Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN THỌ XUÂN TRONG GIAI ĐOẠN 2006 - 2011 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ĐỊA LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.14 KB, 137 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thọ Xuân - vùng đất địa linh nhân kiệt, là đất thang mộc của hai vương
triều hiển hách (Tiền Lê và Hậu Lê) đã để lại những dấu son sáng chói trong lịch
sử Việt Nam. Đây còn là huyện có vị thế quan trọng của tỉnh Thanh Hoá. Nằm
phía Tây Bắc của tỉnh, ở vào vị trí nối liền đồng bằng với trung du miền núi, Thọ
Xuân thực sự trở thành một vùng đất mở trong việc giao lưu, hội nhập trong và
ngoài tỉnh. Mặt khác, huyện được cấu tạo bởi hai dạng địa hình: bán sơn địa và
đồng bằng châu thổ rất thích hợp cho việc phát triển một nền NN toàn diện. Thọ
Xuân còn có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp và du lịch.
Phát huy truyền thống cùng với những lợi thế mà không phải huyện nào
cũng có, Thọ Xuân ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Huyện đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay quá trình phát triển kinh tế của
huyện đã và đang gặp nhiều vấn đề khó khăn cần được giải quyết như tốc độ tăng
trưởng kinh tế còn chậm, cơ cấu sử dụng lao động trong các ngành kinh tế chưa
hợp lí, sự xuống cấp của cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi trường Chính vì vậy, việc
phát triển kinh tế của huyện tương xứng với tiềm năng sẵn có trong thời kỳ công
nghiệp hóa là một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết. Từ đó tạo cơ sở để nền
kinh tế huyện hòa nhập vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa nói
riêng và cả nước nói chung.
Là một giáo viên dạy địa lý trung học phổ thông, lại được sinh ra trên mảnh
đất này, với mong muốn góp phần vào việc phát triển bền vững nền kinh tế của
Thọ Xuân trong tương lai tôi đã lựa chọn đề tài: “Phát triển kinh tế huyện Thọ
Xuân trong giai đoạn 2006 - 2011 và tầm nhìn đến năm 2020” nhằm vận dụng
kiến thức lý luận về địa lí KT – XH và phương pháp nghiên cứu khoa học để phân
tích, kế thừa, bổ sung và cập nhật những vấn đề phát triển kinh tế huyện. Ngoài ra,
đề tài còn có thể phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu địa lí địa phương
cấp huyện ở trường phổ thông.
1


2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu phát triển kinh tế các huyện đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học, nhà kinh tế, các cơ quan chuyên ngành với mong muốn phát
huy được các nguồn lực sẵn có để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Bàn về phát triển kinh tế, lí luận và thực tiễn, có nhiều công trình nghiên
cứu, trong đó tiêu biểu là:
Báo cáo quy hoạch phát triển công nghiệp – vùng Bắc Trung Bộ do viện
Quy hoạch và thiết kế công nghiệp (Bộ công thương) thực hiện.
Địa lí các vùng kinh tế Việt Nam của PGS. TS Nguyễn Minh Tuệ (Chủ
biên), GS. TS. Nguyễn Viết Thịnh; (NXB Giáo dục Việt Nam – 2009).
Địa lí kinh tế Việt Nam của GS. TS. Nguyễn Viết Thịnh, GS. TS. Đỗ Thị
Minh Đức; (NXB Giáo Dục – Hà Nội 2001).
Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam của GS. TS. Lê Thông, PGS. TS. Nguyễn
Minh Tuệ và PGS. TS. Nguyễn Văn Phú (NXB Giáo dục Hà Nội – 2001).
Trong chương trình đào tạo thạc sĩ của khoa Địa lý, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, nội dung tổ chức lãnh thổ kinh tế nói chung và kinh tế huyện nói
riêng là những vấn đề rất quan trọng và đã có nhiều luận văn, luận án về vấn đề
này. Một số luận văn Thạc sĩ tiêu biểu nghiên cứu về kinh tế - xã hội một tỉnh như:
Ph©n tÝch tiÒm n¨ng vµ thùc tr¹ng ph¸t triÓn kinh tÕ biÓn tØnh Thanh Ho¸,
của Đào Thanh Xuân – 2009.
Kinh tế Hà Nam trong thời kì công nghiệp hóa, của Đỗ Văn Dũng Hà Nội – 2009.
Nghiên cứu về kinh tế - xã hội một huyện có các luận văn:
Kinh tế huyện Kỳ Anh trong thời kì đổi mới, luận văn thạc sĩ của Trương
Thị Nguyệt – 2009.
Phát triển kinh tế huyện Gia lâm trong thời kì công nghiệp hóa, luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hà– 2010.
Nghiên cứu về địa bàn huyện Thọ Xuân đã có một số công trình đi sâu vào
các khía cạnh, lĩnh vực nhất định như:
Địa chí huyện Thọ Xuân do Huyện ủy - Hội đồng nhân dân, UBND huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa thực hiện, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2005.

2
Lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân Tập 1, năm 2000
Tuy nhiên, dưới góc độ địa lí KT – XH, hiện nay chưa có một công trình
nào nghiên cứu về kinh tế huyện Thọ Xuân trong thời kì công nghiệp hóa.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu đã có về phát triển kinh tế cấp huyện,
mục tiêu chủ yếu của đề tài là phân tích tiềm năng, thực trạng phát triển kinh tế
cấp huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá để từ đó đề xuất định hướng và giải phát
phát triển cho đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan các nghiên cứu về phát triển kinh tế của một đơn vị lãnh thổ
cấp huyện.
- Kiểm kê, đánh giá các nguồn lực ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của
huyện Thọ Xuân, những lợi thế và thách thức.
- Phân tích thực trạng nền kinh tế, Thọ Xuân trong giai đoạn 2006 - 2011
theo khía cạnh ngành và lãnh thổ.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát triển ổn định, hiệu quả
và bền vững nền kinh tế của huyện.
4. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Phạm vi nghiên cứu: Toàn huyện Thọ Xuân, có độ sâu tới cấp xã.
- Nội dung: Tập trung đánh giá các nguồn lực phát triển kinh tế và hoạt
động kinh tế theo ngành và theo không gian.
- Thời gian nghiên cứu: Số liệu phân tích được lấy trong khoảng thời gian từ
2006 – 2011, tầm nhìn đến năm 2020.
5. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Các quan điểm nghiên cứu
- Quan điểm hệ thống
Khi nghiên cứu đề tài phải đảm bảo được tính hệ thống. Tính hệ thống làm
cho đề tài trở nên lôgic, thông suốt và sâu sắc. Lãnh thổ Thọ Xuân được coi là một

