀNH HẠT KÍN –
ANGIOSPERMAE
Lớp hai lá mầm - Dicotyledones

1 Lauraceae Long não 14 24
2 Melastomataceae Mua 9 14
3 Moraceae Dâu tằm 7 24
4 Myrsinaceae Đơn nem 3 19
5 Rubiaceae Cà phê 16 24
6 Rutaceae Cam chanh 11 19
7 Sapindaceae Bồ hòn 9 10
8 Theaceae Chè 7 13
9 Urticaceae Gai 9 14
10 Verbenaceae Cỏ doi ngựa 8 16
Lớp một lá mầm – Monocotyledones
11 Arecaceae Cau dừa 8 12
12 Orchidaceae Lan 18 26
13 Poaceae Hoà thảo 20 23

Về số lượng loài: có 5 họ có số lượng trên 20 loài: Long não (Lauraceae) 24
loài; Dâu tằm (Moraceae) 24 loài; Cà phê (Rubiaceae) 24 loài; Lan (Orchidaceae) 26

loài; Hoà thảo (Poaceae) 23 loài; Các họ : Mua (Melastomataceae), Đơn nem
(Myrsinaceae), Cam chanh (Rutaceae), Gai (Urticaceae), Cỏ doi ngựa (Verbenaceae)
có xấp xỉ 20 loài.
Những số liệu trong báo cáo này mới chỉ phản ánh phần nào tính đa dạng thực
vật khu vực Bắc Hướng Hoá tỉnh Quảng Trị. Với diện tích lớn xấp xỉ 40.000 ha, đa
dạng về địa hình, địa chất, khí hậu, hệ thực vật chưa bị tác động nhiều; chắc chắn Hệ
thực vật ở khu vực này có số lượng taxon bậc chi và loài có thể cả bậc họ sẽ có số
lượng cao hơn nhiều so với báo cáo này, hy vọng sẽ được tìm hiểu bổ sung trong
tương lai.


Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
17

Đa dạng Hệ thực vật Bắc Hướng Hoá so với các khu vực lân cận
Tìm hiểu sâu hơn về Hệ thực vật: Bạch mã, Đakrông và Bắc Hướng Hoá đã có
khác biệt nhau ít nhiều về số lượng các taxon (bậc họ; bậc chi; bậc loài). Nhưng ba
khu vực này có những nét tương đồng về Hệ thực vật, có tới 90% các họ gặp ở cả 3
khu vực. Sự khác biệt về mặt số lượng chính bởi sự hạn chế về mức độ nghiên cứu tại
mỗi vùng. Điều này cũng chỉ ra tại Đăkrông và Bắc Hướng Hoá có Hệ thực vật đa
dạng không kém so với Vườn Quốc gia Bạch mã, cần có những nghiên cứu xa hơn
nữa trong quá trình quản lý khu bảo tồn sau này mới có thể khẳng định.

Bảng 5: So sánh tính đa dạng thực vật Bắc Hướng Hoá với các khu bảo tồn trong vùng
Ghi chú: BHH= Bắc Hướng Hóa, Đak= Đakrông, BM= Bạch Mã

Giá trị về nguồn gen quý hiếm

Bảng 6. Danh sách các loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới


STT

Tên khoa học Tên Việt nam
Tình tr
ạng

SĐVN
(1996)
IUCN
(1994)
1

Cephalotaxus manii Hook. f.

Đ
ỉnh t
ùng

R

VU

2

Dacrycarpus imbricatus (Bl.) de Laub.

Thông nàng


CR


3 Podocarpus pilgeri Foxw. Thông tre lá ngắn R
4 Podocarpus neriifolius D.Don Thông tre lá dài CR
5

Nageia wallichiana (C. Presl.) O. Kuntze

Kim giao núi đ
ất

V

CR

6 Alstonia scholaris (L.) R. Br. Mò cua CR
7 Amoora dasyclada (How. & Chen) C. V. Wu Gội đỏ VU
8

Aquilaria crassna Pierre ex

Lec

Dó tr
ầm

E

CR

9


Ardisia silvestris Pit.

Lá khôi

V


10 Chukrasia tabularis A. Jus. Lát hoa K CR
11 Cinnamomum balansae Lec. Vù hương R EN
12

Cinnamomum parthenocylon Meissn.

