BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Mã số: ĐTCT.2022.13
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Phạm Thị Hương
Thành viên: Ths. Vi Hoài Anh
Hà Nội, tháng 6 năm 2022
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC
2
1. Tính cấp thiết của đề tài
6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
7
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
15
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu
15
16
6. Bố cục của đề tài
18
CHƯƠNG 1
19
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA
19
1.1. Một số khái niệm về tiêu dùng văn hóa
19
1.1.1. Tiêu dùng văn hóa .............................................................................. 19
1.1.2. Nhu cầu tiêu dùng văn hóa ................................................................ 23
1.1.3. Nội dung tiêu dùng văn hóa ............................................................... 24
1.1.4. Phương thức tiêu dùng văn hóa ........................................................ 25
1.1.5. Phương tiện tiêu dùng văn hóa ......................................................... 26
1.2. Đặc điểm tiêu dùng văn hóa
27
1.3. Vai trị của tiêu dùng văn hóa
29
1.3.1. Đáp ứng nhu cầu giải trí .................................................................... 29
1.3.2. Thúc đẩy năng lực thưởng thức nghệ thuật và năng lực sáng tạo.. 31
1.3.3. Định hướng lối sống và kiến tạo bản sắc .......................................... 32
1.3.4. Thúc đẩy q trình sản xuất văn hóa ................................................ 33
1.4. Các yếu tố tác động đến tiêu dùng văn hóa của sinh viên
34
1.4.1. Bối cảnh tồn cầu hóa ....................................................................... 34
1.4.2. Sự phát triển của internet và truyền thông ....................................... 36
1.4.3. Thị trường sản phẩm văn hóa ........................................................... 38
Tiểu kết chương 1
41
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN
43
43
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
43
2.1. Khái quát về sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
43
2.1.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi ............................................................. 43
2
2.1.2. Định hướng nghề nghiệp ................................................................... 45
2.2. Nội dung tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội
47
2.2.1. Một số nhận xét chung ....................................................................... 47
2.2.2. Tiêu dùng các sản phẩm điện ảnh ..................................................... 52
2.2.3. Tiêu dùng các sản phẩm âm nhạc ..................................................... 55
2.2.4. Tiêu dùng các sản phẩm sách, báo, tạp chí ...................................... 58
2.2.5. Tiêu dùng các sản phẩm trò chơi điện tử.......................................... 62
2.3. Các phương thức tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội
66
2.4. Tiêu dùng văn hóa, thị hiếu và lối sống
68
2.4.1. Tiêu dùng văn hóa: phương thức giải trí phổ biến của sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ................................................................... 68
2.4.2. Xu hướng tiêu dùng số và sự hình thành thế hệ tiêu dùng mới ...... 70
Tiểu kết chương 2
73
CHƯƠNG 3
75
PHÁT TRIỂN TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN
75
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHO VIỆC
DẠY HỌC
75
3.1. Phát triển tiêu dùng văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội
75
3.1.1. Giáo dục nghệ thuật cho sinh viên .................................................... 75
3.1.2. Hồn thiện hệ thống cơ sở thiết chế văn hóa trong trường học ...... 79
3.1.3. Bồi dưỡng và nâng cao năng lực số cho sinh viên ........................... 83
3.2. Tiêu dùng văn hóa và một số hàm ý cho việc dạy học
85
3.2.1. Quan tâm đến đời sống tinh thần của người học ............................. 85
3.2.2. Sử dụng các sản phẩm văn hóa trong dạy học ................................. 86
Tiểu kết chương 3
89
KẾT LUẬN
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93
DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
98
PHỤ LỤC
99
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHNV
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
GV
Giảng viên
SV
Sinh viên
CLB
Câu lạc bộ
CTĐT
Chương trình đào tạo
4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1
Mức sinh hoạt phí hàng tháng của SV
Biểu đồ 2
Mức chi cho các sản phẩm văn hóa trong 1 tháng
Biểu đồ 3
Tác động của phim ảnh tới SV
Biểu đồ 4
Lý do các sản phẩm âm nhạc cuốn hút SV
Biểu đồ 5
Tác động của sản phẩm âm nhạc tới SV
Biểu đồ 6
Các loại sách SV thường đọc
Biểu đồ 7
Sách báo tác động đến SV
Biểu đồ 8a, 8b
Chơi game tác động tới SV
Biểu đồ 9
Lý do trò chơi điện tử hấp dẫn SV
Biểu đồ 10
Phương thức tiêu dùng văn hóa của SV
Biểu đồ 11
Thời gian SV thường sử dụng các sản phẩm văn hóa
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giới trẻ nói chung và sinh viên (SV) nói riêng là một đối tượng thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu bởi đây là thế hệ chủ nhân tương lai, là nguồn lao động
chủ chốt của đất nước. Thuộc nhóm xã hội khá đặc biệt, trong độ tuổi thanh xuân,
nhiều năng lượng, khát khao sáng tạo và cống hiến, giới trẻ ln là những người tìm
kiếm, khai phá và kiến tạo nên nhiều xu hướng, trào lưu trong đời sống. Đây cũng là
giai đoạn được đặc trưng bởi nhiều đặc điểm tâm sinh lý, định hướng nghề nghiệp, sự
chuẩn bị, tích lũy kiến thức, kĩ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm để phục vụ cho
công việc, trở thành những công dân độc lập.
Bên cạnh hoạt động học tập và nghiên cứu mang tính hướng nghiệp, đời sống
tinh thần của SV là một mảnh ghép quan trọng góp phần kiến tạo và định hình nên bản
sắc cá nhân. Trong độ tuổi từ 18 - 25, đến từ nhiều tỉnh thành trong cả nước, ngoài
việc tham gia hoạt động chủ đạo là học tập, nghiên cứu khoa học, đời sống của SV
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (ĐHNV) còn xoay quanh nhiều nhu cầu, sở thích khác
nhau. Cùng với mối quan tâm về ngành học, phương pháp học, rèn luyện kĩ năng mềm,
cơng việc bán thời gian để có thêm thu nhập phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày, các mối
quan hệ tình bạn, tình u,... SV cịn thường xuyên tiêu dùng nhiều sản phẩm văn hóa
để thư giãn, tăng tính kết nối cùng với bạn bè, để cập nhật xu hướng giải trí mới trong
nước và trên thế giới. SV tìm kiếm các sản phẩm văn hóa phù hợp với mình như phim
ảnh, sách báo, âm nhạc, trị chơi điện tử..., chủ động chi trả để sở hữu và thưởng thức
cho phù hợp với ngân sách được cung cấp bởi cha mẹ hoặc từ một vài nguồn thu khác
đến từ các công việc làm thêm bán thời gian. Thuộc về nhóm chủ thể tiêu dùng khá
độc lập, hiện đại, tiêu dùng văn hóa ảnh hưởng tới lối sống, sự định hình nhân cách
của SV. Hơn thế, hoạt động tiêu dùng của nhóm xã hội chiếm số lượng đơng đảo này
cũng đang tác động mạnh mẽ tới quá trình sản xuất sản phẩm văn hóa của các ngành
cơng nghiệp văn hóa - vốn đang vươn lên trở thành ngành trụ cột, mũi nhọn, đóng vai
trị quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia.
Các cơ sở giáo dục đại học, ở những mức độ khác nhau, đều quan tâm đến đời
sống tinh thần, phát triển tiêu dùng văn hóa cho người học như một phần quan trọng,
hướng đến mục tiêu đào tạo con người toàn diện “đức - trí - thể - mĩ”. Tùy thuộc vào
đặc thù của ngành học, người học cũng như định hướng đào tạo, mỗi trường sẽ có
6
những kế hoạch, biện pháp khác nhau để thúc đẩy hoạt động tiêu dùng văn hóa, tạo
điều kiện cũng như không gian thuận lợi giúp người học phát huy được năng lực, sở
thích của cá nhân. Để có cơ sở cho những giải pháp đó, nghiên cứu về tiêu dùng văn
hóa ở những chiều kích như nhu cầu tiêu dùng, nội dung tiêu dùng, phương thức tiêu
dùng, phương tiện tiêu dùng... là thực sự cần thiết.