3
hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất, trong đó bao gồm các hệ thống con (như các thị
trấn, các xã). Các hệ thống có mối quan hệ tương tác, mật thiết với nhau. Vì vậy cần
phải tìm hiểu các mối quan hệ qua lại, các tác động ảnh hưởng giữa các yếu tố trong
một hệ thống và giữa các hệ thống để đánh giá chính xác vấn đề nghiên cứu.
- Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Mọi sự vật và hiện tượng địa lý đều tồn tại và phát triển trong một không
gian lãnh thổ nhất định. Khoa học địa lý tìm ra sự phân hóa của các sự vật, hiện
tượng và dự kiến sự phân bố của chúng trong không gian.
Cơ cấu lãnh thổ huyện Thọ Xuân được coi như một thể tổng hợp tương đối
hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố tự nhiên, KT – XH có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Do đó phải có cái nhìn tổng hợp lãnh thổ để
phân tích các khía cạnh có ảnh hưởng đến lãnh thổ trên địa bàn nghiên cứu, tìm ra
các quy luật phát triển, từ đó định hướng phát triển có tính tổng hợp nhằm khai
thác tốt nhất những tiềm năng của huyện.
- Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng địa lý dù lớn hay nhỏ đều phát sinh, phát triển theo
quy luật riêng của nó. Vận dụng quan điểm lịch sử vào việc nghiên cứu đề tài để
thấy được những biến đổi của các yếu tố kinh tế trong từng giai đoạn phát triển
của các ngành kinh tế trong huyện. Vận dụng quan điểm lịch sử và viễn cảnh còn
cho ta thấy được sự hình thành và phát triển của các ngành kinh tế trong quá khứ,
hiện tại và tương lai.
- Quan điểm phát triển bền vững
Những giải pháp cho sự phát triển KT – XH phải dựa trên quan điểm bền
vững. Phát triển KT – XH phải gắn liền với bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên
nhiên, chống ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học (Phép biện
chứng duy vật và duy vật lịch sử) và bám sát đường lối đổi mới của Đảng – Nhà

nước ta trong thời kì CNH – HĐH đất nước.
4
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp thu thập tài liệu
Phân tích, đánh giá thực trạng nền kinh tế theo khía cạnh ngành và lãnh thổ
là những công việc phức tạp, đa dạng, các tiêu chí đánh giá có liên quan đến nhiều
lĩnh vực. Để thực hiện đề tài này, tác giả đã thu thập dữ liệu bằng cả số (thống kê),
bằng văn bản và dữ liệu không gian (bản đồ) từ nhiều nguồn khác nhau, có thống
nhất về thời gian (2006 – 2011). Sau đó tiến hành tổng hợp, phân tích chọn lọc để
có những tài liệu thực sự cần thiết, đáp ứng được những yêu cầu của đề tài.
- Phương pháp phân tích hệ thống, tổng hợp, so sánh.
Trên cơ sở số liệu bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các mối
quan hệ về không gian, thời gian giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là
các mối liên hệ về tự nhiên và nhân văn, các mối quan hệ hình thức và bản chất.
Qua đó xây dựng mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, đề tài vận dụng các
phản ứng tích cực và tiêu cực khi có ngoại cảnh tương tác, từ đó lựa chọn phương
pháp tối ưu. Quá trình phân tích, đánh giá, đề xuất được tiến hành trên cơ sở so
sánh, tổng hợp để rút ra các bản chất của hiện tượng kinh tế, hiện tượng địa lý
phục vụ cho đề tài.
- Phương pháp thống kê toán học
Trên cơ sở thống kê số liệu đã thu thập được từ Chi Cục Thống kê tỉnh
Thanh Hóa và các Phòng Thống kê, Phòng NN, Phòng Công thương, Phòng Tài
chính kế hoạch, Phòng Văn hóa thể thao, Phòng Tài nguyên môi trường của huyện
Thọ Xuân. Từ đó tác giả sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số
liệu thu thập được theo mục đích, tính toán, so sánh, đánh giá… nhằm tìm ra
những thông số cần thiết phục vụ cho nội dung đề tài.
- Phương pháp bản đồ, biểu đồ và sử dụng công nghệ GIS.
+ Bản đồ dùng để mô tả hiện trạng kinh tế, sự phân bố các hiện tượng địa lý
kinh tế, các mối liên hệ lãnh thổ trong không gian, các mối quan hệ giữa chúng và
những dự kiến phát triển kinh tế.

+ Biểu đồ được sử dụng để phản ánh quy mô các hiện tượng kinh tế như:
ngành, lĩnh vực…
5
+ Sử dụng công nghệ GIS để số hóa và vẽ các bản đồ, biểu đồ một cách
chính xác mang tính khoa học cao và đáp ứng yêu cầu của đề tài.
- Phương pháp thực địa
Được thực hiện trên cơ sở khảo sát, tìm hiểu trực tiếp các xã, thị trấn, một
số nơi SX NN, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và các lễ hội trên địa bàn
huyện. Từ đó xin ý kiến đánh giá của các nhà quản lý, các chuyên gia, phỏng vấn
một số cán bộ địa phương và hộ nông dân, hộ kinh doanh thương mại dịch vụ về
lĩnh vực liên quan đến đề tài. Sau đó thu thập thêm thông tin, bổ sung những hiểu
biết của tác giả về quê hương, cũng là địa bàn nghiên cứu và kiểm chứng các phân
tích, tổng hợp, nhận định của tác giả.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Xây dựng được cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển kinh tế ở địa bàn
cấp huyện và vận dụng vào huyện Thọ Xuân.
- Đánh giá được các nguồn lực, làm sáng tỏ lợi thế và cơ hội phát triển, các
hạn chế và thách thức đối với nền kinh tế của huyện Thọ Xuân.
- Phân tích được thực trạng phát triển kinh tế huyện Thọ Xuân theo cơ cấu
ngành và cơ cấu lãnh thổ.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp cụ thể nhằm phát triển kinh tế
huyện Thọ Xuân nhanh mạnh và bền vững.
7. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, các
biểu đồ, bảng biểu, hệ thống các bản đồ, luận văn được trình bày theo 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển kinh tế huyện.
Chương 2: Các nguồn lực phát triển kinh tế huyện Thọ Xuân.
Chương 3: Hiện trạng phát triển kinh tế huyện Thọ Xuân.
Chương 4: Định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế huyện Thọ Xuân
đến năm 2020.