C
ửu mộc

K

DD

13 Coscinium fenestratum (Gagn.) Colebr. Dây vằng đắng K
Ngành Họ Chi Loài
BHH

Đak BM BHH

Đak BM BHH

Đak BM

Ngành Thụng đất
(Lycopodiophyta)

2 2 2 2 2 3 6 3 16
Ngành Mộc tặc
(Equisetophyta)
1 0 1 1 0 1 1 0 1
Ngành Dương xỉ
(Polypodiophyta)
11 11 24 31 15 68 68 30 162
Ngành Hạt trần
(Gymnospermae)
4 3 7 6 6 11 9 10 20
Ngành Hạt kớn
(Angiospermae)
122 114 156 487 505 669 836 1009 1448

-Lớp hai lỏ mầm
(Dicotyledones)
91 93 130 388 404 411 707 857 1103

-Lớp một lỏ mầm
(Monocotyledones)
21 21 26 90 101 158 129 152 345
130 130 190 518 528 752 920 1055 1547


Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
18


STT

Tên khoa học Tên Việt nam
Tình tr
ạng

SĐVN
(1996)
IUCN
(1994)
14 Cratoxylon cochinchinensis (Lour.) Bl. Thành ngạnh Nam CR
15

Croton touranensis Gagn.

Cu đèn Đà n
ẵng


VU

16

Dalbergia entadoides Pierre ex Gagn.

Bàm bàm


DD


17 Dipterocarpus grandiflorus Blco Dầu hoa to CR
18 Dipterocarpus hasseltii Bl. Dầu CR
19

Dipterocarpus kerrii King

D
ầu c
à luân


CR

20 Engelhartia spicata Lesch. ex Bl. Chẹo bông CR
21 Erythrophleum fordii Oliv. Lim EN
22

Knema globularia (Lamk.) Warb.

Máu chó c
ầu


CR

23

Mangifera foetida Lour.

Xoài hôi



CR

24 Melientha suavis Pierre Rau sắng K
25 Rauvolfia cambodiana Pierre ex Pit Ba gạc căm bốt T
26

Rhodoleia championii Hook.f. (Rhoiptelea ??)

H
ồng quang

V

CR

27 Smilax glabra Roxb. Thổ phục linh V
28 Sindora tonkinensis A. Chev. ex K. & S. S. Lars. Gõ dầu V VU
29

Anoectochilus
cetaceus Blume

Lan g
ấm

E



30

Calamus poilanei Conr.

Mây b
ột

K


31 Dendrobium amabile (Lour.) O'brien Thuỷ tiên hường R
32 Livistona tonkinensis Magalon Kè bắc DD
Ghi chú: Tình trạng Sách đỏ Việt nam (1996): Endangered (E) - Đang bị đe doạ tuyệt
chủng; Vulnerable (V) – Sắp bị đe doạ tuyệt chủng; Rare (R) – Loài hiếm; Threatened (T) -
Bị đe doạ tuyệt chủng; Insufficiently know (K) - Biết không chính xác để xếp vào các cấp đe
dọa trên.

Bảng 7 : Danh sách các loài thực vật quý hiếm theo các mức độ đe dọa ở KBTTN Bắc
Hướng Hóa
CR EN VU DD (K) R T Tổng %
IUCN (1994)

14

2

3

4




23

2,5

SĐVN (1996) 2 5 5 4 1 17 1,8

2.3 khu hệ động vật
Khu hệ động vật hoang dã khu vực Bắc Hướng Hóa là một phần của khu hệ
động vật Bắc Trung Bộ hay một phần của khu hệ động vật vùng núi thấp miền Trung
Việt Nam. Các đặc trưng của khu hệ động vật hoang dã được mô tả ở các nhóm động
vật dưới đây.
2.3.1 khu hệ thú

Tính đa dạng của khu hệ thú
Tổng số 42 loài thú (không kể Dơi) thuộc 17 họ và 6 bộ đã được ghi nhận
trong quá trình điều tra. Trong đó có 26 loài đã chắc chắn ghi nhận cho khu vực và 16
loài được ghi nhận tạm thời qua thông tin phỏng vấn (Phụ lục 1). Trong đó loài Voọc
Hà tĩnh, loài phụ đặc hữu của Việt Nam lân đầu tiên phát hiện ở tỉnh Quảng Trị.
Trong số 26 loài ghi nhận chắc chắn trong hai đợt điều tra, 11 loài có trong
Sách đỏ các loài bị đe dọa của IUCN 2004 (IUCN, 2004) ở các cấp bị đe dọa, gần bị
đe dọa hoặc chưa đủ thông tin để xếp vào các nhóm loài bị đe doạ. Mười một trong số
này có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (Anon. 2000), bao gồm 5 loài ‘Nguy cấp’: Voọc
vá chân nâu, Voọc Hà Tĩnh, Vượn đen má trắng, Gấu ngựa và Sao la; sáu loài thuộc

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
19

loại sắp nguy cấp là Tê tê Java, Khỉ mặt đỏ, Rái cá vuốt bé, Mang lớn

Megamuntiacus vuquangensis, Bò tót và Sơn dương (Bảng 8).