Một số phản ánh trên các phương tiện truyền thông gần đây cho thấy nhiều hành
vi tiêu dùng văn hóa của người trẻ bị đánh giá là lệch lạc, phản cảm, trái với thuần
phong mỹ tục truyền thống. Liệu những nhận định đó có hồn toàn phù hợp khi viết
về người trẻ hay chỉ là cách nhìn của người ngồi cuộc với quan điểm, hệ giá trị và gu
thẩm mĩ khác và không phản ánh đúng suy nghĩ, lối sống của một thế hệ lớn lên trong
một bối cảnh xã hội rất khác với các thế hệ trước đây. Thực tiễn đời sống khẳng định
sự cần thiết phải có những khám phá sâu hơn về tiêu dùng văn hóa, vai trị kiến tạo lối
sống, bản sắc cá nhân cũng như những yếu tố tác động đến tiêu dùng văn hóa của SV.
Thực hiện nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn gần hơn tới nhu cầu, suy nghĩ của
sinh viên ĐHNV về tiêu dùng văn hóa, qua đó có thêm một “kênh” để tìm hiểu, khám
phá, hiểu sâu hơn về đời sống tinh thần cũng như hình dung một cách tổng thể về đời
sống của SV.
Dạy học là quá trình tương tác, hỗ trợ, thúc đẩy giữa người dạy với người học
dựa trên những hiểu biết sâu sắc về người học. Ngoài đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi,
các con đường kiến tạo tri thức, định hướng nghề nghiệp,... thì đời sống tinh thần của
người học là một nội dung quan trọng mà người dạy cần hiểu rõ. Nghiên cứu về tiêu
dùng văn hóa của SV ĐHNV cũng chính là nỗ lực để hiểu về thế giới tinh thần, xu
hướng, phong cách, bản sắc của SV trong bối cảnh hiện đại, từ đó có những định hướng
và lựa chọn các chiến lược dạy học phù hợp cũng như thiết lập mối quan hệ gần gũi,
tiến gần hơn tới sự “thấu cảm“ giữa người dạy và người học.
Với những lý do trên đây, tôi chọn đề tài Tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội làm chủ đề nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tiêu dùng là chủ đề được nghiên cứu ở nhiều ngành khoa học khác nhau. Ngành
kinh tế học quan tâm đến những yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng như văn hóa,
xã hội, cá nhân, tâm lý… để có những hiểu biết sâu sắc về người tiêu dùng nhằm thực
hiện chiến lược marketting hiệu quả, tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận. Ngành xã hội
7
học, vượt ra phạm vi sự hợp lý của quy luật cung - cầu trong ngành kinh tế, coi tiêu
dùng là trung tâm của đời sống hàng ngày của mỗi người qua đó phân loại xã hội, làm
sáng tỏ tư cách thành viên nhóm, địa vị xã hội. Ngành nghiên cứu văn hóa khám phá
các thực hành tiêu dùng, văn hóa tiêu dùng như một phương cách để con người thời
hiện đại kiến tạo ý nghĩa, định vị bản sắc. Nghiên cứu về tiêu dùng nói chung, vì vậy
có sự nở rộ, cả trong nước và nước ngoài. Tiêu dùng văn hóa đặt trong bối cảnh tồn
cầu hóa, với sự nổi lên của xã hội tiêu dùng do vậy cũng là một dạng thức tiêu dùng
gắn với đối tượng là các sản phẩm văn hóa nghệ thuật.
Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa như một phương thức thể hiện bản sắc
Tiêu dùng là chủ đề được nghiên cứu khá rộng rãi trong hầu hết các ngành khoa
học xã hội và nhân văn trên thế giới. Các nghiên cứu đều thể hiện rõ sự đồng thuận về
tầm quan trọng của tiêu dùng trong xã hội hiện đại. Nhiều ý kiến cho rằng đó là động
lực chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội, những ý kiến khác lại xem đó là mối
bận tâm cốt lõi của người dân trên tồn thế giới. Các thực hành tiêu dùng nói chung
và tiêu dùng văn hóa nói riêng khơng đơn thuần chỉ thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mà
còn là hành vi mang tính biểu tượng, thể hiện và kiến tạo “gu thẩm mĩ”, phong cách
và bản sắc.
“Taste classifes, and it classifies the classifier” (Thị hiếu phân biệt, và nó phân
biệt người phân biệt), “gu khác biệt” hay “thị hiếu khác biệt” (taste of distinction) là
luận điểm quan trọng của Pierre Bourdieu (1930-2002) bàn về sự phân biệt thị hiếu
dựa trên những khác biệt về nền tảng văn hóa. Pierre Bourdieu được biết đến như một
trí thức cơng có nhiều đóng góp và giữ vị trí đặc biệt trong ngành xã hội học Pháp với
những nghiên cứu về vốn văn hóa, vốn xã hội, sự thống trị của nam giới,… Trong
cuốn sách Distinction: a social critique of the judgment of taste (1984) (Sự khác biệt:
một phê phán xã hội về thị hiếu) khi bàn về vấn đề tiêu dùng, câu hỏi mà Bourdieu đặt
ra là kinh tế và xã hội, yếu tố nào quyết định đến thị hiếu của con người, một câu hỏi
mà các nhà kinh tế không mấy quan tâm hoặc thường bỏ qua khi mặc nhiên thừa nhận
câu trả lời tất nhiên là kinh tế. Tại sao người ta lại lựa chọn thứ này mà không phải thứ
khác? Ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu căn bản của con người, còn yếu tố nào chi
phối đến các quyết định tiêu dùng? Trong lời mở đầu của cuốn sách, ơng viết:
“Thị hiếu thẩm mĩ có tính phân biệt, nó phân biệt người phân biệt. Các
đối tượng xã hội được phân loại theo sự phân loại của họ, tự phân biệt mình
8
bằng sự phân biệt họ tạo ra, giữa đẹp và xấu xí, giữa sang trọng và thơ tục, qua
đó vị thế xã hội của họ được tạo dựng hoặc bị hủy hoại. Những phân tích thống
kê cũng thực sự cho thấy điều đó được tìm thấy trong thực tiễn văn hóa cũng
như xuất hiện trong thói quen ăn uống” [48].
Bourdieu cho rằng “thị hiếu không phải là một sự tùy tiện, nó dựa trên quyền lực và
vị thế xã hội” [48].
Những diễn giải sau đó tác giả tập trung phân tích nét khác biệt của thị hiếu
thẩm mĩ hay “gu” thẩm mĩ thể hiện trong sự lựa chọn. Nó cho chúng ta nhận thấy,
khẩu vị trong ăn uống hay thị hiếu thẩm mĩ trong việc lựa chọn mỹ phẩm, quần áo,
cách thức trang trí nhà cửa… đều là cơ hội để trải nghiệm và khẳng định vị thế của
con người trong khơng gian xã hội, để duy trì một địa vị, một khoảng cách với những
đối tượng khác. Thị hiếu hay cách thức tiêu dùng hàng ngày vì vậy chính là một chỉ
dẫn để nhận diện và giải mã vị thế xã hội của con người. Sự phân biệt khẩu vị, thị hiếu
thẩm mĩ không đơn giản phản ánh một lối sống, cách thức tiêu thụ mà còn là yếu tố
hình thành nên vị thế xã hội, ẩn chứa các mối quan hệ về quyền lực. Trong nhiều
trường hợp, người ta muốn và lựa chọn những thứ để tỏ ra khác biệt, để tự phân biệt
với số đơng cịn lại, để khơng giống ai khác. Nó giống như một tín hiệu để định vị
mình thuộc nhóm người này chứ nhất định khơng phải nhóm người kia.
