Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Nghiên Cứu Hiện Trạng Tiêu Dùng Văn Hóa Ở Xã Bắc Phong , Huyện Thuận Bắc Tỉnh Ninh Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.47 KB, 36 trang )

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG TIÊU DÙNG VĂN HÓA Ở
XÃ BẮC PHONG , HUYỆN THUẬN BẮC
TỈNH NINH THUẬN
Môn: Kinh Tế Học Văn Hóa

Lớp: Quản lý văn hóa_Ninh Thuận
Sinh viên: Trần Quang Luân
Nơi công tác: UBND xã Bắc Phong
KHÓA: 2013 - 2018
HDKH: TS. Nguyễn Tiến Mạnh

Bắc Phong, tháng 8 năm 2016


LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình theo học lớp Đại học quản lý văn hóa, bản thân được tiếp
cận bộ môn kinh tế học văn hóa, đây là một bộ môn với nội dung hoàn toàn mới
mà trong thực tiễn của các tổ chức hoạt động văn hóa chưa được triển khai. Qua
nội dung của môn kinh tế học văn hóa bản thân rất tâm đắc với phần tiêu dùng văn
hóa. Với sự hướng dẫn nhiệt tình cho lớp của Giảng viên tiến sỹ - Nguyễn Tiến
Mạnh, bản thân lĩnh hội được phần nào về vấn đề kinh tế văn hóa nói chung cũng
như tiêu dùng văn hóa nói riêng. Từ đó bản thân nhận ra được với thực trạng hoạt
động văn hóa ở địa phương mình cũng như ở một số địa phương khác trong nước
còn hạn chế trong quá trình quản lý cũng như thực hiện các chương trình hoạt động
về lĩnh vực văn hóa. Bản thân thực hiện đề tài “nghiên cứu thực trạng tiêu dùng
văn hóa” trên địa bàn xã Bắc Phong, ngoài để hoàn thành học phần của mình còn
mong được góp một phần nhỏ cho hoạt động văn hóa trên địa bàn xã Bắc Phong


nói riêng và đất nước nói chung. Để làm nên tiểu luận này, bản thân nhờ rất nhiều
cá nhân và tổ chức về truyền đạt kiến thức cũng như cung cấp tài liệu, thông tin.
Trước tiên bản thân xin được gởi lời cảm ơn chân thành đến Thầy Nguyễn Tiến
Mạnh, người đã trực tiếp truyền đạt kiến thức cho em, đồng thời bản thân gửi lời
cảm ơn đến các tổ chức như: Trường Đại học văn hóa thành phố Hồ Chí Minh;
Thường trực Đảng ủy, Lãnh đạo UBND xã ; ngành Văn hóa thông tin, Lao động
thương binh & xã hội xã Bắc Phong; Trung tâm văn hóa huyện Thuận Bắc… đã
tạo điều kiện cũng như cung cấp tài liệu, tư liệu, thông tin cần thiết cho em thực
hiện tiểu luận.


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Giới thiệu khái quát nội dung đề tài:
Văn hóa là mục tiêu và là động lực phát triển: UNESCO đề cập “Văn hoá
phải được xếp ở vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của sự phát triển”. Các
vấn đề được UNESCO quan tâm hiện nay là: Mối quan hệ giữa văn hóa với khoa
học và kỹ thuật; văn hóa và kinh doanh; văn hóa và môi trường; văn hóa và đô thị;
văn hóa và đời sống; văn hóa giáo dục và lao động; văn hóa và sức khỏe; khuyến
khích sáng tạo nghệ thuật. Sự kết hợp kinh tế với văn hóa, văn hóa với phát triển
đang là yêu cầu bức xúc của tất cả các quốc gia, dân tộc hiện nay, đúng như nhận
định của F.Mayor - Tổng giám đốc UNESCO : “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục
tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những
mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của
nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều”. Quan điểm của Đảng ta trong nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) có nêu: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”. Trong công cuộc đổi
mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta đã và đang phát triển
mạnh trên tất cả các lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực văn hóa, giao lưu văn hóa ngày
càng được mở rộng; đời sống người dân đang từng bước được cải thiện, nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của con người ngày càng cao… Vì thế, nhu cầu và hành vi tiêu

dùng văn hóa của mọi tầng lớp nhân dân cần được đặc biệt quan tâm, nhằm để
cung ứng các thương phẩm văn hóa kịp thời và phù hợp với thị hiếu trên thị trường
văn hóa, góp phần nâng cao hiệu quả cho tuyên truyền giáo dục, đồng thời thúc
đẩy nền công nghiệp văn hóa cho phát triển kinh tế của địa phương nói riêng và cả
nước nói chung.
2. Lý do chon đề tài:
Thông qua Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về việc
ban hành nghị quyết mới về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Hội nghị thống nhất nhận định, sau
hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa, tư duy lý
luận văn hóa đã có bước phát triển; thể chế văn hóa từng bước được xây dựng,


hoàn thiện; đời sống văn hóa ngày càng được phong phú. Các giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc được kế thừa và phát huy; nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo
đức mới được hình thành. Sản phẩm văn học nghệ thuật ngày càng đa dạng; nhiều
phong trào văn hóa đem lại hiệu quả thiết thực... Về phương hướng, nhiệm vụ
trong thời gian tới, Trung ương chỉ rõ phải tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển
quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa đã được nêu trong Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII), đồng thời nhấn mạnh văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn nội lực sinh quan trọng cho phát
triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,
xã hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội. Thực tiễn đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và đời sống văn hóa
ở nước ta những năm gần đây đang diễn ra cực kỳ phong phú, phức tạp, có nhiều
dấu hiệu và đặc điểm hoàn toàn mới. Sự tác động cả tích cực lẫn tiêu cực của cơ
chế thị trường ngày càng mạnh và sâu đối với đời sống xã hội và đời sống con
người, trong đó văn hóa chịu sự tác động trực tiếp hàng ngày, tinh vi và phức tạp.
Trước tình hình đó toàn bộ công tác quản lý của nhà nước đối với tất cả các lĩnh
vực, đặc biệt là lĩnh vực quản lý văn hóa, cần có sự thay đổi, bổ sung, điều chỉnh

đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức. Hòa với tình hình chung của toàn thế giới,
hiện nay một số nước phát triển xem lĩnh vực văn hóa là một ngành kinh tế văn
hóa và sáng tạo.Thật vậy, văn hóa vừa là nền tảng tinh thần vừa là mục tiêu, là
động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, và bản thân văn hóa là một ngành công
nghiệp góp phần cho phát triển kinh tế của đất nước. Và lĩnh vực tiêu dùng văn hóa
là vấn đề quan trọng trong nghiên cứu kinh tế văn hóa và ứng dụng vào hoạt động
quản lý văn hóa, đem lại hiệu quả cho xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam, trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Với thực trạng tiêu dùng văn hóa trên địa bàn xã Bắc Phong chưa được khai
thác đồng bộ, nên thị trường văn hóa trên địa bàn phát triển theo xu hướng tự cấp,
tự túc, tiêu dùng văn hóa dịch vụ, phân vùng thị trường… Những sản phầm văn
hóa của nhà Quản lý văn hóa chỉ mang tính tuyên truyền là chính, nên chưa cung
ứng cũng như thỏa mãn nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, sản phẩm văn hóa


đơn điệu chỉ nhằm phục vụ, chưa tạo được những sản phẩm đạt hiệu quả kinh tế.
Từ những lý do nêu trên, bản thân chọn đề tài “ Thực trạng tiêu dùng văn hóa trên
địa bàn xã Bắc Phong” để làm tiểu luận hết môn, môn “Kinh tế học văn hóa” khóa
học 2013-2018 chuyên ngành Quản lý văn hóa. Do đề tài “Tiêu dùng văn hóa” là
một lĩnh vực hoàn toàn mới, tài liệu tham khảo còn hạn chế và bản thân chưa có
nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực này, nên việc thực hiện tiểu luận chắc chắn sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được quí thầy cô giúp đỡ, chỉ dẫn và
góp ý thêm.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Đề tài phân tích thực trạng tiêu dùng văn hóa trên địa bàn xã Bắc Phong,
huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014- 2016. Những kết quả đạt được,
những mặt hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Trên cơ Sở đó, đề xuất
một số giải pháp phù hợp với thực tiễn nhằm tăng cường hiệu quả hơn về việc tiêu
dùng văn hóa.
4. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng: “Những hộ gia đình tiêu dùng văn hóa trên địa bàn xã Bắc
Phong- huyện Thuận Bắc- tỉnh Ninh Thuận”(thực trạng tiêu dùng văn hóa rất
phong phú, bản thân chỉ nghiên cứu tiêu dùng văn hóa phân vùng dân cư trên địa
bàn xã Bắc Phong).
5. Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: tại xã Bắc Phong- huyện Thuận Bắc- tỉnh Ninh Thuận.
Về thời gian: từ năm 2014- 2016.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phương pháp khảo sát điền dã thực tế
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, đánh giá.
7. Ý nghĩa của đề tài:
Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa nhằm nắm bắt thực trạng tiêu dùng văn
hóa của người dân trên địa bàn xã Bắc Phong trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội. Bên cạnh đó, đề xuất một số một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong


hoạt động cung ứng dịch vụ văn hóa trên địa bàn xã. Đồng thời có những kiến nghị
với Cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể để xây dựng thị trường văn
hóa, góp phần phát triển kinh tế- xã hội địa phương hiện nay.
8. Cấu trúc tiểu luận:
Ngoài phần đặt vấn đề và kết thúc vấn đề, phần phụ lục, tài liệu tham khảo,
phần giải quyết vấn đề tiểu luận được chia làm 4 chương:
Chương 1: Tiêu dùng văn hóa.
Chương 2: Tổng quan về đơn vị hành chính xã Bắc Phong huyện Thuận
Bắc.
Chương 3: Thực trang tiêu dùng văn hóa ở xã Bắc Phong huyện Thuận bắc
tỉnh Ninh Thuận.
Chương 4: Nhứng kiến nghị về đáp ứng nhu cầu tiêu dùng văn hóa và quản
lý kinh tế văn hóa tại xã Bắc Phong huyện Thuận Bắc.



PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG 1: TIÊU DÙNG VĂN HÓA
1. Khái niệm tiêu dùng văn hóa:
Tiêu dùng văn hóa là sự thưởng thức các sản phẩm văn hoá và các hoạt động
dịch vụ văn hóa mà con người được thoả mãn, đáp ứng.
Tiêu dùng văn hóa còn là sự sở hữu, hưởng thụ, thưởng thức sử dụng sản
phẩm văn hoá tinh thần và dịch vụ văn hóa tinh thần. Trong quá trình tiêu dùng
văn hóa người tiêu dùng đã tham gia vào quá trình kế thừa, tích lũy, sáng tạo và
làm phong phú thêm cho văn hóa tinh thần,
2. Lịch sử phát triển của tiêu dùng văn hóa:
2.1. Lịch sử ra đời:
Lịch sử của tiêu thụ văn hóa có thể được xem là bắt đầu vào cuối những năm
1950 và đầu những năm 1960 ở phương Tây. Trong thời gian này, châu Âu và Mỹ
bắt đầu xuất hiện hiện tượng đại chúng người lao động đủ giàu có, có năng lực tiến
hành tiêu dùng và không chỉ quan tâm đến “nhu cầu”mà còn là những niềm“ước
vọng” - TV, tủ lạnh, xe hơi, máy hút bụi, kỳ nghỉ ở nước ngoài, đã dần trở thành
những mặt hàng tiêu dùng thông thường. Ngoài ra, người lao động đại chúng trong
giai đoạn này bắt đầu sử dụng mô hình tiêu dùng văn hóa trong sự biểu hiện kết
nối với bản sắc văn hoá của họ. Chính trong thời gian này, khái niệm "tiêu dùng
văn hóa" bắt đầu trở thành một vấn đề mới đặt ra cho hoạt động nghiên cứu và thảo
luận về văn hóa.
2.2. Sự phát triển của tiêu dùng văn hoá:
Công nghiệp phát triển, tập trung vào sự phát triển thị trường. Thị trường
phát triển tập trung vào sự phát triển theo nhu cầu trên thị trường. Nhu cầu sản
phẩm văn hóa trong thời đại tiêu dùng có mức độ rất lớn là nhu cầu mang tính biểu
tượng, tín hiệu, nhu cầu sản phẩm thương hiệu. Thế kỷ 21 là thế kỷ của những
thương hiệu nổi tiếng. Hầu hết các sản phẩm được đánh dấu bằng những nét cá
tính riêng biệt và giá trị của thương hiệu, giá trị vật chất và giá trị tinh thần cùng