Bảng 8: Các loài thú bị đe dọa ở cấp quốc gia và quốc tế ghi nhận ở Bắc Hướng Hoá
TT
Tên phổ thông Tên khoa học
Tình trạng
Qu
ốc gia

Th
ế giới

1 Tê tê Java Manis javanica V NT
2

Kh
ỉ mặt đỏ

Macaca arctoides

V

VU

3 Voọc vá chân nâu Pygathrix nemaeus E EN
4 Voọc Hà Tĩnh Semnopithecus laotum
hatinhensis
E DD
5



ợn đen má trắng

Nomascus leucogenis

E

DD

6

G
ấu ngựa

Ursus thibetanus

E

VU

7 Rái cá vuốt bé Aonyx cinerea V NT
8

Mang l
ớn

Megamuntiacus vuquangensis

V



9 Sơn dương Naemorhedus sumatraensis V VU
10

Sao la

Pseudoryx nghetinhensis

E

EN

11 Bò tót Bos gaurus V VU
12

Th
ỏ vằn

Nesolagus timminsi


DD

Ghi chú: Tình trạng quốc gia: E = Nguy cấp; V = Sắp nguy cấp theo Anon. (2000).
Tình trạng toàn cầu: EN = Nguy cấp; VU = Sắp nguy cấp; NT = Gần bị đe dọa; DD =
Chưa đủ dữ liệu theo IUCN (2004).

Các loài quan trọng đối với công tác bảo tồn
Phần này trình bày chi tiết các ghi nhận về các loài bị đe dọa ở cấp độ quốc gia
và quốc tế theo IUCN (2004) và Anon.(2000) trong lần khảo sát 2004 và 2005. Ngoài

ra bổ sung thêm một số loài quan sát thấy qua các lần khảo sát ngắn hoặc kết quả của
Nhóm giám sát đa dạng sinh học do cộng đồng tiến hành từ tháng 10 đến tháng 12
năm 2004.

Tê tê Java Manis javanica
Loài này được xác định dựa trên các vảy thu được tại một nhà thợ săn tại thôn
Cuồi, xã Hướng Lập. Dấu hang mới đào của tê tê cũng được ghi nhận tại vùng Khe
cựp (16°55'39”N, 106°35'29”E) vào ngày 11/02/2004. Theo thông tin phỏng vấn thì
loài này hiện còn có ở vùng núi giữa hai thôn Khe cựp và Cuồi, và mối đe dọa lớn
nhất đối với loài này là săn bắn và buôn bán do giá của chúng lên đến 400.000 đồng
một kilôgram (tại thời điểm phỏng vấn Tháng 2/2004).

Khỉ mặt đỏ Macaca arctoides
Quan sát một đàn khoảng 15 cá thể, ngày 13/02/2004 ở khu rừng gần thôn
Cuồi (16°55'24”N, 106°39'15”E) vào lúc 10h15’. Phân mới được xác định là của loài
này được tìm thấy ở độ cao 870 m so với mặt biển trên một đỉnh núi đá vôi không có
tên (16°55'38”N, 106°35'36”E) gần thôn Khe cựp vào ngày 11/02/2004 và một điểm
khác gần suối (16°53'49”N, 106°395'04”E) vào ngày 16/02/2004. Đợt khảo sát tháng
10/2005, đã quan sát 3 đàn, một đàn khoảng 30 cá thể trên đường mòn đi cột mốc 25
(Lào), một đàn cũng trên đường mòn này và một đàn nhìn thấy 3 cá thể ở thượng
nguồn Khe Cựp. Khỉ mặt đỏ hiện còn phổ biến ở khu vực bảo tồn Bắc Hướng Hóa.


Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
20

Voọc vá chân nâu Pygathrix nemaeus
Một đàn 5 cá thể đã quan sát thấy khi đang di chuyển trên cây ở dọc đường từ
thôn Khe cựp đến thôn Thôn Cuồi (16°55'43”N, 106°35'45”E) vào lúc 09h30 ngày
11/02/2004. Thông tin bổ sung từ Nhóm giám sát cộng đồng cho thấy: Đã nhìn thấy

một đàn lớn 30 cá thể, ngày 17/10/2004 tại khu vực Dốc Mang, một đàn khác 10 cá
thể cũng nhìn thấy ở khu Rào Thép, ngày 14/11/2004. Đợt khảo sát tháng 10/2005, đã
quan sát 3 con trong một đàn di chuyển trên đường mòn cách bên giới Việt-Lào
khoảng 1km.