Lý thuyết về thị hiếu khác biệt hay “gu khác biệt” (taste of distinction) của
Bourdieu đã được nhiều tác giả vận dụng vào thực tiễn tiêu dùng văn hóa của nhiều
quốc gia trên thế giới, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Các nghiên cứu sau này cũng tìm
hiểu, xác định địa vị xã hội, tầng lớp xã hội, trình độ học vấn và thu nhập có liên quan
như thế nào đến tiêu dùng văn hóa như Tally Katz Gerro (1999) trong Cultural
Consumption and Social Stratification: Leisure Activities, Musical Tastes, and Social
Location (Tiêu dùng văn hóa và phân tầng xã hội: hoạt động giải trí, thị hiếu âm nhạc
và vị thế xã hội) [54]; Arthur S.Alderson – Azamat Junisbai – Isaac Heacock (2007)
với Social status and curtural consumption in the United State (Vị thế xã hội và tiêu
dùng văn hóa tại Mỹ) [46]; Erzsebet Bukodi (2007), Social stratification and cultural
consumption in Hungary: book readership (Phân tầng xã hội và tiêu dùng văn hóa ở
Hungary: độc giả) [49]…
Tác giả John Storey (1999), từ góc nhìn của ngành nghiên cứu văn hóa đã xuất
bản cuốn Cultural Consumption in Everyday Life (Cultural Studies in Practice) (Tiêu
9
dùng văn hóa trong đời sống hàng ngày) [51] - một cơng trình quan trọng về tiêu dùng
văn hóa. Nghiên cứu đã phác thảo các quan điểm lý thuyết, nhìn lại các cuộc tranh
luận về chủ nghĩa hậu hiện đại, về tiêu dùng và bản sắc, coi tiêu dùng văn hóa là một
phần trong cuộc sống hàng ngày, nó có thể nói lên chúng ta là ai hoặc chúng ta muốn
trở thành ai.
Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa như một giai đoạn của quy trình sáng tạo và phân
phối các ngành cơng nghiệp văn hóa
Tiêu dùng văn hóa là một chủ đề được quan tâm nhiều trong nghiên cứu khoa
học xã hội nói chung và nghiên cứu văn hóa nói riêng nhất là trong bối cảnh cơng
nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo đang trở thành một trong những ngành kinh tế
trụ cột của mỗi quốc gia. Dưới góc nhìn của ngành kinh tế học văn hóa và quản lý văn
hóa, nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa đồng nghĩa với việc nghiên cứu một công đoạn
quan trọng trong quy trình vận hành của các ngành cơng nghiệp văn hóa, nhằm phát
triển khán giả, thúc đẩy việc sản xuất và tái sản xuất các sản phẩm văn hóa. Sự nổi lên
của cơng nghiệp văn hóa nhấn mạnh vai trị của thị trường văn hóa, nơi các sản phẩm
và dịch vụ văn hóa được lưu thơng theo ngun lý cung cầu. Trong thị trường văn hóa,
tiêu dùng văn hóa, hay cụ thể hơn là người tiêu dùng văn hóa trở thành một trong 3 trụ
cột quan trọng trong mối quan hệ người sản xuất văn hóa - sản phẩm văn hóa - người
tiêu dùng văn hóa.
Trong cuốn A textbook of cultural economics (Một cuốn sách về kinh tế văn
hóa), Ruth Towse (2019) [53] trong chương 6 đã đề cập đến nhu cầu tiêu dùng hàng
hóa và dịch vụ văn hóa. Về phương diện kinh tế, người tiêu dùng trong trường hợp
này là khán giả, du khách, người xem, người đọc… khi họ mua một vé xem phim,
tham quan di tích hay mua một cuốn sách. Tác giả cũng đã đề cập và phân tích 2 khía
cạnh của việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa: mơ hình tiêu dùng được bộc lộ khi
người tiêu dùng mua hàng hóa/dịch vụ văn hóa và lý thuyết về nhu cầu để giải thích
cách lựa chọn của người tiêu dùng. Chi tiêu của người tiêu dùng trong trường hợp này
chính là đem lại nguồn thu cho người sản xuất.
Tại Việt Nam, trong Chiến lược phát triển các ngành cơng nghiệp văn hóa đến
năm 2020, tầm nhìn 2030 ban hành kèm theo Quyết định 1755/QĐ-TTg ngày 8/9/2016
cũng đã xác định phát triển thị trường, nâng cao năng lực hưởng thụ văn hóa của cơng
chúng là một trong những nhiệm vụ và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp
10
văn hóa, trong đó nhấn mạnh: “Từng bước hình thành cộng đồng người tiêu dùng sản
phẩm, dịch vụ văn hóa trong nước thông qua hoạt động quảng bá, nâng cao khả năng
tiếp cận, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa của cơng chúng”. Trước đó, đã có
nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề này.
Tác giả Phạm Bích Huyền (2009) trong Giáo trình Các ngành cơng nghiệp văn
hóa [20]; tác giả Lương Hồng Quang (2018) [32] trong cuốn sách chuyên khảo Các
ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam đặt tiêu dùng sản phẩm văn hóa như một giai
đoạn của quy trình sản xuất và phân phối của các ngành cơng nghiệp văn hóa. Các tài
liệu này đã chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của tiêu dùng văn hóa so với tiêu dùng
sản phẩm vật chất thơng thường. Ngồi việc sản phẩm khơng bị hao mịn về giá trị qua
tiêu thụ, các tác giả đều nhấn mạnh tiêu thụ sản phẩm văn hóa mang nặng tính tâm lý
hơn là vật lý, ở đó q trình tiêu thụ sản phẩm văn hóa mang đến những trải nghiệm
tinh thần, cảm xúc, rung động, tình cảm cho người tiêu dùng. Đặt trong quy trình vận
hành của các ngành cơng nghiệp văn hóa, tiêu dùng dù là giai đoạn cuối cùng (phát
triển ý tưởng – sáng tạo/sản xuất – phân phối – tiêu dùng/bảo quản) nhưng lại là khởi
đầu cho một quy trình khác mang tính vịng lặp như vậy, nói cách khác tiêu dùng văn
hóa sẽ thúc đẩy sáng tạo văn hóa. Nhấn mạnh vai trị của hoạt động tiêu dùng, các tài
liệu cũng đã chỉ ra kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong chính sách của
nhà nước, đó là vừa đầu tư, chú trọng vào hoạt động sản xuất, sáng tạo (bên cung) vừa
đồng thời phát triển khán giả - người tiêu dùng (bên cầu). Sản phẩm văn hóa làm ra
cuối cùng là phục vụ cho khán giả, hướng tới khán giả, vì thế nhiều nước tập trung
nguồn lực để phát triển cơng chúng có hiểu biết, có nhu cầu hưởng thụ văn hóa và xem
đó như là cách để gián tiếp thúc đẩy hoạt động sản xuất, sáng tạo.
Nghiên cứu Để phát triển các ngành cơng nghiệp văn hóa ở Việt Nam của tác
giả Đỗ Thị Thanh Thủy (2014) đã đưa ra một số nhóm giải pháp về quản lý nhà nước;
cải tổ năng lực sáng tạo, sản xuất sản phẩm, dịch vụ văn hóa và năng lực vận hành
thương mại. Bài viết cũng đề cập tới việc tập trung nâng cao năng lực tiêu dùng, tiếp
thu của công chúng đối với các sản phẩm, dịch vụ cơng nghiệp văn hóa. Theo đó, sự
chủ động trong tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp văn hóa phụ thuộc vào năng lực
tiếp thu, cảm nhận, sự hiểu biết về văn hóa cũng như thói quen tiêu dùng, tham dự vào
các hoạt động văn hóa [38]. Vì thế các chương trình phát triển cơng chúng, phát triển
khán giả nên chú trọng đến việc nâng cao nhận thức về văn hóa nghệ thuật cũng như
11
giáo dục tiêu dùng có trách nhiệm. Đây cũng chính là nhóm giải pháp tập trung cho
bên “cầu” trong mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ giữa người sản xuất (bên cung)
với người tiêu dùng (bên cầu) như đã đề cập đến ở trong các nghiên cứu trước.