6
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Các khái niệm
Ngày nay, phát triển là khái niệm thường xuyên được sử dụng. Mục tiêu của
sự phát triển là không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống về vật chất, văn hóa,
tinh thần cho từng cá nhân lẫn cho cả cộng đồng. Trong sự phát triển nói chung thì
tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi. Việc hiểu rõ về khái niệm
và các lý luận về nó cũng góp phần vào việc định hướng xây dựng các chính sách
phát triển KT - XH đảm bảo các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế.
1.1.1.1 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là việc mở rộng tiềm lực kinh tế của một quốc gia, là sự
tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ
phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh
hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng trưởng là "cặp đôi" trong
nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế.
Trên thế giới hiện nay người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải
của xã hội bằng các đại lượng tổng thu nhập quốc gia hoặc tổng sản phẩm quốc nội.
Tuy nhiên, khái niệm tăng trưởng kinh tế chỉ thuần tuý nói đến số lượng.
Bởi những con số thể hiện sự tăng trưởng GDP, GNI, hay GDP/người không phản
ánh sự vận động đi lên của xã hội, không cho phép biết được tình hình phân phối
thu nhập quốc dân, cơ cấu kinh tế xã hội, tính năng động của nền kinh tế và tình
hình phúc lợi của nhân dân.
Ngày nay, tăng trưởng kinh tế được gắn với chất lượng tăng trưởng. Nếu
như số lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở qui mô, tốc độ của tăng
trưởng, thì chất lượng của tăng trưởng kinh tế là tính qui định vốn có của nó, là sự
thống nhất hữu cơ làm cho hiện tượng tăng trưởng kinh tế khác với các hiện tượng
khác. Chất lượng tăng trưởng được qui định bởi các yếu tố cấu thành và phương
thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành nên tăng trưởng kinh tế.

7
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Theo quan điểm của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, Ngân hàng thế
giới, và một số nhà kinh tế học nổi tiếng được giải thưởng Nobel gần đây như
Amrtya Sen, G.Becker, R.Lucas, J.Stiglitz thì cùng với quá trình tăng trưởng, chất
lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính sau đây:
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh được
những biến động từ bên ngoài.
- Thứ hai, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, được thể hiện ở sự đóng góp
của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp TFP cao và không ngừng gia tăng.
- Thứ ba, tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
- Thứ tư, tăng trưởng đi kèm theo với phát triển môi trường bền vững.
- Thứ năm, tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới, đến lượt nó
thúc đẩy tăng trưởng ở tỷ lệ cao hơn.
- Thứ sáu, tăng trưởng phải đạt được mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và
giảm được đói nghèo.
Nhìn chung, khi nghiên cứu quá trình tăng trưởng, cần phải xem xét hai mặt
của hiện tượng tăng trưởng kinh tế là số lượng và chất lượng của tăng trưởng một
cách đầy đủ. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ và chất lượng cao là mong muốn của
mọi quốc gia và của cả nhân loại trên toàn thế giới.
1.1.1.2. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Phát triển
kinh tế là quá trình lớn lên, và tăng tiến về mọi mặt kinh tế trong một thời kì nhất
định. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ
cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. Như vậy, phát triển kinh tế bao gồm
những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự tăng trưởng là sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập bình quân đầu người.
8

Thứ hai, sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng thời đại, tiến bộ: Tỷ trọng
ngành NN ngày càng giảm, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng
trong tổng sản phẩm quốc dân.
Thứ ba, đời sống của nhân dân ngày càng cao về phúc lợi xã hội, tiêu chuẩn
sống, giáo dục, sức khỏe và sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia, người dân được xem là
thành viên chủ yếu của quá trình thay đổi cơ cấu. Khi tham gia vào quá trình phát
triển là họ đã tham gia vào việc hưởng thụ lợi ích của sự phát triển cũng như tạo ra
các lợi ích đó. Người nước ngoài có thể tham gia nhưng họ không phải là người
thực hiện toàn bộ quá trình phát triển. Nếu như chỉ làm ra được một chút lợi
nhuận, hoặc làm cho một nhóm nào đó trở nên giàu có cũng không thể coi đó là sự
phát triển.
1.1.1.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng kinh tế thiên về số lượng, còn tiến bộ về cơ cấu kinh tế và xã
hội phản ánh về chất lượng của nền kinh tế. Như vậy, tăng trưởng và phát triển
kinh tế là hai thuật ngữ khác nhau nhưng luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển kinh tế, nhưng tăng trưởng kinh tế là
yếu tố cơ bản nhất của phát triển kinh tế. Nếu không có tăng trưởng kinh tế thì sẽ
không có phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế bao hàm trong đó có tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững hơn. Tựu chung lại, phát triển kinh tế chính bằng tăng
trưởng kinh tế cộng với tiến bộ về cơ cấu kinh tế, xã hội.
1.1.1.4. Phát triển bền vững
Từ những thập niên 70, 80 của thế kỉ XX, khi tăng trưởng kinh tế của nhiều
nước đã đạt được tốc độ cao, người ta bắt đầu tính đến ảnh hưởng tiêu cực của sự
tăng trưởng nhanh đó đối với tương lai loài người. Từ đó, vấn đề phát triển bền
vững được đặt ra. Mục tiêu của các quốc gia không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế
mà cơ bản hơn là phát triển kinh tế bền vững. Phát triển kinh tế bền vững được
hiểu là “Sự phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm thương
tổn đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai” (UNEP – 1987).
9

Nội dung của phát triển bền vững thông qua sự phát triển hợp lý ở cả 3 mặt:
kinh tế – xã hội – môi trường. Phát triển kinh tế phải đảm bảo sự tăng trưởng, hiệu
quả và ổn định; đồng thời phải chú ý đến vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân; xây dựng thể chế dân chủ,
công bằng xã hội và bảo tồn các di sản văn hóa của dân tộc. Phát triển bền vững
còn phải bảo đảm yêu cầu sử dụng có hiệu quả và bảo vệ nguồn tài nguyên, ngăn
chặn ô nhiễm; tái tạo lại các nguồn năng lượng, nguyên, nhiên vật liệu, chất thải;
chống biến đổi khí hậu trên toàn cầu
1.1.1.5. Cơ cấu kinh tế
“Cơ cấu nền kinh tế là tổng thể những mối quan hệ về chất lượng và số
lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế trong một thời gian và trong những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định” [13].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự
thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện
hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành
cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu thành một
cơ cấu kinh tế phù hợp hơn. Trong quá trình phát triển kinh tế, tỷ trọng của khu
vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ trong GDP và trong tổng người lao động
đang làm việc tăng, trong khi tỷ trọng của N – L – TS giảm; đồng thời dân cư đô
thị tăng, dân cư nông thôn giảm. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh mức độ thay
đổi của phương thức SX theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng
suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn, có tốc độ phát triển cao hơn và thay thế dần
những khu vực SX, kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng thấp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giúp cho nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh,
vững chắc và có khả năng hội nhập với khu vực, thế giới. Hội nhập kinh tế mở ra cơ
hội phát triển mạnh mẽ lực lượng SX, tham gia ngày càng sâu vào phân công lao
động quốc tế, đặc biệt là góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, làm
cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát triển KT – XH của mỗi quốc gia.
10