phổ biến đã trở thành sự phổ biến tiêu dùng, phổ biến nét sinh hoạt mới. Đó chính
là hiện tượng văn hoá trong tiêu dùng. Nhân loại có nhiều xã hội, bao gồm cả xã


hội Việt Nam, lấy thái độ tiêu dùng lại xem xét, đa số có thể phân thành 3 giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Từ các khoản tiết kiệm nghiêm ngặt để bắt đầu thời kỳ tiêu
dùng.
Thời kỳ đầu, con người thiếu thốn vật chất, nhiều nền kinh tế xã hội đã sớm
khuyến khích sự chặt chẽ trong tiêu dùng như một nét phẩm chất đẹp. Coi như vì
sự sinh tồn người tiêu dùng phải tiêu dùng, nhưng không khuyến khích vì niềm
vui, niềm hạnh phúc mà tiêu dùng. Một số môi trường xã hội vẫn còn bị ảnh hưởng
bởi một số học thuyết tôn giáo mà đã có những biểu hiện loại trừ những yếu tố giải
trí trong hoạt tiêu dùng. Thậm chí còn coi tính giải trí trong tiêu dùng như một biểu
hiện vi phạm đạo đức. Ví dụ, MaxWeber đã mô tả thì đạo Tin lành trong giai đoạn
này còn phản đối cả sự ham muốn vật chất. cho đến những nămđầu của thế kỷ XX,
xã hội Mỹ và Tây Âu bắt đầu bước vào thời kỳ đại công nghiệp, với mức thu nhập
mọi người có thể sống thoải mái hơn, nhận thức về tiêu dùng cũng bắt đầu có sự
thay đổi. Từ những sự thay đổi đó mà thời kỳ tiêu dùng đại chúng đã bắt đầu.
Giai đoạn 2: Từ sự tiêu dùng đơn điệu (tiêu dùng vật chất thông thường)
đến việc tiêu dùng niềm vui.
Thời kỳ đầu, đa số tiêu dùng đều chưa thóat khỏi sự đơn điệu. Sự đơn điệu
trong tiêu dùng chính là việc người tiêu dùng chỉ quan tâm đến tính hữu dụng của
một sản phẩm nào đó, dạng thức sản phẩm có tính đơn nhất, trong tiêu dùng sản
phẩm. Sau này, kinh tế phát triển lên một bước nữa, xã hội không còn chỉ quan tâm
ở những sản phẩm gia dụng mà còn ngày càng kỳ vọng đạt được những sự thoả
mãn về nhu cầu tinh thần trong tiêu dùng sản phẩm. Chính vì vậy, thế giới sản
phẩm sau này có tính tình cảm, nhân tính, cảm xúc hơn.
Giai đoạn 3: Từ những niềm vui trong tiêu dùng đến tiêu dùng văn hóa.
Nếu chỉ nhìn vào “nhân tính”, “niềm vui” trong sản phẩm thì vẫn chưa đủ để

giải thích về sự gia tăng về góc độ văn hoá trong chỉnh thể kinh tế. Vai trò quan
trọng của văn hoá trong đời sống con người không chỉ là nhu cầu thể hiện trong cái
vốn có của sản phẩm công nghiệp, gia tăng công năng niềm vui mà quan trọng hơn
nữa là việc theo đuổi sự hoàn thiện cá nhân thông qua hoạt động tiêu dùng. Con


người có rất nhiều thứ, và con người không chỉ có và vừa ý với những thứmàmình
cómà con người còn muốn thông qua thế giới vật chất để thể hiện “phong cách
sống” của chính mình. Và phía sau của “phong cách sống” ấy càng bộc lộ rõ ra
tính quan trọng của “giá trị”. Nói một cách đơn giản, con người trong xã hội đương
đại đang không ngừng tự do gia tăng vận dụng, sử dụng thời gian một cách hiệu
quả, nên việc tiêu dùng không chỉ là việc tiêu dùng vật chất. Con người tham dự
vào rất nhiều hoạt động. Trong quá trình tham dự ấy, con người “tiêu dùng vật
chất” và “tiêu dùng tinh thần” và đồng thời cũng đã thực hiện “tiêu dùng vật chất”.
Trong quá trình tham dự này, bản sắc văn hoá, giá trị văn hoá là nguyên nhân
chính thúc đẩy mọi người thamdự. Trong quá trình này, con người đều thường có
tính thụ động, thụ động vận động. Nhưng đúng hơn có thể nói là “tư duy văn hoá”,
“chọn lựa giá trị” tương đương với những mong muốn được thể hiện cá nhân của
mỗi người. Đến lúc này, chúng ta mới có thể công bố rằng: Thời đại công nghiệp
văn hoá đã đến, thời đại tiêu dùng văn hoá bắt đầu.
3. Đặc điểm của tiêu dùng văn hóa:
3.1. Tính tinh thần trong nội dung tiêu dùng văn hoá:
Tiêu dùng là quá trình con người dùng, thưởng thức, tiêu thụ một loại dịch
vụ hay sản phẩm vật chất nào đó nhằm thoả mãn nhu cầu, thông thường, cá thể tiêu
dùng đều có tính hữu hình. Tiêu dùng văn hoá là chỉ hoạt động tiêu dùng dịch vụ
và sản phẩm văn hoá. Sản phẩm văn hoá là chỉ sản phẩm có sự gia cố thêm giá trị
văn hoá trong sản phẩm. Tiêu dùng văn hoá mặc dù là tiêu dùng tinh thần nhưng
đều phải thông qua hình thức vật chất mang ý nghĩa chứa đựng, lưu giữ, chuyển tải
như Báo chí, Internet, Truyền hình…nhưng nội dung tiêu dùng thì đều là vô hình.
Thông qua những phương tiện có tính vật chất này, con người đạt được mục đích

về nội dung mang tính tinh thần.
3.2. Tính tầng bậc trong năng lực tiêu dùng văn hoá:
Tính tầng bậc trong năng lực tiêu dùng là chỉ tính không đồng nhất trong
năng lực, trình độ của các cá thể người tiêu dùng.Năng lực tiêu dùng vật chất và
năng lực tiêu dùng văn hoá đều thuộc về năng lực tiêu dùng nhưng hai loại năng
lực này có những điểm khác biệt với nhau.