Trong Hội thảo “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế
qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” do Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Nguyễn Tiến Mạnh (2013) đã gợi mở
nhiều vấn đề tại tham luận “Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong
vấn đề quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay”. Bài viết đề cập khái quát một số nội dung
của tiêu dùng văn hóa đặt trong mối quan hệ với những vấn đề cơ bản của kinh tế văn
hóa như: khái niệm tiêu dùng văn hóa, sự phát triển của tiêu dùng văn hóa, đặc điểm
tiêu dùng văn hóa, cơ cấu tiêu dùng văn hóa và các xu hướng tiêu dùng văn hóa hiện
nay. Cũng đặt trong quy trình sáng tạo, phân phối, bảo quản và tiêu thụ các sản phẩm
văn hóa, tác giả cho rằng tiêu dùng không phải là công đoạn kết thúc của quy trình mà
thực chất là sự khởi đầu cho những quy trình tiếp theo, thúc đẩy sự sáng tạo diễn ra
không ngừng [27].
Như vậy, kể từ khi công nghiệp văn hóa, cơng nghiệp sáng tạo được xem là
hướng đi mới nhằm khai thác sự sáng tạo, tạo thu nhập và việc làm, thúc đẩy phát triển
văn hóa xã hội, thì vấn đề tiêu dùng văn hóa cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều
hơn. Đa phần các nghiên cứu đều đặt tiêu dùng văn hóa trong quy trình vận hành của
các ngành cơng nghiệp văn hóa, là một trong bốn giai đoạn quan trọng bao gồm: phát
triển ý tưởng – sáng tạo/sản xuất – phân phối – tiêu thụ và bảo quản. Dù là giai đoạn
cuối trong quy trình nhưng tiêu thụ hay tiêu dùng văn hóa lại là động lực để thúc đẩy
việc mở ra những quy trình tiếp theo, tạo ra những vòng lặp liên tiếp với quy mô ngày
càng rộng mở hơn.
Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa ở những nhóm đối tượng cụ thể
Ngồi những vấn đề lý thuyết chung như đã đề cập đến ở trên, một số nghiên
cứu tại Việt Nam đã đi sâu tìm hiểu tiêu dùng văn hóa ở những nhóm đối tượng cụ thể,
tại các địa phương cụ thể. Trong bài viết Sử dụng thời gian tự do vào tiêu dùng văn
hóa, tác giả Chu Khắc (1983) đã xem tiêu dùng văn hóa trong thời gian tự do là một
cách thức để kiến tạo lối sống xã hội chủ nghĩa mà ở đó con người được phát triển
tồn diện và hài hịa. Bài viết đã coi “hình thức sử dụng thời gian tự do quan trọng
nhất là tham gia các hoạt động văn hóa” [22]. Tuy nhiên các hình thức còn tương đối
12
hạn hẹp trong điều kiện khó khăn của xã hội lúc bấy giờ, phần lớn chỉ xoay quanh việc
đọc báo, xem tivi trong gia đình, xem kịch, ca nhạc hay các hoạt động thể thao, xem
triển lãm, đến các bảo tàng. Bài viết cũng đã sơ đồ hóa các yếu tố tác động đến tiêu
dùng văn hóa, bao gồm yếu tố bên ngồi (truyền thống gia đình, mơi trường sống),
yếu tố bên trong (trình độ giáo dục, nghề nghiệp, mức sống, thu nhập) và yếu tố bổ
sung (giới tính, tuổi tác) [22]. Thuật ngữ “tiêu dùng văn hóa” chưa được đề cập đến
trong bài viết một cách rõ ràng, trực diện mà ngầm ẩn trong các hình thức sử dụng
“thời gian tự do”. Trong bối cảnh xã hội còn nhiều khó khăn lúc bấy giờ, việc quan
tâm và đề cập đến tiêu dùng văn hóa, thời gian rỗi đã cho thấy ý thức sâu sắc về vai
trò của tiêu dùng văn hóa đối với việc xây dựng con người mới, lối sống mới xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Lê Như Hoa (2001) Tiêu dùng
văn hóa trong điều kiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [14] đặt vấn đề tiêu
dùng văn hóa trong bối cảnh mới với nhiều thuận lợi và thách thức. Từ việc nghiên
cứu thực trạng tiêu dùng văn hóa của cư dân đơ thị và nơng thơn ở một số lĩnh vực văn
hóa tiêu biểu, đề tài đưa ra những hướng dẫn tiêu dùng văn hóa và những giải pháp
giúp cho cơ quan lãnh đạo văn hóa trong việc điều hành tiêu dùng văn hóa. Luận án
tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội Đời sống văn
hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đặng Thị
Thúy Hằng (2015) đề cập đến tiêu dùng văn hóa như một phương diện biểu hiện thực
trạng đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh trước tác động của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án đã nhận diện, mơ tả và phân tích về phương tiện tiêu
dùng văn hóa, nhu cầu, mức độ, nội dung tiêu dùng văn hóa [12].
Tiêu dùng các sản phẩm văn hóa như âm nhạc, phim ảnh, sách báo, tạp chí,...
có ý nghĩa quan trọng với mọi lứa tuổi trong xã hội. Các nghiên cứu của Đinh Việt Hà
như Văn hóa giải trí của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa (2017) [6],
Một số nội dung nghiên cứu về văn hóa giới trẻ (2018) [7], Hâm mộ thần tượng: một
thực hành tiêu dùng của giới trẻ Việt Nam hiện nay (2020) [8] đã chỉ ra rằng riêng với
giới trẻ, tiêu dùng văn hóa vừa là hình thức giải trí tiêu biểu vừa là phương thức để họ
tạo dựng và thể hiện bản sắc cá nhân. Việc người trẻ nhanh nhạy tiếp cận với sản phẩm,
các trào lưu, xu hướng hay lựa chọn thưởng thức loại sản phẩm văn hóa nào cũng là
cách để nói lên cái tơi cá nhân, phong cách và cá tính.
13
Cũng nghiên cứu về giới trẻ, tác giả Đặng Thị Tuyết (2020) bàn về tiếp nhận
văn hóa đại chúng của sinh viên trong luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học Tiếp
nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế (qua khảo sát
tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Ngoại thương).
Dưới lăng kính lý thuyết tiếp nhận, mơ hình mã hóa/ giải mã (encoding/decoding) của
Stuart Hall, luận án sử dụng thuật ngữ “tiếp nhận văn hóa” với nghĩa là “sự lựa chọn
có chủ đích của chủ thể (cá nhân, nhóm xã hội) đối với sản phẩm văn hóa thơng qua
các phương tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình” [44]. Trên cơ sở khảo sát thực
trạng tiếp nhận văn hóa đại chúng của SV đang học tập tại 3 trường đại học (Trường
Đại học Ngoại thương, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội), trên 3 phương diện (chủ thể tiếp nhận, nội dung tiếp nhận, phương thức tiếp
nhận), trong phạm vi 3 lĩnh vực của văn hóa đại chúng (điện ảnh, âm nhạc, thời trang),
luận án đã chỉ ra rằng đây là nhóm đối tượng đang trong quá trình định hướng và hình
thành kĩ năng nghề nghiệp, cũng là nhóm nhanh nhạy với cơng nghệ, được tiếp cận
rộng rãi với sự du nhập của các khuynh hướng và ý tưởng mới mẻ từ thế giới. Cũng vì
thế, tiếp nhận văn hóa của sinh viên khá đa dạng, bằng nhiều hình thức, phương tiện
khác nhau, có tác động lớn đến đời sống tinh thần như giúp cân bằng cuộc sống, trang
bị tri thức, kĩ năng, định hình hệ giá trị. Luận án cũng phân tích 3 khuynh hướng tiếp
nhận với những đặc điểm riêng biệt: tiếp nhận thụ động, tiếp nhận phủ định và chiếm
số đông nhất là tiếp nhận thương lượng. Với tư cách là những chủ thể năng động, hào
hứng với cái mới, SV chủ động lựa chọn, thu nhận, gạn lọc và sáng tạo trong quá trình
tiếp nhận để phù hợp với lứa tuổi và để định hình nên bản sắc cá nhân [44].