Vượn đen má trắng Nomascus leucogenis
Khu vực Thôn Cợp có ít nhất 3 đàn vượn, hai đàn ở phía tây và một đàn ở phía
đông đường Hồ Chí Minh. Một đàn 3 cá thể đã quan sát thấy ngày 3/11/2005 ở khu
vực Khe Cợp, trong đó 1 con đực, 1 con cái và 1 con non (tọa độ: 0670237 N,
1872190 E). Thông tin bổ sung từ Nhóm giám sát cộng đồng cho thấy: Đã nhìn thấy
3 con ở Khe Suốt, ngày 16/11/2004 và 2 con khác cũng nhìn thấy vào tháng 10/2004.

Voọc Hà Tĩnh Semnopethecus laotum hatinhensis
Tên địa phương gọi loài này là con Cùng (con khỉ đen, đuôi dài sống ở lèn đá).
Một đàn 12 cá thể đã quan sát thấy tại sườn núi đá vôi có cây gần bản Trăng vào lúc
15h ngày 4/11/2005. Sáng ngày 5/11 lại quan sát thấy loài này trên các mỏm đá cùng
vị trí. Vào giữa tháng 12 quan sát thấy một cá thể trên mỏm đá cùng vị trí trên (Trải
quan sát). Dãy núi đá vôi nơi đang có đàn voọc sinh sống kéo dài từ bản Trăng về
phía đông khoảng 6-7 km với nhiều đỉnh và vách đá dốc đứng nối tiếp nhau, trên
sườn núi có nhiều cây gỗ và dây leo, cây bụi. Phía sau bản Trăng cũ có một hang đá
vòm cao, rộng trên đỉnh núi là nơi thích hợp loài voọc trú ngụ qua đêm và khi thời
tiết khắc nghiệt. Với điều kiện tự nhiên như vậy có thể số lượng đàn và cá thể voọc
đen ở đây còn nhiều hơn nếu được điều tra kỹ. Đây là loài phụ linh trưởng đặc hữu
của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên ghi nhận cho tỉnh Quảng Trị, trước đây loài này chỉ
được biết từ vùng núi Phong Nha-Kẻ Bàng và Kim Lũ Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình.

Gấu ngựa Ursus thibetanus
Các dấu móng cào của loài này được ghi nhận trên các cây gỗ (16°55'51”N,
106°35'22”E), và dấu móng và phân mới được cho là của loài này được phát hiện ở
vùng rừng nguyên sinh khu vực Khe cựp (16°55'40”N, 106°35'46”E) vào ngày

11/02/2004. Những người cung cấp thông tin còn cho biết một thợ săn thôn Khe cựp
mới săn được một con Gấu ngựa (khoảng 100 kilôgram) ở ngay vùng Khe cựp vào
tháng 12/2003.
Rái cá vuốt bé Aonyx cinereaDấu chân của loài này được phát hiện ở bờ sông Xê
Păng Hiêng vào các ngày 15 và 16/02/2004. Số lượng dấu chân phát hiện được rất
thấp cho thấy rằng có lẽ số lượng Rái cá vuốt bé trong vùng không nhiều. Phân rái cá
và dấu chân quan sát thấy ở dọc suối Cha Lỳ tháng 10/2005. Một bàn chân của loài
này thu được trong gia đình ở thôn Cựp trong đợt điều tra tháng 10-11/2005.

Mang lớn Megamuntiacus vuquangensis
Loài này được xác định qua ba bộ gạc tìm thấy ở nhà các thợ săn ở các thôn
Khe cựp, Xà Lỳ và Thôn Cuồi. Những người được phỏng vấn cho rằng Mang lớn còn
tương đối phổ biến ở các vùng rừng thường xanh của xã Hướng Lập. Hai thợ săn bắt

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
21

gặp tại khu vực Khe cựp nói rằng họ mới bắn được một con Mang lớn vào năm 2003.
Ông Hồ Hanh ở thôn Thôn Cuồi cũng khẳng định đã săn được một con vào cùng năm
2003.
Sơn dương Naemorhedus sumatraensis
Quan sát thấy một cá thể khi chạy ngang rừng (16°55’38”N, 106°35’21”E) ở
khu vực Khe cựp vào 08h27 ngày 11/2/2004. Đã quan sát thấy phân và dấu chân mới
của loài này vào các ngày 15 và 16/02/2004 tại một số điểm khác nhau ở khu vực
Khe Cuồi. Đã quan sát thấy ba cặp sừng của loài này ở các thôn Khe Cợp và Thôn
Cuồi. Thông tin bổ sung từ Nhóm giám sát cộng đồng cho thấy: Đã nhìn thấy 1 con ở
Rào Thép, ngày 17/10/2004 và 2 con khác nhìn thấy ở Rào Thép, ngày 15/11/2004 và
1 con khác ở ngã ba Dân Chủ cùng ngày 15/11/2004. Dấu chân và phân của loài này
thấy nhiều ở khu vực Động Sa Mù trong lần điều tra vào tháng 11/2005.