-Năng lực tiêu dùng vật chất: Khai thác và sử dụng công năng…
-Năng lực tiêu dùng văn hoá: Hiểu, Cảm nhận,Giải thích, phân tích…
3.3. Tính gia hạn trong thời gian tiêu dùng văn hoá:
Trong hoạt động tiêu dùng, việc xác định hiệu xuất tiêu dùng của tiêu dùng
vật chất và tiêu dùng văn hoá hoàn toàn không giống nhau. Đối với tiêu dùng vật
chất, thời gian tiêu dùng ngày càng ít đi còn hiệu xuất tiêu dùng ngày càng cao.
Đối với tiêu dùng văn hoá có tính ngược lại, thời gian tiêu dùng càng dài thì hiệu
xuất tiêu dùng càng cao, gia hạn thời gian tiêu dùng thì có thể nâng cao hiệu xuất
tiêu dùng văn hoá.
3.4. Tính xúc tiến văn minh xã hội của tiêu dùng văn hoá:
Tiêu dùng văn hoá thể hiện mức độ kiến thiết của văn minh tinh thần xã hội,
là tiêu chí xem xét hiện trạng phát triển xã hội và sự tiến bộ phát triển xã hội của
nhân loại.
Thông qua truyền thông, giá trị sản phẩm được nâng cao; thông qua ý nghĩa,
hình tượng thẩm mỹ tiếp thống văn hoá được nối truyền và phát huy những giá trị
trong di sản văn hoá.
3.5. Tính thẩm thấu trong tiêu dùng văn hoá:
Tiêu dùng vật chất thuộc về quá trình tiêu dùng “hữu hình”, tiêu dùng văn
hoá thuộc về quá trình tiêu dùng “vô hình”, vai trò của hai loại tiêu dùng này hoàn
toàn không giống nhau. Tiêu dùng vật chất làm thoả mãn con người về nhu cầu
sinh lý, tiêu dùng văn hoá làm thoả con người về nhu cầu tinh thần, nâng cao vai
trò tinh thần của con người, có thể có những khuôn mẫu về niềm tin, tình cảm, linh

hồn của con người trong xã hội.
4. Vai trò của tiêu dùng văn hóa:
Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ là một vòng liên kết thúc đẩy sự tái
sản xuất hàng hoá văn hoá.
Thực hiện nhiệm vụ cung và cầu, nhiệm vụ giá trị văn hoá xã hội
Sản phẩm văn hoá trong quá trình sáng tạo, tạo ra năng lực sáng tạo văn hoá
và năng lực thưởng thức nghệ thuật của người tiêu dùng văn hoá.


Tiêu dùng văn hoá thúc đẩy hoạt động tái sản xuất của con người
5. Cơ cấu của tiêu dùng văn hóa:
5.1.Khái niệm:
Cơ cấu tiêu dùng văn hoá là chỉ mối quan hệ về tỷ lệ của các loại hình dịch
vụ văn hoá và sản phẩm văn hoá khác nhau mà con người sử dụng và thưởng thức
trong hoạt động tiêu dùng văn hoá.
5.2. Phân loại cơ cấu tiêu dùng văn hoá:
Căn cứ vào hình thái biểu hiện của sản phẩm văn hoá: Tiêu dùng sản phẩm
văn hoá và tiêu dùng dịch vụ văn hoá.
Căn cứ vào thuộc tính kinh tế của sản phẩm văn hoá: Tiêu dùng văn hoá tính
sản phẩmvà tiêu dùng văn hoá tính phi sản phẩm.
Căn cứ tính chất tiêu dùng văn hoá: Dạng tiêu dùng văn hoá giáo dục và
dạng tiêu dùng văn hoá giải trí…
6. Các xu hướng của tiêu dùng văn hóa:
6.1.Bối cảnh:
a. Công nghệ số phát triển:
Các phương tiện truyền thông đã bị ảnh hưởng bởi sự phát triển và thay đổi
công nghệ. Vấn đề số hóa đã khiến ranh giới giữa các thị trường sản phẩm truyền
thông truyền thống ngày càng trở nên mờ nhạt. Việc ứng dụng rộng rãi các phương
tiện công nghệ kỹ thuật số đã ảnh hưởng đến phương thức sản xuất, truyền tải và
tiêu dùng văn hoá:

Có sự hỗ trợ của số hoá, nội dung truyền thông đã thông qua hệ thống mạng
mà được chuyển tải. Hệ thống mạng là nền tảng cho hoạt động chuyển tải nội dung
truyền thông và sự gia tăng của rất nhiều loại hình phục vụ mạng, cơ cấu truyền
thông truyền thống đã có sự gia tăng của dịch vụ mạng.
Với công nghệ kỹ thuật sốmà các tài nguyên, chất liệu như: hình ảnh, âm
thanh và văn bản có thể được nén thành những định dạng tương tự và được truyền
thông qua các thiết bị truyền dẫn, nó đã thúc đẩy các loại phương tiện truyền thông
khác nhau, tách rời nhau cùng tương tác, nhận được nhau.