Như vậy, có thể thấy các vấn đề lý thuyết về tiêu dùng văn hóa cũng như thực
tiễn tiêu dùng văn hóa ở các nhóm đối tượng cụ thể đã được nghiên cứu trong nhiều
cơng trình khác nhau trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Cho đến nay, đây vẫn là chủ
đề đang tiếp tục được khám phá dưới các quan điểm tiếp cận, các đối tượng, các lĩnh
vực văn hóa khác nhau. Hơn nữa, bối cảnh xã hội với nhiều thay đổi liên tục tác động,
chi phối đến việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương tiện tiêu dùng văn hóa. Sự tác
động này tới các nhóm xã hội cũng hồn toàn theo những cách thức riêng biệt. Do vậy,
tiêu dùng văn hóa vẫn ln là chủ đề mở ngỏ cho các nghiên cứu.
Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV đặt ra trong đề tài này khơng
có tham vọng mơ tả và phân tích một cách tồn diện các vấn đề về tiêu dùng văn hóa
14
(các loại sản phẩm/ hàng hóa văn hóa như các chương trình truyền hình, phim ảnh,
sách báo, tạp chí, trị chơi điện tử…; các phương tiện phục vụ tiêu dùng văn hóa như
ti vi, máy tính, máy tính bảng, điện thoại, tai nghe, loa đài…; các thiết chế văn hóa
phục vụ hoạt động tiêu dùng như thư viện, rạp chiếu phim, rạp hát, nhà văn hóa, bảo
tàng, triển lãm…). Đề tài này chỉ đặt ra vấn đề cơ bản để tìm hiểu là: Tiêu dùng văn
hóa của sinh viên ĐHNV hiện nay đang diễn ra như thế nào? Xoay quanh câu hỏi
chính này là một số câu hỏi khác như:
1. SV ĐHNV quan tâm và tiêu dùng loại sản phẩm văn hóa nào, sử dụng những
phương thức nào để tiêu dùng văn hóa?
2. Tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV phản ánh xu hướng tiêu dùng nào đang
diễn ra?
3. Làm thế nào để phát triển tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV?
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV qua đó đề xuất một số
biện pháp nhằm pháp triển tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài đặt ra 3 nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tiêu dùng văn hóa nhằm mang
lại cái nhìn khái qt về tiêu dùng văn hóa như khái niệm, nhu cầu, nội dung, phương
thức, đặc điểm tiêu dùng văn hóa.
Thứ hai, tổ chức khảo sát, phỏng vấn, trao đổi nhằm thu thập dữ liệu, mô tả,
phân tích thực trạng tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV.
Thứ ba, đề xuất một số biện pháp phát triển tiêu dùng văn hóa của SV và một
số gợi ý cho việc dạy học tại ĐHNV dựa trên hiểu biết về tiêu dùng văn hóa của SV.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tiêu dùng văn hóa của SV.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
15
- Đề tài tập trung tìm hiểu tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV ở 4 ngành học:
Quản lý văn hóa, Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thơng, Quản trị nhân lực. SV được
khảo sát bao gồm SV năm thứ nhất đến SV năm thứ tư.
- Nội dung tiêu dùng văn hóa được giới hạn trong đề tài này bao gồm: tiêu dùng
sách báo, tạp chí; tiêu dùng sản phẩm phim ảnh, tiêu dùng sản phẩm âm nhạc và tiêu
dùng các sản phẩm trò chơi điện tử. Các sản phẩm văn hóa mà SV tiêu dùng trong thực
tế cịn đa dạng, phong phú hơn nhiều, gắn với nhu cầu, thị hiếu của từng cá nhân cụ
thể. Tuy nhiên, 4 loại sản phẩm được giới hạn trong đề tài là những sản phẩm tương
đối “phổ thông”, thu hút sự quan tâm của đại đa số SV nói chung và SV ĐHNV nói
riêng.
- Thời gian: nghiên cứu này được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng
8/2021 đến tháng 5/2022.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được xác định là một nghiên cứu định tính có sử dụng các phương
pháp định lượng trong việc khảo sát và thu thập thông tin.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Để làm rõ các vấn vấn đề lý luận về tiêu dùng
văn hóa, đề tài sử dụng nguồn tài liệu thứ cấp bao gồm tài liệu về tiêu dùng văn hóa
đã xuất bản trên tạp chí và sách, các luận án tiến sĩ. Một số tài liệu viết bằng tiếng Anh,
còn lại chủ yếu là tiếng Việt. Những nghiên cứu đi trước này đã phác họa và gợi mở
nhiều vấn đề về tiêu dùng văn hóa đang diễn ra hiện nay ở các nhóm đối tượng khác
nhau. Phân tích nguồn tài liệu thứ cấp cũng được sử dụng để làm cơ sở cho những bình
luận về xu hướng tiêu dùng văn hóa của SV.
- Phương pháp điều tra xã hội học: để hiểu được thực trạng tiêu dùng văn hóa
của SV ĐHNV, đề tài sử dụng bảng hỏi để khảo sát, theo hình thức khảo sát online
qua công cụ google form. Đối tượng khảo sát chính là SV thuộc bốn ngành học: Quản
lý văn hóa, Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thơng, Quản trị nhân lực. Độ tuổi của SV
được khảo sát từ 18-24, bao gồm SV năm thứ nhất đến SV năm thứ tư của các khóa
đào tạo được tuyển sinh từ năm 2018 đến năm 2021. Đề tài đã khảo sát 200 sinh viên,
cụ thể:
TT
1
SV ngành
Quản trị nhân lực
16
Số lượng
Tỉ lệ (%)
68
34
2
Quản lý văn hóa
20
10
3
Văn hóa du lịch
64
32
4
Văn hóa truyền thơng
48
24
Số lượng sinh viên năm thứ nhất là 60 SV (30%), năm thứ hai là 41 SV (20.5%), năm
thứ ba là 50 SV (25%) và năm thứ tư là 49 SV (24.5%). Tổng số SV nữ được khảo sát
là 132 (chiếm 66%), số SV nam là 68 (34%). Thời gian khảo sát từ tháng 11/2021 đến
hết tháng 5/2022.
Đề tài chọn SV các ngành Quản lý văn hóa, ngành Văn hóa học (chun ngành
Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thơng), Quản trị nhân lực vì những lý do sau:
+ So với các ngành học khác hiện đang được đào tạo tại trường, các ngành Quản
lý văn hóa, ngành Văn hóa học (chun ngành Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thơng),
nội dung đào tạo có những nội dung đặc thù gắn liền với thực tiễn hoạt động văn hóa,
ít nhiều đều liên quan đến các sản phẩm văn hóa nghệ thuật. Một số môn học cung cấp
cho người học kiến thức về nghệ thuật, rèn luyện khả năng thưởng thức cũng như sáng
tạo nghệ thuật, liên quan trực tiếp với việc tiêu dùng văn hóa. SV vì thế sẽ có cơ hội
được tiếp xúc nhiều hơn với các sản phẩm văn hóa ở nhiều loại hình nghệ thuật như
âm nhạc, điện ảnh, văn học... Hơn nữa SV các ngành này, về sau thường làm việc
trong các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, các trung tâm văn hóa, các tổ chức
văn hóa nghệ thuật… do vậy tiêu dùng văn hóa khi là SV sẽ góp phần làm dày thêm
vốn hiểu biết trong lĩnh vực công tác sau này.
+ Ngành Quản trị nhân lực với đặc trưng là thuộc lĩnh vực quản trị, quản lý,
khơng có nhiều học phần về văn hóa nghệ thuật trong CTĐT được lựa chọn để khảo
sát nhằm mang lại cái nhìn khái quát về tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV cũng như
để so sánh với mức độ tiêu dùng văn hóa của các nhóm ngành liên quan đến văn hóa.
Đây là ngành học mà SV được đánh giá là khá năng động, có kiến thức nền tảng tốt,
sáng tạo, thích ứng cao với bối cảnh.
Phương pháp điều tra xã hội học có ưu điểm là cung cấp một cái nhìn trên diện
rộng về tiêu dùng văn hóa tuy nhiên lại chưa khai thác và thể hiện được hết những câu
chuyện cá nhân về sở thích, xu hướng, gu thẩm mĩ của người học.
- Phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc: được sử dụng để bổ khuyết cho
những hạn chế trên nhằm tìm hiểu và khai thác kĩ hơn nhu cầu, nguyện vọng, tâm tư
17
của người học khi tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện 15
cuộc phỏng vấn sâu với các SV. Các cuộc phỏng vấn dưới dạng cuộc trị chuyện cá
nhân, SV có thể thoải mái, dễ dàng chia sẻ. Hơn nữa, với vai trò là cố vấn học tập,
giảng viên dạy một số học phần cơ sở ngành và chuyên ngành của các ngành học trên,
người nghiên cứu đã có nhiều cơ hội được tiếp xúc và chia sẻ với SV. Sự gần gũi này
mang đến nhiều thuận lợi, thiết lập được sự tin cậy và cởi mở để SV có thể chia sẻ
nhiều hơn các câu chuyện cá nhân liên quan đến tiêu dùng văn hóa.
- Phương pháp thảo luận nhóm: đề tài đã tiến hành 3 cuộc thảo luận nhóm, mỗi
nhóm từ 5-7 SV. Trong các cuộc thảo luận nhóm, SV tương tác khá tốt, cởi mở và chia
sẻ nhiều thông tin về tiêu dùng văn hóa của cá nhân.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phẩn Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tiêu dùng văn hóa
Chương 2: Thực trạng tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội
Chương 3: Phát triển tiêu dùng văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội và một số hàm ý cho việc dạy học
18
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA
1.1. Một số khái niệm về tiêu dùng văn hóa
1.1.1. Tiêu dùng văn hóa
Từ điển Tiếng Việt (1992) của Viện Ngơn ngữ học giải thích “tiêu dùng” là sử
dụng của cải vật chất để thỏa mãn các nhu cầu của sản xuất và đời sống [45]. Chữ “tiêu
thụ” đôi khi cũng được dùng thay thế với nghĩa sử dụng cái gì vào việc gì (ngồi một
nghĩa khác để chỉ việc hàng hóa được bán ra thị trường). Tiêu dùng được hình thành
từ quyết định mua của người tiêu dùng để sở hữu sản phẩm và là hành vi hướng đến
việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Theo nghĩa chung nhất thì tiêu dùng là việc sử dụng
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Người tiêu dùng hay
người tiêu thụ là từ để chỉ các cá nhân/ hộ gia đình dùng sản phẩm hoặc dịch vụ sản
xuất trong nền kinh tế. Người tiêu dùng là người có nhu cầu, có khả năng mua sắm các
sản phẩm dịch vụ trên thị trường phục vụ cho cuộc sống. Từ góc độ kinh tế học, tiêu
dùng gắn với sự sở hữu, đáp ứng nhu cầu, là một phần trong quy trình sản xuất - phân
phối - bảo quản - tiêu dùng của các ngành công nghiệp. Tiêu dùng dù là giai đoạn cuối
cùng của một quy trình này nhưng lại cũng là khởi đầu cho một quy trình vận hành
tiếp sau, chính vì vậy, tiêu dùng là động lực cho sản xuất, thúc đẩy sản xuất.
Cũng cần nói rõ thêm về nội hàm của chữ “nhu cầu”. Nhu cầu được hiểu là thứ
tồn tại hiển nhiên đối với con người mà khi thỏa mãn nó khiến con người có cảm giác
vui sướng, hạnh phúc. Ngược lại, nhu cầu khi không được đáp ứng sẽ tạo nên trạng
thái buồn bã, đau đớn, bí bách, khó chịu. Con người có các nhu cầu về tâm lý, sinh lý,
văn hóa và xã hội khác nhau. Tất cả các hoạt động nhằm đáp ứng bất kỳ nhu cầu nào
trong số này đều được coi là tiêu dùng. Tuy nhiên về sau, các nghiên cứu từ góc nhìn
xã hội học, nghiên cứu văn hóa, đặt trong bối cảnh sự phát triển của tiêu dùng đại
chúng (mass consumtion), chuyển đổi từ tiêu dùng quý tộc sang tiêu dùng hàng loạt
đều coi tiêu dùng là một phần quan trọng của đời sống. Nó mang nhiều ý nghĩa hơn là
sự đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu. Tiêu dùng cịn có ý nghĩa biểu tượng, qua tiêu dùng để
phân biệt mình với người khác, nhóm người khác, thể hiện vị thế, đẳng cấp xã hội, góp
phần hình thành bản sắc cá nhân, bản sắc xã hội.
19
Tiêu dùng được xem là một hoạt động căn bản của con người, tồn tại song hành
cùng với nhiều hoạt động khác của con người. Tuy vậy các thuật ngữ “xã hội tiêu
dùng”, “tiêu dùng đại chúng” hay “tiêu dùng văn hóa” lại được xuất hiện trong những
bối cảnh cụ thể. Manh nha của xã hội tiêu dùng được cho là xuất hiện từ thế kỉ 17 [31]
và trở nên phổ biến ở thế kỉ 20 cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tiêu dùng.
Với sự hậu thuẫn cực kì mạnh mẽ của cơng nghệ, sản xuất theo dây chuyền đã tạo ra
hàng loạt hàng hóa giá rẻ để đại chúng có thể tiếp cận. Chủ nghĩa tư bản cùng đồng
thời khuyến khích các nhà sản xuất và người tiêu dùng bằng động cơ lợi nhuận, bằng
tài sản cá nhân, chủ quyền của người tiêu dùng. Người tiêu dùng được đặt ở vị trí tối
thượng. Việc sản xuất cái gì, như thế nào đều bị chi phối và cũng để phục vụ cho nhu
cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và cuối cùng là hướng đến tối đa hóa lợi nhuận. Bối
cảnh xã hội tư bản, vì vậy, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa tiêu
dùng và hiện tượng tiêu dùng hàng loạt.
Khái niệm “tiêu dùng văn hóa” được nói đến nhiều trong bối cảnh đó, nhất là
khi văn hóa đại chúng được hình thành, cơng nghiệp văn hóa phát triển tạo ra sản phẩm
văn hóa hàng loạt, phổ biến trên phạm vi rộng rãi. Văn hóa đại chúng ra đời dựa trên
2 tiền đề quan trọng: sự xuất hiện của các phương tiện truyền thơng cũng như sự hình
thành của nền sản xuất đại cơng nghiệp. Sản phẩm văn hóa cũng giống như sản phẩm
thông thường khác ở điểm đều là kết quả của quá trình sản xuất, tuy nhiên đây là loại
sản phẩm đặc biệt vì chứa đựng giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, giá trị thẩm mĩ, giá trị
biểu tượng. Trong khi sản phẩm thông thường đáp ứng nhu cầu tiêu dùng vật chất thì
sản phẩm văn hóa hướng tới thỏa mãn nhu cầu tinh thần cho con người. Sản phẩm
thơng thường có giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong khi sản phẩm văn hóa cịn có
giá trị biểu tượng, chứa đựng ý tưởng, góp phần kiến tạo lối sống và bản sắc cá nhân.
Sản phẩm văn hóa mang tính phi vật thể. Dù tồn tại dưới vỏ vật chất nhất định (tác
phẩm văn học tồn tại dưới dạng cuốn sách, tác phẩm điện ảnh thể hiện dưới dạng cuốn
phim, tác phẩm hội họa hiện hữu trong một khung tranh…) tuy nhiên khi tiêu dùng
các sản phẩm văn hóa, khán giả có thể có hoặc khơng sở hữu một vật thể vật chất mà
quan trọng nhất là được “sở hữu” nội dung, ý tưởng, thơng điệp, tình cảm… của tác
phẩm. Hơn nữa nếu như các sản phẩm hàng hóa thơng thường thể hiện rõ tính hữu ích
(sử dụng cho một mục đích cụ thể, như ơ tơ để phục vụ mục đích di chuyển, áo quần
để mặc, tủ lạnh để lưu trữ thức ăn…) thì sản phẩm văn hóa lại khó đánh giá, đo đếm
20
được tính hữu ích vì sản phẩm văn hóa này có thể phù hợp, giàu giá trị với người này
nhưng rất có thể lại khơng nhiều ý nghĩa với người khác. Nói cách khác, mỗi cá nhân
có thị hiếu thẩm mỹ riêng, tầm đón nhận riêng nên giá trị cụ thể của sản phẩm văn hóa
thường khó xác định hơn và khác biệt giữa các cá nhân. Các sản phẩm văn hóa được
tạo ra hàng loạt nhằm mục tiêu giải trí, nặng tính đại chúng và tính thương mại. Về
phía khán giả, việc tiêu thụ các sản phẩm văn hóa này cũng chính là một sự tiêu thụ,
tiêu thụ hàng hóa văn hóa.