Bò tót Bos gaurus
Nhóm hỗ trợ bảo tồn tại bắc Hướng Hoá do Dự án MacArthur thành lập trong
khi đi tuần tra vào 18/10/2004 đã nhìn thấy 1 con đực ở Khe Cuồi; 1 con khác nhìn
thấy ở Dốc Mang ngày 5/11 và Khe Tà Nạp vào ngày 8/11/2004. Nhóm giám sát
khẳng định trong vùng có một đàn Bò tót 3 cá thể, nhiều lúc tách ra ăn rải rác, trong
các tháng cuối năm 2004 thường thấy 3 con kiếm ăn tập trung.

Sao la Pseudoryx nghetinhensis
Đồng bào Vân Kiều gọi loài này là con La Ràng. Loài này gần đây được ghi
nhận tại xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình (tiếp giáp về phía bắc của xã
Hướng Lập) bởi Lê Mạnh Hùng et al. (2002). Các thợ săn ở các thôn Khe cựp và
Thôn Cuồi đều mô tả Sao la một cách chính xác và khẳng định loài này hiện vẫn còn
phân bố ở khu vực Khe cựp - Thôn Cuồi. Những người được hỏi còn cung cấp thông
tin về một con Sao la (khoảng 70 kilôgram) đã bị ông Vương ở thôn Khe cựp bẫy vào
năm 2003, và một con Sao la khác (khoảng 100 kilôgram) đã bị một thợ săn tên là Hồ
Sy bắn ở vùng rừng Thôn Cuồi vào tháng 11/2003 và sau đó sừng của cá thể này
được đem cho ông Hồ Sam. Khi được hỏi, ông Hồ Sam cũng khẳng định thông tin
này là đúng. Đã quan sát và chụp ảnh sừng của loài này tại nhà Ông Hồ Sâm ngày
15/9/2004 (Lê Trọng Trải và Vũ Văn Dũng. pers. obser.). Nhiều vết ăn trên cây môn
thục cùng dấu chân còn mới của Saola quan sát thấy dọc khe cạn của Khe Rào Thép
vào giữa tháng 12/2005 (Trải quan sát).

Thỏ vằn Nesolagus timminsi
Ngày 20/1/2005, trên đường từ Bắc Hướng Hoá ra Khe Sanh nhìn thấy 1 con
Thỏ vằn chạy ngang qua đường khu vực gần đèo Sa Mù, độ cao khoảng 900 m
(Tordoff pers observ.). Tháng 5/2005 nhóm khảo sát thú Viện Động vật Peterburg
(Nga) thu được mẫu sọ thỏ rừng tại lán thợ săn ( toạ độ 0671516N, 1871475E) trong
khu vực rừng giữa 2 thôn Cuồi-Cợp. Thợ săn cho biết đã bắt được 4 con thỏ trong
khoảng 20 ngày ở khu vực này (10-30/4/2005).


2.3.2 Khu hệ chim
Kết quả của hai lần khảo sát năm 2004 và 2005 đã ghi nhận 171 loài chim,
thuộc 14 Bộ, và 32 Họ cho khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa (Phụ lục 2).
Trong số đó có 18 loài có giá trị bảo tồn (Bảng 9), trong số đó có 9 được ghi trong

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
22

sách đỏ Thế Giới (BirdLife International 2004) đây là những loài bị đe dọa mang tính
toàn cầu, và 12 loài ghi trong sách đỏ Việt Nam (Anon 2000). Trong số 18 loài có 7
loài là những loài có vùng phân bố hẹp (vùng phân bố toàn cầu nhỏ hơn 50.000km
2
),
trong đó có 2 loài đặc hữu cho Việt Nam (Gà lôi lam mào trắng và Gà so trung bộ).

Tính đa dạng về thành phần loài của khu hệ chim Bắc Hướng Hóa
Danh sách 171 loài chim chỉ là kết quả bước đầu cho khu hệ chim Bắc Hướng
Hóa, các đợt khảo sát cho tới thời điểm này mới chỉ tập trung ở các đai cao dưới
1000m. Khác với khu hệ chim ở các vùng khác, một số loài gặp với số lượng khá lớn
như: Gầm ghì lưng nâu, Cu xanh mỏ quặp, Niệc nâu, Yểng, Cành cạch đen, các loài
chào mào và các loài cu rốc. Đây là các loài chim chủ yếu ăn quả. Điều đó chứng
minh rằng, chất lượng rừng hoặc số lượng các loài cây rừng có quả làm thức ăn cho
chim đa dạng và phong phú. Ba loài chim Gầm ghi lưng nâu, Yểng và Niệc nâu có
thể là chỉ thị cho chất lượng rừng ở khu vực còn tốt. Cũng như vậy các loài chim ăn ở
tầng giữa và dưới tán rừng gặp với số lượng lớn như: Khướu xám, Khướu đầu trắng,
Khướu má xám và nhiều loài khướu nhỏ khác. Đây là những loài chỉ thị cho chất
lượng tầng tán rừng ở Bắc Hướng Hóa vẫn còn nguyên vẹn.