1.1.2. Các nguồn lực ảnh hưởng tới phát triển kinh tế
Trong quá trình phát triển kinh tế việc sử dụng và phát huy các nguồn lực
đóng vai trò quan trọng. Adam Smith cho rằng việc khai thác các nguồn lực từ góc
độ lợi thế so sánh là “nguồn gốc của cải của dân tộc”. Theo ông nguồn lực chủ yếu
của xã hội trong thời kỳ của ông là vốn, sức lao động và đất đai. Đây chính là
nguồn gốc đo sự thịnh vượng của các quốc gia, là chìa khóa dẫn đến tới tự tăng
trưởng kinh tế. Tất cả các trường phái và các học thuyết kinh tế cũng như chính trị
sau này đều nhất trí với quan điểm của Adam Smith nhưng tiếp tục bổ sung thêm
các nguồn lực mới.
Còn theo Lê Du Phong “Nguồn lực là tổng hợp các yếu tố vật thể và phi vật
thể tạo nên nền kinh tế của một đất nước và thúc đẩy nó phát triển”.
Như vậy nguồn lực có những đặc điểm sau:
- Nguồn lực là một dạng vật chất và phi vật chất được sử dụng để phát triển
kinh tế.
- Nguồn lực phụ thuộc vào nhận thức và quan niệm của con người và nó
thay đổi vị trí, vai trò theo thời gian cũng như trình độ của người sử dụng.
- Nguồn lực phụ thuộc vào trình độ phát triển của loài người, đặc biệt là
trình độ khoa học – công nghệ.
1.1.2.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý là một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển KT – XH của một
quốc gia, bao gồm vị trí tự nhiên, vị trí kinh tế, giao thông, chính trị. Những nhân
tố này ngày càng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của một quốc gia.
Sự thuận lợi hay khó khăn của nguồn lực này sẽ ảnh hưởng đến chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch cũng như tốc độ phát triển của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy quá
trình xây dựng, phát triển nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế, hội nhập vào đời sống KT – XH của khu vực và thế giới. Trong xu thế hội
nhập của nền kinh tế thế giới, định hướng có lợi nhất trong phân công lao động
quốc tế.
Đối với nước ta nói chung và Thanh Hoá cũng như Thọ Xuân nói riêng, những
lợi thế về vị trí địa lý mới thực sự được khai thác trong thời kỳ CNH – HĐH nền kinh

11
tế. Tuy nhiên những lợi thế về vị trí của nước ta cần được khai thác tốt hơn nữa để
nước ta có thể hình thành và phát triển các ngành kinh tế, đồng thời thúc đẩy việc
giao lưu kinh tế với các nước trong và ngoài khu vực.
1.1.2.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là một trong các nguồn lực cơ bản
của quá trình SX, là đối tượng lao động của con người và là nguồn vật chất vừa phục
vụ trực tiếp cho cuộc sống vừa phục vụ cho phát triển kinh tế. Điều kiện tự nhiên và
tài nguyên thiên nhiên bao gồm địa hình, đất đai, khí hậu, nguồn nước, sinh vật,
khoáng sản Sức lao động càng cao thì phạm vi tài nguyên càng được mở rộng. Tài
nguyên thiên nhiên thực sự trở thành sức mạnh kinh tế khi được con người khai thác
và sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả. Nó còn là một nguồn lực quan trọng trong
việc tạo ra các mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn,
đồng thời tạo ra sức hấp dẫn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, đối với việc phát triển KT – XH, tài nguyên thiên nhiên là điều
kiện cần nhưng chưa đủ, đặc biệt trong xu thế nền thương mại toàn cầu hiện nay,
tài nguyên thiên nhiên chỉ là cơ sở ban đầu chứ không còn là điều kiện quan trọng
nhất trong việc hình thành và phát triển các ngành kinh tế. Các nước không có tài
nguyên nhưng vẫn hình thành các ngành kinh tế và trung tâm kinh tế ngành mạnh
về loại tài nguyên đó trên cơ sở nhập khẩu nguyên liệu.
Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quốc gia, là nhân tố không thể thiếu được
của quá trình SX. Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên có giới hạn, mà nhu cầu của
con người thì vô hạn. Do đó, để đảm bảo phát triển bền vững thì cần phải bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
1.1.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
a. Dân cư và nguồn lao động
Dân cư và nguồn lao động có vai trò quyết định đối với việc phát triển KT –
XH. Dân cư và nguồn lao động vừa là lực lượng SX trực tiếp tạo ra sản phẩm, tạo
ra sự tăng trưởng cho các ngành kinh tế; lại vừa là thị trường tiêu thụ các sản
phẩm, dịch vụ tham gia tạo cầu cho nền kinh tế.

12
Khi xét dân cư ở khía cạnh là lực lượng SX thì quy mô, kết cấu trình độ và
sự phân bố của dân cư là yếu tố cần quan tâm hàng đầu. Quy mô dân số đông sẽ
có nguồn lao động dồi dào, dân số trẻ có khả năng lao động tốt hơn. Trình độ
nguồn lao động có ý nghĩa lớn trong việc lựa chọn phát triển các ngành đòi hỏi
trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao. Sự phân bố dân cư tác động đến việc
phân bố các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành cần nhiều lao động, góp phần
hình thành cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ. Còn nếu xét ở khía cạnh thị trường tiêu
thụ hàng hóa thì quy mô, kết cấu trình độ và sự phân bố của dân cư sẽ ảnh hưởng
đến cơ cấu các ngành, quy mô SX của các ngành hàng khác nhau. Mặt khác, dân
cư lao động là một lợi thế thu hút đầu tư của nước ngoài. Vì vậy mỗi quốc gia trên
thế giới không ngừng nâng cao chất lượng dân cư và coi đây là một chiến lược lâu
dài nhằm tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong tương lai.
b. Khoa học và công nghệ
Trong nền kinh tế hiện nay khoa học và công nghệ trở thành lực lượng SX
trực tiếp. Các ứng dụng tiến bộ khoa học tạo điều kiện mở rộng khả năng phát
hiện, khai thác và nâng cao hiệu quả đưa vào sử dụng các nguồn lực. Khoa học và
công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, số lượng lớn và giá
thành thấp, do đó có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường. Kết quả là biến đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu thay thế nhập khẩu, hội nhập KT – XH với khu
vực và trên thế giới.
Nhờ vào máy móc, công nghệ, của cải vật chất làm ra ngày càng nhiều, qui
mô SX ngày càng lớn đòi hỏi trình độ lao động ngày càng có chất xám, phân công
lao động trở nên sâu sắc hơn, phân chia thành nhiều ngành nhỏ, xuất hiện nhiều
ngành, lĩnh vực mới. Từ đó, làm thay đổi cơ cấu, vị trí giữa các ngành, thúc đẩy
tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao, làm cho nền kinh tế dịch chuyển từ chiều
rộng sang chiều sâu.
Các nước trên thế giới hiện đang có xu hướng phát triển các công nghệ mới
nhằm mục đích tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tạo mẫu mã, chất
lượng tốt hơn, đồng thời giảm chi phí SX, tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên

nhiên, tránh ô nhiễm môi trường. Từ đó hàng hóa sẽ có tính cạnh tranh cao, tạo ra
sự ổn định trong phát triển kinh tế.
13
c. Vốn đầu tư và thị trường
* Vốn đầu tư: Là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của bất kì quá trình SX
kinh doanh nào. Vốn đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng, vừa tác động đến
chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp
lý là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất,
tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH, nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế từ đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Vốn
đầu tư còn có tác dụng giải quyết những vấn đề mất cân đối về phát triển giữa các
vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát
huy được những lợi thế để phát triển nhanh hơn nhằm thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các vùng, miền, tạo nên sự tiến bộ chung cho cả đất nước.
Vốn đầu tư được xét ở hai loại: vốn trong nước và vốn ngoài nước. Đối với
các nước đang phát triển và các nước kém phát triển, nguồn vốn trong nước có ý
nghĩa quyết định chính trong phát triển kinh tế. Sự phong phú và quy mô lớn của
nguồn vốn trong nước sẽ là điều kiện để đầu tư, xây dựng, hình thành các ngành
kinh tế, nhập kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước ngoài phục vụ SX, ngoài ra
còn có thể tham gia vào thị trường đầu tư quốc tế nhằm tạo ra lợi nhuận cho đất
nước từ bên ngoài lãnh thổ. Còn với nguồn vốn từ nước ngoài (như vốn FDI,
ODA ) được sử dụng để đầu tư cho phát triển, tạo điều kiện để khai thác hiệu quả
tiềm năng của đất nước, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước. Việt
Nam đang trong giai đoạn CNH – HĐH nên nhu cầu về vốn cho quá trình phát
triển KT – XH rất lớn. Nguồn vốn tác động rất lớn đến tăng trưởng, tạo nhiều việc
làm, tăng tích lũy vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải phân bố và
sử dụng chúng một cách có hiệu quả
* Thị trường: Là cầu nối giữa SX và tiêu dùng, là yếu tố đảm bảo khâu tiêu
dùng, xuất nhập, giá cả và tạo ra nhu cầu mới, giúp cho quá trình tái SX diễn ra
không ngừng. Trong nền thương mại toàn cầu hóa ngày nay, cùng với các yếu tố

khác, thị trường có vai trò quyết định đến quy mô, cơ cấu loại hình hàng hóa SX
của các quốc gia, khu vực trên thế giới. Thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết
SX cho các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Thị trường được xem xét ở hai
dạng: thị trường cung cấp nguồn nguyên, nhiên liệu, vật tư phục vụ SX và thị
14
trường tiêu thụ sản phẩm. Thực tế cho thấy, nước nào có quan hệ kinh tế rộng,
hàng hoá phong phú và được tiêu thụ ở nhiều quốc gia thì quy mô SX có điều kiện
mở rộng, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giá trị lợi nhuận tăng,
thông qua đó các giá trị văn hoá tinh thần của quốc gia này cũng có điều kiện phổ
biến ra thế giới. Quốc gia nào có quy mô thị trường lớn, nhu cầu hàng hoá nhiều là
một lợi thế trong việc mở rộng hợp tác, thu hút đầu tư, khoa học công nghệ của
các nước trên thế giới.
d. Kết cấu hạ tầng
“Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc đóng
vai trò nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế, xã hội được diễn ra một cách
bình thường” [5].
Kết cấu hạ tầng là nền tảng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình phát triển KT – XH của mỗi quốc gia cũng như mỗi vùng lãnh thổ, tạo động
lực cho sự phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững, nâng cao năng suất, hiệu
quả của nền kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội, ngược lại một hệ thống
kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối với sự phát triển.
Việt Nam và nhiều nước đang phát triển hiện nay, kết cấu hạ tầng thiếu và
yếu đã gây ứ đọng trong luân chuyển các nguồn lực, khó thu hút vốn đầu tư, ảnh
hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Do đó để phù hợp với quá trình phát triển
và hội nhập kinh tế hiện nay, nhu cầu đối với các dịch vụ hạ tầng trở nên cấp bách
hơn bao giờ hết. Kết cấu hạ tầng là điều kiện cần thiết để đảm bảo mục tiêu xóa
đói giảm nghèo, tăng trưởng ảnh hưởng rộng, hội nhập khu vực trên cơ sở bền
vững về cả phương diện kinh tế, xã hội và môi trường. Phát triển hạ tầng là một
trong những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một số hệ thống hạ tầng

tạo nên xương sống của nền kinh tế, như cung cấp nước sạch, vệ sinh, xử lý rác
thải rắn, điện, và đường xá giao thông… Chúng là những điều kiện cơ bản mang
lại lợi ích kinh tế và xã hội cho người dân.
e. Đường lối chính sách, ổn định chính trị
Đường lối chính sách là yếu tố mang tính quyết định đến sự thành công hay
không của chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của các nước trên thế giới. Trong
15
đó, đường lối chính sách thể hiện là một yếu tố độc lập tương đối, đồng thời là
một yếu tố tác động đến các yếu tố khác. Chính sách có tác dụng giải phóng và
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng SX. Nó tác động đến việc khai thác và phát
huy có hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Các chiến lược, chính sách hay quy
hoạch phát triển KT – XH là sự định hướng phát triển cho các ngành, lĩnh vực và
vùng lãnh thổ. Mỗi giai đoạn, trên cơ sở các điều kiện tác động, chính sách sẽ đề
ra những ưu tiên phát triển kinh tế cho một số ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ
theo hướng tạo ra sự bứt phá, tạo động lực phát triển cho các vùng và cả nước.
Chính sách là một công cụ có hiệu quả trong việc điều chỉnh sự phát triển nền kinh
tế, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả.
Trên thế giới ở mỗi quốc gia, mỗi thời điểm đều có đường lối chính sách
phát triển KT - XH riêng, không giống nhau do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế xã hội
khác nhau. Quốc gia nào có đường lối, chính sách đúng đắn sẽ tập hợp được mọi
nguồn lực (trong và ngoài nước) phục vụ cho mục tiêu phát triển; có chính trị ổn
định, đường lối đối ngoại rõ ràng và rộng mở sẽ tạo thuận lợi cho đất nước phát
triển kinh tế. Ở nước ta bước đầu có sự thành công về đường lối chính sách phát
triển kinh tế và hiện nay đang đẩy mạnh thực hiện quá trình CNH – HĐH để đưa
Việt Nam cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế
1.1.3.1. Các tiêu chí chung
- Tổng sản phẩm trong nước: (GDP - Gross Domestic Product) là tổng sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng mà một nền kinh tế tạo ra bên
trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia, không phân biệt do người trong nước hay