Về tiêu dùng văn hóa, một số nghiên cứu trước đây đã đưa ra những cách hiểu,
những khái niệm cụ thể. Tác giả Lê Như Hoa (2001) trong đề tài nghiên cứu khoa học
Tiêu dùng văn hóa trong điều kiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho rằng:
“Tiêu dùng văn hóa tức là dùng những sản phẩm văn hóa (được sản xuất ra trong lĩnh
vực tinh thần) vào sinh hoạt hàng ngày, phục vụ cho sinh hoạt cá nhân, gia đình, cộng
đồng, vào mục đích văn hóa nhằm hồn thiện nhân cách người, gia đình, cộng đồng”
[14]. Coi tiêu dùng là một trong bốn giai đoạn quan trọng của quy trình sản xuất/sáng
tạo - phân phối - bảo quản - tiêu thụ sản phẩm văn hóa, trong bài viết “Tiêu dùng văn
hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay”,
tác giả Nguyễn Tiến Mạnh (2013) định nghĩa: “Tiêu dùng văn hóa là một khái niệm
chỉ một loại tiêu dùng mà ở đó, thơng qua việc dùng các sản phẩm văn hóa hoặc dịch
vụ văn hóa mà nhu cầu tinh thần của con người được thỏa mãn, đáp ứng” [27]. Khi
xem tiêu dùng văn hóa là một phần trong đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà
Tĩnh thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, luận án của Đặng Thị Thúy Hằng (2015)
coi tiêu dùng văn hóa là “việc sử dụng những sản phẩm văn hóa để đáp ứng, thỏa mãn
nhu cầu tinh thần của cư dân hiện nay, và việc tiêu dùng sản phẩm văn hóa này cũng
chỉ đề cập đến tiêu dùng sản phẩm tinh thần, gắn liền với sản phẩm tinh thần là công
cụ phương tiện tiêu dùng và phương thức tiêu dùng văn hóa” [12]. Sản phẩm văn hóa
được đề cập trong định nghĩa này bao gồm các chương trình truyền hình, phim ảnh,
phần mềm trị chơi điện tử, sách báo, tạp chí. Ngồi ra, tác giả cũng chỉ ra rằng tiêu
dùng sản phẩm văn hóa cịn liên quan đến các phương tiện phục vụ tiêu dùng như ti
vi, đầu đĩa, máy tính và hệ thống thiết chế văn hóa như thư viện, rạp chiếu phim, nhà
hát… Tác giả Đặng Thị Thu Hương (2016) khi nghiên cứu Văn hóa truyền thơng đại
chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và tồn cầu hóa đã cho rằng tiêu
dùng văn hóa là khái niệm có nội dung rất rộng, đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau
21
như công cụ, phương tiện tiêu dùng, phương thức tiêu dùng. Nghiên cứu cũng đưa ra
cách hiểu về tiêu dùng văn hóa “là một khái niệm chỉ về các loại sản phẩm tinh thần
và dịch vụ văn hóa tinh thần được người tiêu dùng đánh giá cao, được sở hữu, được
tiêu dùng, thưởng thức và được sử dụng” [19, tr 234]. Tác giả cũng xem tiêu dùng văn
hóa là một dạng hoạt động trong thực tiễn vì thế “hoạt động tiêu dùng văn hóa của
con người cũng chính là hoạt động sáng tạo văn hóa” [19, tr234].
Dù khác biệt về cách diễn đạt, các quan niệm về tiêu dùng văn hóa ở trên cơ bản
có sự kế thừa và thống nhất khi đều chỉ ra rằng tiêu dùng văn hóa chính là việc dùng,
sử dụng những sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa để đáp ứng nhu cầu tinh thần của
con người. Sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa ở đây đều thuộc lĩnh vực tinh thần.
Phạm vi của tiêu dùng văn hóa thường đề cập đến các lĩnh vực chủ yếu như du lịch,
thể thao, văn hóa, nghệ thuật giải trí, giáo dục…
Ở đây, cũng cần có những phân biệt giữa khái niệm tiêu dùng văn hóa (cultural
consumption) với một số khái niệm khác, thường dễ bị sử dụng thay thế hoặc nhầm
lẫn. Trước tiên là khái niệm “văn hóa tiêu dùng” (consumer culture). “Văn hóa tiêu
dùng” quan tâm đến hành vi tiêu dùng từ khía cạnh văn hóa, theo đó tiêu dùng khơng
chỉ đơn giản là một quá trình mà các sản phẩm thương mại được người tiêu dùng sử
dụng mà nó cịn là cơng cụ để nói về con người, phản ánh về chính chủ thể tiêu dùng.
Tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ, theo đó khơng đơn thuần là để đáp ứng nhu cầu mà
còn là một trong nhiều cách thức để định nghĩa về con người, về vị thế xã hội, giá trị
và uy tín cá nhân. Nói cách khác việc người ta làm, xác định giá trị, cách thức xác định
giá trị đều thơng qua việc tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ.
Khái niệm “tiếp nhận văn hóa” cũng có nhiều nét nghĩa tương đồng so với “tiêu
dùng văn hóa”. Tiếp nhận là đón nhận cái từ người khác, nơi khác chuyển giao cho.
“Tiếp nhận văn hóa” là q trình chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của các sản
phẩm văn hóa. Tiếp nhận cũng nhấn mạnh đến vai trị chủ động của chủ thể tiếp nhận
trong việc lựa chọn, xem xét sự phù hợp hay không phù hợp của sản phẩm đó đối với
cá nhân. Tiếp nhận khơng có nghĩa là tiếp thu, thâu nhận hoàn toàn các nội dung từ
sản phẩm văn hóa khác mà có sự chọn lọc dựa trên nhu cầu cũng như thị hiếu của chủ
thể.
“Tiêu dùng văn hóa” cũng có phần khác với “hưởng thụ văn hóa” - một trong
những nội dung thuộc quyền văn hóa của mỗi người dân. Quyền hưởng thụ văn hóa
22
được quy định trong điều 41, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham
gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”. Quyền hưởng thụ là một phần
của quyền văn hóa (bao gồm quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, quyền được thể hiện
và thực hành văn hóa, quyền được tơn trọng, thừa nhận những nét khác biệt về văn
hóa cũng như quyền được sử dụng các thiết chế văn hóa – xác lập quyền sở hữu tồn
dân đối với các thiết chế văn hóa). Quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa được đưa ra
nhằm mục đích bảo đảm quyền thưởng thức, khai thác các giá trị văn hóa của các chủ
thể trong điều kiện bình đẳng và khơng phân biệt đối xử, thể hiện sự tự do trong việc
cá nhân có quyền quyết định thưởng thức/ không thưởng thức một sản phẩm văn hóa.
Nó bao gồm việc nghe/xem/đọc các tác phẩm văn học nghệ thuật, tham gia các lễ hội
truyền thống… qua đó góp phần làm giàu đời sống tinh thần cá nhân, nâng cao chất
lượng sống của người dân trong mỗi quốc gia.
Như vậy, có thể hiểu, tiêu dùng văn hóa là việc sử dụng các sản phẩm văn hóa
để thỏa mãn nhu cầu tinh thần cho cá nhân. Tiêu dùng văn hóa nhấn mạnh tính chủ
động của các cá nhân trong việc tìm kiếm, lựa chọn, chi trả, hưởng thụ, đánh giá các
sản phẩm văn hóa. Các sản phẩm văn hóa có phạm vi rộng, bao gồm sản phẩm của
nhiều lĩnh vực khác nhau: điện ảnh, âm nhạc, văn học, quảng cáo, chương trình truyền
hình, trị chơi điện tử… tuy nhiên trong đề tài này, chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về
tiêu dùng văn hóa của SV trong các sản phẩm thuộc ngành công nghiệp điện ảnh, công
nghiệp âm nhạc, cơng nghiệp xuất bản (sách/ báo/ tạp chí), cơng nghiệp game (trò chơi
điện tử - video game). Tiêu dùng văn hóa ngồi việc đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu giải
trí còn là phương cách để SV bộc lộ, biểu hiện bản sắc cá nhân cũng như tương tác,
kết nối với các cá nhân khác. Tiêu dùng văn hóa là một phần quan trọng trong đời sống
của SV, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật, góp phần hình thành nên con
người toàn diện với các trụ cột “đức - trí - thể - mỹ”.