Bảng 9: Các loài chim có giá trị bảo tồn ghi nhận cho KBTTN Bắc Hướng Hóa
TT

Tên Việt Nam Tên khoa học IUCN (2004) SĐVN (2000)
1.

Gà so Trung bộ Arborophila merlini RRS En
2.

Gà lôi lam mào trắng Lophura edwardsi EN, RRS En
3.

Gà lôi hông tía L. diardi NT T
4.

Trĩ sao Rheinardia ocellata VU T
5.

Gõ kiến xanh cổ đỏ Picus rabieri NT, RRS
6.

Thầy chùa đít đỏ Megalaima lagrandieri RRS
7.

Niệc nâu Anorrhinus tickelli NT T
8.

Hồng hoàng Buceros bicornis NT T
9.

Bồng chanh rừng Alcedo hercules NT T
10.


Sả hung Halcyon coromanda R
11.

Bói cá lớn Megaceryle lugubris T
12.

Diều cá bé Ichthyophaga humilis NT
13.

Đuôi cụt bụng vằn Pitta elliotii T
14.

Mỏ rộng xanh Psarisomus dalhousiae T
15.

Chim khách đuôi cờ Temnurus temnurus T
16.

Khướu đầu xám Garrulax vassali RRS T
17.

Khướu mỏ dài Jabouilleia dangjoui VU, RRS T
18.

Chích chạch má xám Macronous kelleyi RRS
Ghi chú: Tình trạng bị đe dọa trong sách đỏ: E (EN)= Bị đe dọa Nghiêm trọng trong sách
đỏ Việt Nam và Thế Giới (IUCN); V (VU)= Sắp bị đe dọa Nghiêm trọng trong sách đỏ Việt
Nam và Thế Giới (IUCN); NT= Gần bị đe dọa trong sách đỏ Thế Giới (IUCN); T= Bị đe
dọa trong sách đỏ Việt Nam; R= Loài hiếm trong sách đỏ Việt Nam; En= Loài đặc hữu của
Việt Nam; RRS= Loài có vùng phân bố hạn hẹp.


Tình trạng của một số loài quí hiếm ở khu vực nghiên cứu
Gà lôi lam mào trắng Lophura edwardsi

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
23

Tên địa phương (tiếng Vân Kiều) gọi loài này con Cà Lừng. Trong hai đợt khảo
sát 2004, 2005 chưa quan sát được loài này. Tuy nhiên Nhóm giám sát cộng đồng
nhìn thấy 2 con trống (con đực) ở vùng Rào Thép, ngày 17/10/2004. Trước đây, năm
1996, tại làng Kreng (16
0
35’N; 107
0
05’E), xã Hướng Hiệp (phía đông bắc của khu
vực) thợ săn địa phương đã bẫy được một cặp (trống và mái) của loài này, con mái bị
chết, con trống được chuyển về nuôi tại Vườn thú Hà Nội (Lê Trọng Trải và cộng sự
1999). Mối đe dọa lớn nhất của loài này hiện nay là săn bẫy với mục đích làm thực
phẩm, đôi khi bán trong vùng với giá đắt hơn gà nhà chút ít. Trong phạm vi khu bảo
tồn, sinh cảnh rừng thích hợp của Gà lôi lam mào trắng là rừng thường xanh trên đất
thấp dưới 600 m còn khá lớn.

Gà so Trung Bộ Arborophila merlini
Gà so Trung Bộ là loài đặc hữu có vùng phân bố giới hạn trong Vùng Chim
Đặc hữu (EBA) Đất thấp Trung Bộ. Trong lần khảo sát năm 2005 đã quan sát được
loài này ở khu vực Suối Cha Lỳ, nhiều tiếng kêu của loài này cũng nghe thấy dọc
theo đường mòn từ Cha Lỳ đi cột mốc 25 giữa Việt Nam và Lào. Đe dọa lớn nhất của
loài này cũng như các loài khác trong Bộ gà là săn bẫy.

Trĩ sao Rheinardia ocellata

Đã thu thập được nhiều lông của loài này tại hai lán thợ săn bẫy trong lần điều
tra năm 2005. Nhóm tuần tra rừng cộng đồng đã nhiều lần quan sát thấy Trĩ sao ở khu
rừng thôn Cuồi và Cựp trong các năm 2004 và 2005.