Nội dung khi được nén vào các phương tiện lưu trữ kỹ thuật số thuận tiện rất
nhiều so với cách lưu trữ truyền thống chính vì vậy mà việc bảo lưu, quản lý, cách
thức sản phẩm và biên tập, chỉnh sửa sản phẩm cũng rất dễ dàng. Việc số hoá sẽ
làm giảm chi phí cho khâu sản xuất. Chi phí sản xuất thấp hơn sẽ làm cho các
chương trình sản xuất có hiệu quả hơn về mặt kinh tế.
Sự phát triển của số hóa và Internet sẽ giảm bớt các rào cản tiếp cận thị
trường, tạo cơ hội cho công nghệ sản xuất mới (chẳng hạn như chơi game online)
và cơ hội sáng tạo cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
b. Đa dạng hoá văn hoá và toàn cầu hoá tiêu dùng văn hoá:
Toàn cầu hóa kinh tế và tăng cường giao lưu văn hóa: Ngày 16 tháng 11
năm 1972, tại kỳ họp thứ 17 của tổ chức UNESCO đã đưa ra vấn đề bảo vệ các giá
trị văn hóa đa dạng của thế giới, thông qua Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới. Nội dung công ước có viết: "sự phá hủy hoặc biến mất của bất
kỳ nền văn hóa quốc gia nào sẽ dẫn đến sự thiếu hụt về di sản của các dân tộc,
quốc gia trên thế giới, văn hoá truyền thống dân tộc truyền lại cho các thế hệ tương
lai, là nguồn lực cho sự phát triển hài hòa và phong phú về văn hóa cho hiện tại và
tương lai".
c. Ngoại lệ văn hóa:
Phải đối mặt với sự phát triển mạnh mẽ của “kinh đô” điện ảnh Hollywood
trên thị trường quốc tế, nhiều quốc gia và Liên minh châu Âu đã bày tỏ thái độ

phản ứng. Họ trợ cấp cho ngành công nghiệp điện ảnh trong nước. Có quốc gia còn
thực hiện hạn chế phát sóng các chương trình truyền hình. Trong năm 1993, Chính
Phủ Hoa Kỳ bắt đầu hản kích trở lại và yêu cầu việc bãi bỏ những việc được coi là
vấn đề vi phạm cạnh tranh tự do.
6.2. Các xu hướng tiêu dùng văn hoá:
Đa dạng hoá văn hoá và toàn cầu hoá tiêu dùng văn hoá cùng tồn tại
Đại chúng hoá đến phân hoá: Phân khúc thị trường, định vị chính xác
Tính tương tác: Tác động của việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật số và
Internet.


CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH XÃ BẮC PHONG, HUYỆN
THUẬN BẮC
1. Điều kiện tự nhiên:
1.1. Diện tích:
Diện tích tự nhiên: 2.233,88 ha trong đó đất nông nghiệp: 1.186,95 ha (đất
trồng lúa 581,57 ha; trồng cây hàng năm 1.137,28 ha; trồng cây lâu năm 45,33 ha);
đất phi nông nghiệp 501,21 ha; đất chưa sử dụng 545,72 ha.
1.2. Vị trí địa lý: Xã Bắc Phong nằm cách trung tâm huyện Thuận Bắc khoảng
3km về hướng nam với vị trí :
Phía Đông giáp ranh giới xã Bắc Sơn và xã Xuân Hải.
Phía Tây giáp ranh giới xã Xuân Hải huyện Ninh Hải.
Phía Nam giáp ranh với xã Tân Hải (mới) huyện Ninh Hải.
Phía Bắc giáp ranh giới xã Lợi Hải huyện Thuận Bắc.
Trải dài hai bên Quốc lộ 1A. Xã có 03 thôn: Mỹ Nhơn, Gò Sạn và Ba Tháp, gồm
có:
+ Tổng diện tích tự nhiên: 2.233,88 ha
Đất nông nghiệp: 1.186,95 ha
Đất trồng lúa: 581,57 ha

Đất trồng cây hàng năm: 544,18 ha
Đất nuôi trồng Thuỷ sản : 2,94 ha
Còn lại là đất thổ cư, giao thông, thuỷ lợi và đất chưa sử dụng.
1.3. Địa hình: Xã Bắc Phong là một xã thuộc vùng đồng bằng, địa bàn dân cư
sống trải là chủ yếu.
1.4. Thời tiết khí hậu: nắng hạn lưu lượng mưa ít,mưa thường vào tháng 8 đến
tháng 12, vào tháng 11 đến tháng 2 hàng năm phải chịu gió mùa đông bắc.


1.5. Thủy Văn: Trên địa bàn xã có kênh bắc và đập dự trữ nước sông Trâu.
1.6. Tài nguyên thiên nhiên:
a.Tài nguyên nước:
Nguồn nước mặt trên địa bàn xã do kênh Bắc, đập dự trữ nước sông Trâu và
các suối nhỏ cung cấp.
Nguồn nước ngầm: khai thác bằng đào và khoan giếng.
b. Tài nguyên đất : đất phù xa màu mỡ do kênh Bắc bồi lắng, có khoảng 295,6 ha
đất rừng chưa được canh tác.
1.7. Giao Thông : Bắc Phong có hệ thống giao thông gồm: chủ yếu là quốc lộ 1A
chạy qua ngoài ra còn có các hệ thống đường giao thông liên thôn và liên xã thuận
lợi cho xã Bắc Phong phát triển kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp, thương mại dịch
vụ...
2. Đặc điểm xã hội.
2.1. Lịch sử hình thành:
Trước ngày 01/10/2005 thì xã Bắc Phong cò tên là xã Tân Hải và kể từ
ngày 01/10/2005 thì xã Bắc Phong được tách ra từ xã Tân Hải dựa trên:
Căn cứ luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 84/2005/NĐ- CP ngày 07/7/2005 của Chính phủ về
việc thành lập huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận;
Căn cứ Nghị quyết số 35/NQ-TU ngày 20/7/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Ninh Thuận về lãnh đạo thực hiện Nghị định số 84/2005/ NĐ-CP của Chính phủ;

Căn cứ Quyết định số 329/2005/QĐ- UBND ngày 16/9/2005của uỷ ban
nhân dân tỉnh Ninh Thuận về việc lấy ngày 01/10/2005 cho huyện Thuận Bắc, xã
Thanh Hải thuộc huyện Ninh Hải, các xã Bắc Sơn và Bắc Phong thuộc huyện
Thuận Bắc đi vào hoạt động theo nghị định số 84/2005/ NĐ-CP của Chính phủ;
Căn cứ Quyết định số 1073/2005 QĐ-UB ngày 07/9/2005 của UBND huyện
Ninh Hải về việc thành lập xã Bắc Phong huyện Thuận Bắc được chia tách từ xã
Tân Hải huyện Ninh Hải.
Ngày 28 tháng 9 năm 2005 đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng, toàn thể