người nước ngoài làm ra trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài
chính).
GDP thường được sử dụng để phân tích cơ cấu kinh tế, mối quan hệ tỷ lệ
giữa các ngành trong SX, mối quan hệ giữa kết quả SX với phần huy động vào
ngân sách. Chỉ tiêu này còn dùng để tính tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế,
16
nghiên cứu sự thay đổi về khối lượng hàng hóa, dịch vụ SX. Ngoài ra còn dùng để
đánh giá trình độ phát triển và mức sống của con người.
GDP được tính theo ba phương pháp chủ yếu là:
- Phương pháp SX: GDP = tổng GTSX - tổng chi phí trung gian + thuế nhập
khẩu.
- Phương pháp thu nhập: GDP = tổng thu nhập của người lao động từ SX +
tổng thặng dư SX + tổng khấu hao tài sản cố định + tổng thuế gián thu và thuế SX
khác + thuế nhập khẩu - trợ cấp cho SX.
- Phương pháp sử dụng cuối cùng: GDP = tiêu dùng cuối cùng của hộ gia
đình + tiêu dùng cuối cùng của nhà nước + tích lũy tài sản + xuất khẩu - nhập khẩu.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP - Gross National Products) là giá trị tính
bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một
nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân
bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
- Tổng thu nhập quốc dân: (GNI - Gross National Income) là tổng thu nhập
từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một quốc gia tạo ra
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm tài chính). GNI = GDP
+ thu nhập nhân tố lợi tức từ nước ngoài – chi trả lợi tức nhân tố cho nước ngoài.
GNI lớn hay nhỏ hơn GDP tùy thuộc mối quan hệ kinh tế (đầu tư vốn, lao
động…) giữa một nước với nhiều nước khác. Những quốc gia có vốn đầu tư ra
nước ngoài cao thì GNI lớn hơn GDP. Ngược lại, những nước đang tiếp nhận đầu
tư nhiều hơn là đầu tư ra nước ngoài sẽ có GDP lớn hơn GNI.
- GNI và GDP bình quân đầu người: Để so sánh mức sống của dân cư ở các
nước khác nhau, người ta thường dùng các chỉ số GDP và GNI bình quân đầu

người. GNI/ đầu người và GDP/ đầu người được tính bằng GNI và GDP chia cho
tổng số dân ở một thời điểm nhất định. Chỉ số GNI/ người và GDP/ người phản
ánh trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia và được coi là một trong những
tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng cuộc sống.
- Tốc độ tăng GDP hằng năm (%): phản ánh năng lực cạnh tranh và phát
triển của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế. Duy trì tốc độ tăng trưởng
17
cao trong thời gian dài (5 – 15 năm) được coi là chỉ số phản ánh sự thành công của
chính sách kinh tế và sự bền vững của nền kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu nền kinh tế được xem xét ở 3 góc độ:
+ Cơ cấu kinh tế theo ngành: Ở góc độ ngành được chia thành các nhóm
ngành: Nhóm ngành N – L – NN (khu vực I), công nghiệp - xây dựng (khu vực II)
và nhóm ngành dịch vụ (khu vực III). Đối với nhóm ngành này phản ánh số lượng,
vị trí, tỷ trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế.
+ Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ: Góc độ lãnh thổ cho thấy cơ cấu kinh tế
theo vùng lãnh thổ, phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực KT
- XH của các vùng phục vụ cho mục đích phát triển nền kinh tế. Mỗi cấp lãnh thổ
đều có cơ cấu kinh tế lãnh thổ của nó. Nếu được tổ chức, các mối quan hệ giữa các
cấp phân vị lãnh thổ sẽ tạo nên mối quan hệ ngang rất chặt chẽ đảm bảo cho toàn
bộ các hoạt động trong mỗi lãnh thổ và giữa các lãnh thổ thống nhất, cân đối hài
hoà để phát triển một cách nhịp nhàng, có hiệu quả.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế (góc độ sở hữu): Là tương quan tỉ lệ giữa các
thành phần kinh tế tham gia vào các ngành, lĩnh vực hay các bộ phận hợp thành
nền kinh tế. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ chức SX kinh
doanh của mọi thành viên xã hội. Một nền kinh tế thường có nhiều hình thức sở
hữu khác nhau, ở đó có loại hình kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế
và từ đó thể hiện rõ quan điểm, xu hướng phát triển kinh tế. Trong điều kiện toàn
cầu hóa việc phân định các loại hình kinh tế là rất quan trọng, có tác dụng thúc
đẩy, mở rộng sự phát triển kinh tế chung.
Đối với nước ta, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, hai

thành phần kinh tế chủ đạo là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể trên cơ sở chế
độ sở hữu toàn dân và tập thể. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Đảng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân,
tập thể, sở hữu tư nhân. Do đó, trong cơ cấu thành phần kinh tế, nước ta đã hình
thành các thành phần kinh tế gồm: Kinh tế Nhà nước; kinh tế ngoài Nhà nước (kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể) và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.3.2. Các tiêu chí cho cấp huyện
18
- Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross output): Là tổng giá trị sản phẩm vật
chất và dịch vụ được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kì nhất
định (thường là một năm). GO được tính bằng giá trị tăng thêm (VA) cộng với chi
phí trung gian. Đây chính là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các
ngành trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia.
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất: Là giá trị đo lường, thể hiện ở mặt định
lượng tăng trưởng kinh tế của lãnh thổ ở quy mô nhỏ như cấp huyện, thị. Chỉ tiêu
tốc độ tăng trưởng GTSX được tính bằng giá so sánh theo một năm cố định, gọi là
năm gốc (ở Việt Nam thường là năm 1994).
- Cơ cấu giá trị sản xuất:
+ GTSX theo ngành kinh tế bao gồm giá trị của SX N – L – TS, công
nghiệp – xây dựng, dịch vụ GTSX theo các ngành kinh tế là một trong các chỉ
tiêu để đánh giá sự phát triển của một nền kinh tế.
+ GTSX theo lãnh thổ (tiểu vùng) biểu thị tương quan tỷ lệ giữa các tiểu
vùng trong huyện, thị được sắp xếp một cách tự phát hay tự giác có chủ định. Chỉ
tiêu này cho phép đánh giá, so sánh sự phát triển kinh tế giữa các tiểu vùng, từ đó
xác định được các sản phẩm đặc trưng, hướng chuyên môn hóa của từng khu vực.
Mặt khác, cơ cấu lãnh thổ theo từng ngành kinh tế: NN, công nghiệp còn cho phép
khai thác tối đa những lợi thế so sánh của các nguồn lực trong lãnh thổ.
- Giá trị sản xuất/người: Là chỉ số phản ánh sự phát triển kinh tế nói chung
và việc nâng cao mức sống của người dân nói riêng. Nếu quy mô, tốc độ tăng
trưởng của GTSX/ người ngày càng cao thì lãnh thổ đó càng thể hiện sự phát triển