Hồng hoàng Buceros birconis
Khu vực rừng giáp ranh hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị thường xuyên gặp
loài này, nhưng mỗi lần gặp chỉ tối đa 3 cá thể. Hiện tại loài này chỉ đe dọa khi diện
tích rừng thường xanh bị mất vì hầu hết súng săn trong vùng đã tịch thu và được bộ
đội biên phòng kiểm soát nghiêm ngặt.

Niệc nâu Anorrhinus tickelli
Đã quan sát một đàn lớn khoảng hơn 30 cá thể khu vực ngã ba Dân Chủ trong
lần khảo sát năm 2005. So với các vùng khác trên cả nước khu vực Bắc Hướng Hóa
hiện có số lượng quần thể Niệc nâu khá lớn. Loài này bị đe dọa bởi săn bắn dùng
súng và mất rừng cung cấp thức ăn và làm tổ. Những lần khảo sát năm 2004 và đầu
năm 2005 cũng đã quan sát thấy loài này nhưng số lượng không nhiều.

Khướu mỏ dài Jabouilleia danjoui
Đã quan sát nghe thấy nhiều tiếng kêu của loài này ở khu vực giáp ranh hai
tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Tình trạng khá phổ biến trong khu vực nghiên cứu
năn 2005. Đây là loài đặc hữu của Việt Nam.

2.3.3Khu hệ bò sát và ếch nhái
Khảo sát khu hệ Bò sát và Ếch nhái khu vực Bắc Hướng Hóa do nhóm chuyên
gia của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh Vật và Viện Động vật St. Petersburg-Viện
Hàn Lâm Khoa học Nga tiến hành từ ngày 20/4-15/5/2005. Kết quả phân tích và báo
cáo sơ bộ đã chỉ ra rằng khu hệ Bò sát và Ếch nhái khu vực có tính đa dạng sinh học
cao. Tổng số ghi nhận 61 loài Bò sát và Ếch nhái, trong đó 30 loài Ếch nhái thuộc 5

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá

24

họ và 1 bộ và 31 loài Bò sát thuộc 8 họ và 2 bộ. Kết quả nghiên cứu cũng ghi nhận
mới một số loài cho khu vực như: 2 loài ếch cây thuộc giống Theloderma spp., Ếch
cây Hymalayan Rhacophorus bipunctatus, Rắn ri cá (H. buccata), Rắn khuyết (L.
ruhstrati), Rắn lục cườm (Trimeresurus mucrosquamatus), Rắn cạp nia thường
(Bungarus bungaroides) vvv. Hơn thế nữa, đã phát hiện 3 loài có thể chúng là loài
mới cho học thuộc 3 giống sau: Nhái cây (Philautus), Rắn sãi (Amphiesma) và Rắn
khiêm (Oligodon). Về giá trị bảo tồn chưa thống kê cụ thể nhưng có nhiều loài quý
hiếm trong sách đỏ Việt Nam và Thế Giới như: Tắc kè, Rồng đất, Cạp nia nam, Cạp
nia thường, Rắn lục volgel, Rùa đất Sêpôn, Cóc rừng, Ếch gai sần vvv. (Hồ Thu Cúc
2005. báo cáo tóm tắt gửi Chi cục kiểm lâm Quảng Trị).

2.4 Đặc điểm kinh tế-xã hội
2.4.1 Dân số và sự phân bố dân cư
Các thông tin về kinh tế xã hội được thu thập ở 5 xã có liên quan đến quy hoạch
Khu BTTN Bắc Hướng Hoá thuộc tỉnh Quảng Trị. Năm xã có liên quan bao gồm:
Hướng Lập, Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Việt và Hướng Linh (huyện Hướng
Hóa) và Hướng Hiệp (huyện Đakrông), trong đó xã Hướng Việt mới được thành lập
theo Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2004 của Chính Phủ. Tổng số dân
là 9.151 người, 1.915 hộ, trong đó có 1.308 hộ là người Vân Kiều (chiếm 68,3 % tổng
số hộ của 5 xã), dân tộc Pacô chỉ có 1 hộ, còn lại là người Kinh. Kết quả thống kê tình
hình dân số, diện tích và mật độ dân số năm 2004 của vùng nghiên cứu được trình bày
ở Bảng 10.