cán bộ, đảng viên và nhân dân xã hân hoan chào mừng ngày công bố quyết định
thành lập xã Bắc Phong và chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 01 tháng 10
năm 2005.
2.2. Dân số và cơ cấu:
a. Dân số:
Dân số: Toàn xã năm 2016 là 1.575 hộ với 6.049 nhân khẩu. Mật độ dân số
80 người/km2. Xã có 03 thôn: Mỹ Nhơn, Gò Sạn và Ba Tháp.
Phân bố dân cư: dân cư phân bố tại 3thôn: thôn Mỹ Nhơn, Thôn Gò Sạn, thôn
Ba Tháp, phân bố dân cư dọc theo Quốc lộ 1A và gắn liền với khu vực sản xuất
nông nghiệp.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1%.
b. Lao động: Số lao động trong độ tuổi của toàn xã năm 2016 là 4537 người,
chiếm 65,5% dân số, trong đó:
Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế có 758 người, chiếm 8,2 %
lao động trong độ tuổi.
+ Lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp là 3.210 người chiếm 85,1 %
lao động trong độ tuổi.
+ Lao động làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp là 569 người chiếm 6,7
% lao động trong độ tuổi.
+ Số người chưa đến tuổi lao động và ngoài độ tuổi lao động là 1512 người

chiếm 34,5%.
So với tiêu chí nông thôn mới sửa đổi, tỷ lệ người làm việc trên dân số trong
độ tuổi lao động” đạt ≥ 90%
Thời gian sử dụng lao động khu vực nông thôn ở xã Bắc Phong: do sản xuất
nông nghiệp chủ yếu là cây lúa và chăn nuôi nên lao động nông nhàn ở Bắc Phong
rất cao. Thời gian sử dụng lao động khu vực nông thôn đạt <90%.
2.3. Hộ nghèo:
Tỷ lệ hộ nghèo: Số hộ nghèo trên địa bàn xã năm 2016 là 150 hộ/816 khẩu
chiếm 7,4%.
2.4. Thành phần dân tộc:
Trên địa bàn xã Bắc Phong chủ yếu dân tộc Kinh.


2.5. Những nét văn hóa đặt trưng:
Di sản văn hóa vật thể: khu di tích Ba Tháp, đình làng thôn mỹ Nhơn, chùa
Đức Sơn.
Di sản văn hóa phi vật thể: lễ cúng đình làng Mỹ Nhơn.
2.6. Đặc điểm kinh tế:
Cơ cấu kinh tế của xã hiện nay chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (trồng lúalà
chính, hoa màu phụ thêm), chăn nuôi gia súc, gia cầm như : (dê, bò, cừu, lơn, gà ,
vịt…), góp phần nâng cao đời sống kinh tế cho người dân. Toàn xã hiện có khoảng
250 hộ kinh doanh thương mại - dịch vụ với quy mô vừa và nhỏ. Mạng lưới
thương nghiệp phần nào đáp ứng nhu cầu về các mặt hàng thiết yếu trong sinh hoạt
của người dân địa phương. Dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp có bước phát
triển đáng kể như: Dịch vụ làm đất, vận chuyển nông sản… Toàn xã có 35 phương
tiện sản xuất gồm máy cày, máy gặt đập liên hợp, xe bán tải, xe cải tiến ngoài ra
còn có xe kéo do trâu, bò kéo hoạt động cho các dịch vụ nông nghiệp, giải quyết
kịp thời cho nông dân khi đến mùa vụ.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đều tăng, tăng trưởng bình quân từ 1520%/năm. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt khoảng
20.000.000đ/người/năm.


Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đến năm 2015 bằng nhiều nguồn vốn đã đầu tư
xây dựng trên địa bàn xã có tổng mức đầu tư khoảng trên 30 tỷ đồng. Tập trung
vào các công trình trọng điểm như: Hệ thống giao thông nông thôn, trường học,
trạm y tế, hệ thống nước sinh hoạt nông thôn, hệ thống thuỷ lợi, nhà cộng đồng,
điện phục vụ sản suất.
2.7. Tổ chức hành chính: Xã gồm có 3 thôn là thôn Mỹ Nhơn, Thôn Gò Sạn, thôn
Ba Tháp, Trung tâm hành chính của xã được đặt tại thôn Gò Sạn. Uỷ ban nhân dân


xã Bắc Phong là cơ quan quản lý hành chính nhà nước chịu sự quản lý của Uỷ ban
nhân dân huyện Thuận Bắc và Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận .
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG TIÊU DÙNG VĂN HÓA
Ở XÃ BẮC PHONG, HUYỆN THUẬN BẮC TỈNH NINH THUẬN
1. Hiện trạng tiêu dùng văn hóa và khả năng cung cấp:
Thực trạng về hoạt động văn hóa, cũng như tiêu dùng văn hóa và khả năng
cung cấp dịch vụ văn hóa trên địa bàn huyện Thuận Bắc, hiện nay đang từng bước
phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, sự hướng dẫn
hỗ trợ về chuyên môn nghiệp vụ của Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Thông
tin và Truyền thông, ngành văn hóa huyện Thuận Bắc đã thực hiện tốt các hoạt
động văn hóa trên địa bàn huyện. Tổng số phí tiêu dùng văn hóa trên địa bàn huyện
khoảng 1.7 tỷ VNĐ/năm, trong đó ngân sách huyện cấp cho các hoạt động văn hóa
là 0,5 tỷ VNĐ/năm, người dân khoảng 1.2 tỷ VNĐ/năm.
Được sự quan tâm cuả các cấp chính quyền, đời sống của người dân dần ổn
định và phát triển, vì thế nhu cầu giải trí của người dân ngày càng nhiều và mức
hưởng thụ văn hóa của người dân ngày càng cao, các sàn phẩm văn hóa phải đa
dạng và phong phú, dịch vụ phải có chất lượng... Tổng số nhân khẩu tham gia vào
tiêu dùng văn hóa ước khoảng 93%, tương đương 5.550 người.
Để đáp ứng nhu cầu thỏa mãn về tinh thần cũng như việc hưởng thụ các sản

phẩm văn hóa, ngành văn hóa Xã Bắc Phong đang từng bước xây dựng và phát
triển các loại hình dịch vụ sao cho phù hợp, vừa đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ
của người dân, vừa đảm bảo được bản sắc dân tộc trong thời lỳ hội nhập. Cụ thể
qua cơ cấu tiêu dùng văn hoá, các loại sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa trên
địa bàn xã như sau:
a. Thương phẩm văn hóa hình thái vật hóa:
Toàn xã có 4 tụ điểm kinh doanh karaoke, 5 hộ kinh doanh dịch vụ Internet,
10 hộ kinh doanh cà phê, hiện nay đang phát triển thêm dịch vụ cho thuê Karaoke
di đông có 6 hộ kinh doanh loại dịch vụ này. Về dịch vụ văn hóa đọc trên địa bàn
huyện có 3 Thư Viện và 3 phòng đọc cơ sở, với tổng số sách thư viện hiện có