nền kinh tế ngày càng ổn định và bền vững theo hướng công nghiệp hóa. Ngoài ra,
GTSX/người còn là chỉ tiêu để so sánh mức sống dân cư giữa các địa phương với
nhau.
GTSX/người được tính bằng GTSX chia cho tổng số dân của địa phương
trong cùng 1 thời gian (1 năm).
- Thu nhập bình quân đầu người: Là mức trả công lao động mà người lao
động nhận được trong một thời gian nhất định (tháng hoặc năm).
- Năng suất lao động: Để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, chủ yếu
phải nâng cao năng suất lao động.
19
Năng suất lao động thể hiện kết quả hoạt động sản xuất có ích của con
người trong một đơn vị thời gian nhất định. Năng suất lao động phản ánh hiệu quả
sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất và được biểu hiện bằng số lượng
sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian lao động hoặc bằng lượng thời gian
hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Quan niệm truyền thống về năng suất
chủ yếu là hướng vào đầu vào, tập trung hướng vào các yếu tố đầu vào như lao
động, vốn trong đó lao động sống là yếu tố trung tâm. Vì vậy, ở nhiều nước, nhiều
khi người ta đồng nhất năng suất với năng suất lao động. Năng suất được hiểu
rộng hơn, như là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả KT – XH. Tăng năng
suất lao động là sự thay đổi trong cách thức lao động, một sự thay đổi làm rút ngắn
thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá, sao cho số lượng
lao động ít hơn mà lại có được sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Tổng quan về phát triển kinh tế của vùng Bắc Trung Bộ
1.2.1.1. Khái quát
Bắc Trung Bộ là vùng lãnh thổ chạy dài trên nhiều vĩ độ gồm 6 tỉnh (Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Vùng có diện
tích 51.461,1 km
2
, chiếm 15,5% diện tích cả nước và dân số 10145,6 nghìn người,

chiếm 11,6% dân số cả nước (năm 2011). Địa hình của vùng tương đối phức tạp
với trên 60% diện tích là đồi núi và có sự đa dạng của các kiểu địa hình. Từ Tây
sang Đông dọc theo lãnh thổ các tỉnh có các dạng địa hình núi, trung du, đồng
bằng ven biển và hải đảo. Đất đai chủ yếu là đất cát pha nghèo dinh dưỡng. Hệ
thống sông Mã, sông Cả có giá trị về thuỷ lợi, tiềm năng thuỷ điện và giao thông
(hạ lưu). Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với chế độ nhiệt ẩm dồi dào, có sự phân
hóa theo chiều Bắc - Nam, Tây - Đông và theo độ cao. Dãy Trường Sơn Bắc vào
mùa hè còn có hiện tượng gió phơn Tây Nam thổi mạnh, thời tiết nóng, khô. Rừng
có diện tích tương đối lớn, tập trung chủ yếu ở phía Tây biên giới Việt - Lào.
Khoáng sản gồm: sắt Thạch Khê, crôm Cổ Định, thiếc Quỳ Hợp, đá vôi Thanh
Hóa… có giá trị lớn về mặt công nghiệp.
1.2.1.2. Quy mô và tốc độ tăng trưởng
20
Nhiều năm qua, vùng ven biển Trung Bộ nói chung và Bắc Trung Bộ nói
riêng đang được sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước về mọi mặt. Do vậy, nền
kinh tế Bắc Trung Bộ đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, nền kinh tế của vùng
tăng trưởng khá nhanh về lượng và chất. Quy mô GDP toàn vùng có sự tăng
trưởng khá nhanh, từ 17.844,9 tỉ đồng (giá thực tế) năm 1995 lên 28.658,0 tỉ đồng
năm 2000 và 125.737 tỉ đồng năm 2009; đóng góp hàng năm 6,9% GDP cả nước.
Biểu đồ 1.1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP Bắc Trung Bộ
giai đoạn 1995 - 2009
Tốc độ tăng trưởng của vùng trong những năm gần đây đạt ở mức khá cao,
trung bình 10%/năm. Trong đó, mức tăng trung bình của N – L – NN là 5,1%, của
công nghiệp – xây dựng là 14%, và của dịch vụ là 10%. Tuy nhiên, tốc độ này có sự
khác nhau giữa các giai đoạn. Giai đoạn 1995 – 2000, tốc độ tăng trưởng đạt ở mức
một con số. Giai đoạn 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng luôn ở mức hai con số.
Nhìn chung, quy mô nền kinh tế của vùng vẫn còn nhỏ, chưa có tích luỹ, so với cả
nước cũng chỉ ở mức khiêm tốn.
Nền kinh tế tăng trưởng khá, tốc độ tăng dân số đã tương đối ổn định nên
GDP bình quân đầu người theo từng tỉnh cũng như toàn vùng không ngừng được

tăng lên, từ 1,9 triệu đồng năm 1995 lên 12,5 triệu đồng năm 2009 và 17,8 triệu
21
đồng năm 2011. Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người của vùng chỉ bằng 65,9%
mức trung bình cả nước. Cho đến nay Bắc Trung Bộ vẫn là vùng kinh tế còn
nhiều khó khăn.
1.2.1.3. Cơ cấu kinh tế
* Cơ cấu kinh tế theo ngành
Cơ cấu kinh tế theo ngành vùng Bắc Trung Bộ đang có sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tích cực theo hướng CNH - HĐH. Tỉ trọng khu vực N – L – NN giảm
tương đối nhanh, từ 40,5% năm 2000 xuống còn 19,7% năm 2011. Tỉ trọng
ngành công nghiệp – xây dựng tăng lên mạnh, năm 2000, khu vực này mới
chiếm 22,5% thì đến năm 2011 đã tăng lên đến 36%, và khu vực dịch vụ tương
ứng là 37,0% và 44,3%
Biểu đồ 1.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bắc Trung Bộ
giai đoạn 1995 - 2009
Khu vực kinh tế có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của vùng Bắc
Trung Bộ là N – L – NN. GTSX của ngành năm 2000 đạt 10.140,3 tỷ đồng chiếm
9,0% GTSX N – L – NN của cả nước, đến năm năm 2010 tăng lên 17.359,3,
chiếm 8,3%. Trong nội bộ cơ cấu ngành NN cũng có sự chuyển dịch khá rõ nét:
Tỷ trọng ngành trồng trọt có xu hướng giảm từ 72,3% năm 2000 xuống còn 60,6%
năm 2010. Tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng từ 25,2% lên 36,4% năm 2010, khu vực
22
dịch vụ NN tăng tương ứng là 2,5% và 3,0%. Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp
đã phát huy được tính đa dạng; cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã chuyển dịch theo
hướng khai thác lợi thế kinh tế biển; nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản đã phát
huy hiệu quả.
Là khu vực có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp, nên trong những
năm qua, ngành công nghiệp của vùng Bắc Trung Bộ cũng có những bước phát
triển mạnh mẽ. GTSX công nghiệp toàn vùng đạt 50.526,1 tỷ đồng (giá thực tế);
tăng gấp 6,0 lần so với năm 2000 và chiếm 2,2% cả nước; trong đó, riêng Thanh