Bảng 10: Thống kê tình hình dân số, diện tích và mật độ dân số trong khu vực năm 2004

Hạng mục
Hướng
Lập

Hướng
Việt
Hướng
Phùng
Hướng
Sơn
Hướng
Linh
Cộng
Tổng số hộ 188

185

928

262

352 1.915

+ Kinh
6

5

576

8

11
606


+ Vân Ki
ều

182

180

351

254

341
1.308

+ Pacô 0

0

0

0

0 0

+ Khác 0

0

1


0

0 1

Nhân khẩu
1.154

1.039

3.517

1.540

1.901 9.151

+ Nam 591

524

1849

798

948 4.710

+ Nữ 563

515


1668

742

952 4.440

Lao động 426

422

1.634

592

763 3.837

+ Nam
212

218

862

300

385 1.617

+ N



214

204

772

292

378
1.860

Số hộ đói nghèo 114

115

148

140

234 751

Tỷ lệ hộ đói
nghèo(%)
60,6

62,2

15,9

53,4


66,5
22,26

M
ật độ dân
số(người/km2)
7,4

15,9

28,2

7,5

16,3
15,06

Diện tích tự nhi
ên
(km2)
155,37

65,2

124,79

204,56

116,55

665,914

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004 (Phòng thống kê huyện Hướng Hoá ).

Kết quả ở Bảng 10 cho thấy, tổng số hộ đói nghèo của 5 xã là 751 hộ (chiếm
39,2 % tổng số hộ của 5 xã). Trong đó, xã có tổng số hộ đói nghèo nhiều nhất trong

Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
25

5xã là xã Hướng Linh với tổng số hộ đói nghèo là 234 hộ, chiếm 66,5% tổng số hộ của
xã. Tổng diện tích đẩt tự nhiên của 5 xã là 665,914 ha. Trong đó, xã Hướng Việt có
diện tích tự nhiên là nhỏ nhất (6.520 ha), xã Hướng Sơn có diện tích tự nhiên là lớn
nhất (20.456 ha) trong 5 xã. Dân cư các xã trong vùng nghiên cứu có mật độ dân số là
tương đối thấp (19,1 người/km
2
) trong đó xã có mật độ phân bố dân cư thấp nhất là xã
Hướng Lập với 7,4 người/km
2
, xã có mật độ dân số cao nhất là xã Hướng Phùng với
28,2 người/km
2
.

2.4.2 Giáo dục
Hầu hết các xã trong vùng nghiên cứu đều có trường trung học cơ sở và trường
tiểu học. Tuy nhiên các xã vẫn chưa có trường phổ thông trung học, công tác phổ cập
học sinh trong độ tuổi đến trường vẫn chưa huy động hết, đội ngũ giáo viên còn thiếu,
chất lượng dạy và học chưa cao. Trình độ văn hoá nói chung còn thấp, đặc biệt là đối
với cộng đồng người dân tộc vân kiều. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện kinh tế

của người dân trong vùng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng phục vụ cho
công tác giảng dạy còn thiếu, điều kiện giao thông đi lại khó khăn đặc biệt là vào mùa
mưa.

2.4.3 Công nghiệp và dịch vụ
Tình hình phát triển các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ ngoài quốc
doanh trong vùng nói chung còn kém phát triển và số lượng còn ít. Cụ thể là, tổng số
cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh trong vùng là 21 cơ sở, tổng sổ cơ sở thương
mại và dịch vụ ngoài quốc doanh là 51 cơ sở (Niên giám thống kê năm 2004 huyện
Hướng Hoá).

2.4.4 Giao thông và y tế
Mạng lưới giao thông trong vùng khá phát triển, các xã trong vùng đều có
đường ô tô đến tận trụ sở UBND. Tuy nhiên vào mùa mưa giao thông đi lại giữa các
xã trong vùng là rất khó khăn. Mạng lưới y tế đã có tới các xã, 100% các xã trong
vùng đều có trạm y tế nhà cấp 4 trở lên, nhưng nhìn chung công tác chăm sóc sức
khoẻ cho nhân dân còn nhiều hạn chế, thuốc chữa bệnh còn thiếu, và đội ngũ cán bộ y
tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân vẫn còn thiếu.

2.4.5 Chăn nuôi gia súc
Tình hình chăn nuôi gia súc trong vùng nói chung là tương đối phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Theo thông tin từ niên giám thống kê từ năm 2000 đến nay số
lương các đan gia súc ở tất cả các xã đều tăng đã góp một phần đáng kể thu nhập cho
nhiều hộ gia đình. Tuy vậy chủ yếu là chăn thả rông nên chất lượng đàn gia súc ở đây
không được cao.
Bảng 11: Tổng đàn gia súc trong vùng nhiên cứu năm 2004
Đơn vị: con
Hạng mục

Hướng

Lập
Hướng
Việt
Hướng
Phùng
Hướng
Sơn
Hướng
Linh
Cộng
Trâu 219 165 225 456 554
1619

Bò 547 319 359 611 998
2834
L
ợn

159

165

426

380

268

1398
Dê 106 100 250 133 193

782
Ngựa 3 0 2 3 1
9

×