1.1.2. Nhu cầu tiêu dùng văn hóa
“Nhu” là sự cần thiết, “cầu” là địi hỏi, mong muốn. “Nhu cầu” có thể được hiểu
là sự địi hỏi, thôi thúc cần được đáp ứng, để thỏa mãn sự thiếu thốn đang diễn ra. Nhu
cầu con người là đa dạng, hay như cách nói của Đồn Văn Chúc, nhu cầu có tính “phồn
sinh” [3], nó liên tục được tạo ra, nối tiếp nhau, đòi hỏi con người đáp ứng. Nhu cầu
23
có cơ sở sinh học khi nó đáp ứng các nhu cầu căn bản của con người như ăn, mặc, ở…
nhưng nhu cầu cũng có tính xã hội, nó bị chi phối bởi vị thế, lứa tuổi, giai cấp.
Nhu cầu tiêu dùng văn hóa thể hiện mong muốn được hưởng thụ, thưởng thức,
được trải nghiệm các sản phẩm văn hóa, đáp ứng nhu cầu giải trí, thỏa mãn đời sống
tinh thần của mỗi cá nhân. Nếu như nhu cầu về ăn, mặc, ở… được xếp vào nhu cầu
vật chất thì nhu cầu tiêu dùng văn hóa được xếp vào nhu cầu tinh thần. Nhu cầu tiêu
dùng văn hóa gắn với thời gian rỗi, được thực hiện trong những khung thời gian giành
cho các hoạt động tinh thần, nó hồn tồn thốt khỏi và khơng bị phụ thuộc vào hoạt
động sản xuất thỏa mãn nhu cầu vật chất cơ bản. Thời gian rỗi từng được “nhiều triết
gia trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại xem như là tiềm năng cho sự vun bồi bản ngã
qua tự do tinh thần và suy tư chiêm nghiệm” (Phan Thị Thu Hiền (2013) [13]. Nhu cầu
tiêu dùng văn hóa có sự khác biệt giữa các cá nhân, phụ thuộc vào “gu thẩm mỹ”, sở
thích, cá tính riêng của mỗi người. Nhu cầu tiêu dùng văn hóa của người dân bị chi
phối bởi nhiều yếu tố như bối cảnh thời đại, điều kiện kinh tế xã hội, giai cấp, dân tộc,
yếu tố thế hệ lứa tuổi... Những địi hỏi đa dạng khiến q trình sản xuất cũng phải tạo
ra sự đa dạng các loại sản phẩm, vì thế có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy sự đa dạng của
văn hóa.
Nhu cầu hưởng thụ các sản phẩm văn hóa từng chưa được coi trọng đúng mức
trong lịch sử, bị đặt dưới rất nhiều các nhu cầu khác, thường đứng sau nhu cầu về vật
chất. Suy nghĩ phải “cơm no, áo ấm” rồi mới tính đến văn nghệ, giải trí tồn tại lâu dài
trong quan niệm người Việt. Những lúc khó khăn, nhu cầu vật chất thường vẫn được
ưu tiên đáp ứng còn nhu cầu tinh thần sẽ bị cắt giảm, lĩnh vực văn hóa từng được xếp
sau cùng trong những lĩnh vực được ưu tiên nhưng đứng đầu tiên trong danh sách bị
cắt giảm nếu có những điều chỉnh về kinh phí đầu tư. Tuy nhiên cùng với sự thay đổi
của bối cảnh kinh tế xã hội, nhận thức về vai trò của sản phẩm văn hóa đối với đời
sống cũng đã có nhiều chuyển biến theo chiều hướng khẳng định là một phần tất yếu
của đời sống, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu tinh thần, song hành cùng nhu cầu vật chất.
1.1.3. Nội dung tiêu dùng văn hóa
Nội dung tiêu dùng văn hóa đề cập đến phạm vi đa dạng của các sản phẩm văn
hóa, hàng hóa văn hóa trên nhiều loại hình sản phẩm khác nhau như điện ảnh, âm nhạc,
văn học, sân khấu, sách, báo, tạp chí… Xuất phát từ địi hỏi đa dạng của nhu cầu, “gu”
24
thẩm mỹ của người tiêu dùng mà nội dung tiêu dùng văn hóa vì thế cũng khá phong
phú.
Nội dung mà người tiêu dùng văn hóa lựa chọn thường có sự khác biệt theo độ
tuổi, theo thị hiếu, theo các mối quan tâm khác nhau. Thế hệ nhỏ tuổi trong giai đoạn
mẫu giáo, nhi đồng, thiếu niên thường quan tâm đến các sản phẩm văn hóa phục vụ
cho nhu cầu “chơi mà học”, “học mà chơi” như đồ chơi, sách báo, truyện tranh, phim
hoạt hình dành cho thiếu nhi. Giai đoạn thanh niên gắn với nhu cầu mở rộng các mối
quan hệ cũng như nhận thức về xã hội nên mối quan tâm cũng mở ra trên nhiều loại
hình sản phẩm với nhiều nội dung khác nhau như sách báo, tạp chí, phim ảnh... Trong
khi người trẻ thường tập trung tiêu dùng các nội dung kĩ thuật số như xem video trên
youtube, nghe sách nói hay đi xem phim ở rạp, tham dự các liveshow... thì khán giả
trong độ tuổi 35-65 thường có xu hướng đọc sách, báo, tạp chí, nghe nhạc trên đài,
xem phim trên truyền hình...
Trong từng loại hình sản phẩm văn hóa, nội dung được người tiêu dùng lựa chọn
cũng có những khác biệt về đề tài, chủ đề, phạm vi hiện thực cuộc sống nào được phản
ánh. Ví như cũng trong âm nhạc, giới trẻ hiện nay quan tâm nhiều đến nhạc trẻ, nhạc
indie, nhạc pop, hiphop... trong khi lứa tuổi trung niên lại thích những ca khúc trữ tình,
nhạc cách mạng, nhạc tiền chiến... Những khác biệt trong nội dung tiêu dùng này phản
ánh sự đa dạng của sở thích, thị hiếu thẩm mĩ cũng như cá tính, mối quan tâm của
nhiều nhóm người khác nhau. Điều này cũng thúc đẩy sự đa dạng trong việc sản xuất
sản phẩm văn hóa hướng tới đáp ứng nhu cầu khác nhau của các thế hệ khác nhau.
1.1.4. Phương thức tiêu dùng văn hóa
Phương thức tiêu dùng văn hóa đề cập đến cách thức người tiêu dùng sử dụng
các sản phẩm văn hóa. Các phương thức tiêu dùng chủ yếu là đọc (đối với sách, báo,
tạp chí), xem tại bảo tàng, triển lãm (đối với hội họa), tại rạp chiếu (đối với phim ảnh),
nghe (đối với các sản phẩm âm nhạc) hay theo phương thức tổng hợp, kết hợp các giác
quan như nghe – nhìn (đối với âm nhạc, phim ảnh, chơi game...). Phương thức tiêu
dùng có thể diễn ra trực tiếp hoặc trực tuyến trên mạng, qua các phương tiện như ti vi,
internet, máy tính bảng, điện thoại di động... Trong bối cảnh hiện nay, sự kết hợp các
phương thức này càng có xu hướng diễn ra mạnh mẽ. Với sách, báo, tạp chí, ngồi
việc đọc các bản được in ấn dưới dạng giấy, người tiêu dùng có thể lựa chọn phương
thức nghe đối với các sản phẩm là sách nói. Nếu như âm nhạc, trước đây thường chỉ
25