Hóa chiếm 0,94%, đứng đầu toàn vùng. Tính đến 9/2011, toàn vùng Bắc Trung Bộ
đã có 18 khu công nghiệp và 243 dự án FDI với số vốn lên tới 19,9 tỷ USD, bằng
10% tổng số vốn của hơn 13.000 dự án FDI trong cả nước. Nhiều tập đoàn kinh tế
lớn đầu tư vào Bắc Trung Bộ như: Hồng Hà (Trung Quốc), Posco (Hàn Quốc),
Formosa (Đài Loan).
Ngành dịch vụ đang là ngành được ưu tiên phát triển ở Bắc Trung Bộ. Năm
2010, ngành tăng bình quân là 10% và đóng góp 36% GDP. Các ngành dịch vụ
quan trọng nhất là giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương mại và du lịch.
Trong đó, đáng chú ý nhất là ngành du lịch với tốc độ phát triển rất nhanh. Lượng
khách du lịch của vùng năm 2000 mới chỉ có 1,8 triệu lượt người, đến năm 2011
đã tăng lên 10,4 triệu lượt người (trong đó khách quốc tế đạt 8,6%); chiếm 25%
tổng lượng khách du lịch của cả nước. Trong giai đoạn 2001 - 2010, lượng khách
quốc tế đến vùng tăng 4 lần, khách nội địa tăng 5 lần; số lượng cơ sở lưu trú và
buồng lưu trú tăng 3 lần. Du lịch đã tạo việc làm cho 3 vạn lao động và thu nhập
du lịch tăng lên 9 lần. Năm 2010 doanh thu từ ngành du lịch trong toàn vùng đạt
3864 tỷ đồng (chiếm 3,8% doanh thu du lịch của cả nước). Ngành thương mại mặc
dù còn gặp nhiều khó khăn những đã có những chuyển biến rõ nét về cán cân, thị
trường, các mặt hàng xuất nhập khẩu. Giao thông vận tải và thông tin liên lạc được
quan tâm đứng mức nhằm đáp ứng nhu cầu của SX và đời sống.
Nhìn chung, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành của Bắc Trung
Bộ so với tình hình chung cả nước còn chậm và khá kiêm tốn. Tuy nhiên, sự
23
chuyển dịch này là đúng hướng, phù hợp với xu hướng chung của cả nước, phù
hợp với lợi thế trong từng ngành, với quá trình cơ cấu lại SX và sản phẩm.
* Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ
Bắc Trung Bộ đã và đang tích cực khai thác thế mạnh của từng tiểu vùng,
từng tỉnh. Xét theo tiểu vùng thì các tỉnh bắc Hoành Sơn chiếm hơn 70% GDP của
vùng, các tỉnh nam Hoành Sơn chỉ chiếm chưa đến 30% trong cơ cấu kinh tế. Các
tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi, có tiềm lực kinh tế thì chiếm tỉ trọng cao như:
Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế. Ngược lại, các tỉnh do không có, hoặc

chưa phát huy được các tiềm năng, lợi thế của mình như Quảng Bình, Quảng Trị
thì chiếm tỉ trọng thấp trong GDP toàn vùng. Vùng hiện có 6 khu kinh tế biển và 3
khu kinh tế cửa khẩu. Đây sẽ là động lực thúc đẩy kinh tế của vùng phát triển
mạnh mẽ trong tương lai.
* Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế
Trong những năm qua, các thành phần kinh tế trong vùng đều đạt tốc độ
tăng trưởng cao. Cơ cấu theo thành phần kinh tế của vùng Bắc Trung Bộ hiện nay
đang chuyển dịch theo xu hướng chung của cả nước. Tuy nhiên, sự chuyển dịch
các thành phần kinh tế trong vùng là không rõ nét. Khu vực kinh tế trong nước vẫn
chiếm tỉ trọng chủ yếu, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tỉ trọng còn khiêm tốn.
Khu vực kinh tế nhà nước, tuy có giảm về tỉ trọng nhưng vẫn giữ vai trò chủ đạo
trong toàn bộ nền kinh tế của vùng. Các ngành và các lĩnh vực kinh tế then chốt
trong vùng vẫn do nhà nước quản lí. Trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước đáng
chú ý là khu vực kinh tế tập thể, năm 2011 đóng góp 3000 tỷ đồng vào GDP toàn
vùng, tạo việc làm cho 10 vạn lao động với thu nhập bình quân 25-27 triệu
đồng/người/năm.
1.2.2. Phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hoá
1.2.2.1. Khái quát
Thanh Hoá là một tỉnh nằm phía cực Bắc của Bắc Trung Bộ. Với diện tích
11.131,94 km
2
, chiếm 3,37% diện tích toàn quốc, dân số năm 2011 là 3.412.566
người, chiếm 3,9% dân số cả nước, đứng thứ 3 cả nước (sau Hồ Chí Minh, Hà
24
Nôi), mật độ dân số 306,6 người/km
2
.

Về mặt tổ chức hành chính, tỉnh Thanh hóa
gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 24 huyện.

Địa hình Thanh Hoá có cấu trúc chung của địa hình miền Tây Bắc và Trường
Sơn Bắc nên nghiêng, dốc và kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, tạo nên sự
phân dị địa hình theo quy luật: núi, trung du, đồng bằng và biển. Thanh Hóa có 14
nhóm đất chính với 28 loại đất khác nhau; có năm hệ thống sông chính là sông
Hoạt, sông Mã, sông Yên, sông Lạch Bạng và sông Chàng. Khí hậu Thanh Hóa là
khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm với mùa đông lạnh ít mưa, có sương giá, sương
muối; mùa hè nóng, mưa nhiều có gió Tây khô nóng; mùa đông có gió mùa Đông
Bắc theo xu hướng giảm dần từ biển vào đất liền, từ Bắc xuống Nam. Tài nguyên
khoáng sản tương đối giàu có, các hệ động thực vật phong phú, đa dạng.
1.2.2.2. Quy mô và tốc độ tăng trưởng
Trong những năm gần đây, kinh tế của tỉnh Thanh Hoá luôn duy trì được
tốc độ tăng trưởng khá, năm sau cao hơn năm trước, năng lực SX và qui mô nền
kinh tế được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Biểu đồ 1.3: Quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP của Thanh Hoá
giai đoạn 2002 – 2011
Quy mô GDP có sự tăng trưởng khá nhanh, từ 11.944,3 tỷ đồng (giá thực tế)
năm 2002 lên 66.851,5 tỷ đồng năm 2011. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn
25

×