8.541 bản, ngoài ra có các hộ kinh doanh mặt hàng chủ yếu là sách giáo dục; số
điểm đại lý bưu điện là 1; phát triển hệ thống văn hóa cơ sở đến nay toàn huyện có
3 nhà văn hóa/3 thôn trang thiết bị âm thanh, được trang bị đủ để phục vụ cho các
hoạt động VH-VN-TT. Hệ thống truyền thanh 3/3 thôn đã phủ đều các tuyến
đường trong thôn riêng Đài truyền thanh đạt tại trung tâm hành chính xã.
b. Thương phẩm văn hóa hình thái hành vi:
Trong năm, các chương trình biểu diễn nghệ thuật mang tính tuyên truyền
được tổ chức và thực hiện như: Tổ chức văn nghệ mừng Đảng – mừng xuân; giải
bóng chuyền nam mừng đảng mừng xuân, giải bóng chuyền nữ ngày 8/3 hàng
năm, các cuộc thi tìm hiểu về cây nông nghiệp, an toàn giao thông, hội thi nhà
nông đua tài... Ngoài ra còn có câu lạc bộ như: CLB. Người cao tuổi,
c. Hướng công nghiệp cung cấp văn hóa kèm gia tăng giá trị:
Các sản phẩm về công nghiệp văn hóa trên địa bàn xã chủ yếu là văn nghệ
thể thao trên địa xã có 3 sân bóng chuyền và 1 sân đá bóng.
Tổng số trạm phát sóng di động trên địa bàn xã có 3 trạm; viettel và
VietNamMobil đặt tại thôn Mỹ Nhơn,Vinaphone đặt tại thôn Ba Tháp.
Số lượng cơ sở lắp ráp điện tử - tin học: 4 cơ sở.
2. Thị trường tiêu dùng:

Hiện nay xã Bắc Phong đã sử dụng đường truyền internet ADSL để gửi nhận
văn bản trên hệ thống thư điện tử đạt 92% .
Toàn xã thôn nào củng có điểm truy cập internet: tiêu chí này hiện chỉ đạt
95% chia đều ở 3 thôn nhưng tập trung nhiều nhất là ở thôn Gò Sạn.
Có 62% hộ dân sử dụng internet, (tương đương 974 hộ/1575 hộ sử dụng)
dựa vào hộ có học sinh phổ thông biết sử dụng internet.
Lượt bạn đọc đến Thư Viện 8.755lượt, trong đó thiếu nhi 6.715lượt,
số sách phục vụ bạn đọc tại Thư Viên là 15.954 lượt bản. Các phòng đọc ở cơ sở
phục vụ bình quân khoảng 2.189 lượt/năm cho một cơ sở.
Các chương trình biểu diễn văn nghệ thể thao, hội thi phục vụ cho nhân dân
trên toàn xã xem với khoảng 2.705 lượt xem.


Về thể thao, 75% thôn có điểm hoạt động văn hoá thể thao.
3. Phân khúc thị trường tiêu dùng:
Theo thực trạng thị trường văn hóa trên địa bàn xã Bắc Phong, chúng ta
phân khúc thị trường theo thương phẩm văn hóa nói chung như sau:
a. Thị trường biểu diễn nghệ thuật quần chúng: Có những loại hình như ca nhạc
hội chợ; hoạt động văn nghệ thể thao vào các ngày lễ, tết...Loại thương phẩm văn
hóa này gần gũi với dân chúng và không giới hạn nên được nhiều đối tượng tiêu
thụ trên thị trường nhưng gần đây đang có dấu hiệu giảm dần chỉ còn 60%.
b. Thị trường nghe nhìn: Bao gồm những thị trường như cho thuê băng, đĩa; tivi;
nhạc sống, karaoke di động, loại thương phẩm văn hóa này đang nổi lên gần đây
nhưng còn giới hạn bởi cấp độ tiêu thụ không đồng điều về không gian, độ tuổi và
sở thích nên hiệu quả bình quân đạt khoảng 75%.
c. Thị trường sách: Thư Viện; điểm cho thuê sách; … Thị trường này rất phong
phú và đa dạng, có nhiều môn loại như: Sách giáo khoa, sách giáo dục, sách khoa
học, truyện ký, tiểu thuyết, văn học…Loại thị trường này phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố ( phân vùng, độ tuổi, trình độ, sở thích), đối với thương phẩm văn hóa đọc
cho thấy thị trường phát triển theo môn loại nhất định và hiệu quả đạt khoản

30,5%.
d. Thị trường vật phẩm văn hóa: Có các cơ sở cung cấp các thiết bị công nghệ
như: máy quay phim, máy chụp hình….Thị trường này thường phát triển theo sở
thích và kinh tế nên mức hiệu quả trên địa bàn đạt khoảng 19%.
e. Thị trường mỹ thuật: Gồm có điêu khắc và chạm trổ, thị trường này dành cho
giới thượng lưu, người đam mê mỹ thuật nên hạn chế đối tượng tiêu thụ, hiệu quả
đạt khoảng 0,6%
f. Thị trường văn hóa giải trí: Gồm có cơ sở kinh doanh Internet, quán karaoke;
Café chiếu phim; tụ điểm hát với nhau; sân chơi thể thao... Thị trường này thu hút
nhiều đối tượng, không phân vùng, gần gũi với người dân nên phát huy hiệu quả
tối đa 85%.
4. Đầu tư văn hóa:


Theo thực trạng hoạt động văn hóa trên địa bàn xã Bắc Phong, mức độ đầu
tư văn hóa ở một số hạng mục cho lĩnh vực đầu tư phi sản xuất và đầu tư sản xuất
như sau:
4.1. Đầu tư phi sản xuất:
Đầu tư cho các họat động văn hóa nghệ thuật như: đầu tư cho Trung tâm văn
hóa hoạt động các chương trình hội thi, ca nhạc, thông tin cổ động…; đầu tư
Đầu tư khôi phục các di sản văn hóa truyền thống như: cấp kinh phí tổ chức
các ngày lễ ở xã cũng như việc gìn giữ các phong tục tập quán truyền thống ở các
vùng dân tộc thiểu số.
4.2. Đầu tư sản xuất:
Đầu tư cho các mô hình thể dục thể thao như: các sân bóng chuyền, sân đá
bóng.
Đầu tư cho du lịch như: xây dựng, tu bổ các công trình khu vui chơi giải trí,
như khu di tích Ba Tháp…

CHƯƠNG 4

NHỮNG KIẾN NGHỊ VỀ ĐÁP ỨNG NHU CẦU
TIÊU DÙNG VĂN HÓA VÀ QUẢN LÝ KINH TẾ VĂN HÓA
TẠI XÃ BẮC PHONG, HUYỆN THUẬN BẮC, TỈNH NINH THUẬN
1. Chiến lược phát triển văn hóa: (Phân tích SWOT)
Dựa trên thực trạng hoạt động về lĩnh vực văn hóa trên địa bàn xã Bắc
Phong, bản thân có nhận định về chiến lược phát triển văn hóa thông qua điểm
mạnh, điểm yếu của môi trường bên trong, cũng như cơ hội và thách thức của môi
trường bên ngoài như sau:
1.1. Điểm mạnh:
a. Về tổ chức:


Lĩnh vực văn hóa ở xã Bắc Phong đã và đang được Đảng và nhà nước quan
tâm xây dựng và tổ chức, có quy chế, chế độ, chính sách…giúp điều kiện phát
triển. Có thể nói: “Nhà văn hóa – ngành văn hóa –Thông tin tổng hợp đa chức năng
được xã hội thiết lập, tổ chức, đáp ứng nhu cầu giao lưu văn hóa, tiếp nhận thông
tin, nâng cao hiểu biết, thụ hưởng sáng tạo giá trị văn hóa – nghệ thuật, nghĩ ngơi
giải trí lành mạnh…cho mọi tầng lớp nhân dân nhằm mục tiêu giáo dục phát triển
con người toàn diện”.
Trung tâm văn hóa - thông tin, nhà văn hóa thực hiện chức năng cơ bản của
văn hóa: Chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ. Từ những
đặc điểm riêng về tổ chức thiết chế, xác lập hai chức năng xã hội đặc thù và
chuyên biệt:
Hướng dẫn kỹ năng nghiệp vụ thông tin – cổ động, văn hóa –văn nghệ giữa
quần chúng, góp phần quan trọng, thiết thực nâng cao chất lượng nghiệp vụ trong
công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Tổ chức hoạt động văn hóa - thông tin đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông tin,
giao lưu hưởng thụ, sáng tạo văn hóa - văn nghệ và nghĩ ngơi giải trí lành mạnh
trong thời gian rỗi của chúng ta.


b. Về sản phẩm:
Lĩnh vực văn hóa là một hoạt động đa năng, đáp ứng nhu cầu giao lưu,
hưởng thụ và sáng tạo văn hóa ở mọi tầng lớp dân cư trên địa bàn xã. Các lễ hội,
hoạt động thi đấu, văn hóa – thể thao, vui chơi giải trí, câu lạc bộ hát với nhau, câu
lạc bộ hưu trí…khuyến khích phát huy khả năng sáng tạo văn hóa – nghệ thuật
quần chúng, thể dục thể thao…thỏa mãn nhu cầu sáng tạo văn hóa của mỗi cá
nhân, phát hiện tài năng. Ngoài ra, mở câu lạc bộ nâng cao kiến thức chuyên ngành
mà mỗi cá nhân ưa thích, câu lạc bộ giúp người ta trang bị một nghề mới hay nâng
cao tay nghề qua các lớp hướng dẫn: Quay phim, chụp ảnh, tin học, ngoại ngữ,
thiêu đan, nữ công gia chánh, trồng cây cảnh…Hoạt động hấp dẫn và đáp ứng nhu


cầu của quần chúng, thu hút đông đảo quần chúng đến tham gia hưởng thụ và sáng
tạo văn hóa.
1.2. Điềm yếu:
Hiện nay, ngành văn hóa - thông tin, nhà văn hóa là đơn vị sự nghiệp thực
hành ngiệp vụ mang tính sự nghiệp văn hóa – thông tin ở cơ sở, nhà nước bảo trợ
kinh phí. Ngành văn hóa - thông tin, nhà văn hóa chỉ nhấn mạnh tính đặc thù của
sự nghiệp văn hóa – thông tin cơ sở, mà không tính hiệu quả kinh tế nên nảy sinh
ra chờ đợi, thiếu sáng tạo trong hoạt động không đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã
hội. Mặc khác nếu chỉ nhấn mạnh hiệu quả kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế làm thước
đo sẽ chạy theo kinh doanh đơn thuần, lãng quên tính mục đích, buông lỏng nội
dung và chất lượng nghiệp vụ. Tuy nhiên kinh tế là phương tiện giúp thực hành
nghiệp vụ văn hóa – xã hội đạt hiệu quả cao hơn.
Tình hình chung của ngànhvăn hóa – thông tin, nhà văn hóa cơ sở hiện nay
là, xây dựng kế hoạch hoạt động chỉ dựa vào các ngày lễ hội trong năm, nội dung
hoạt động chỉ mang tính tuyên truyền và trong chờ kinh phí cũng như sự chỉ đạo từ
cấp trên. Chưa khảo sát khai thác hết tiềm năng thị trường tiêu dùng văn hóa để
đưa ra chiến lược làm kinh tế văn hóa.
Hiện tại nguồn nhân lực về lĩnh vực văn hóa trên địa bàn huyện còn hạn chế,

chưa xây dựng được đội ngũ chuyên biệt về hoạt động văn hóa nghệ thuật, chưa có
đội ngũ làm marketing khảo sát nhu cầu tiêu dùng văn hóa, chưa có đội ngũ sáng
tác kịch bản cũng như dàn dựng chương trình, chưa có bộ phận làm công nghiệp
văn hóa…
1.3. Cơ hội:
Tổ chức các hoạt động văn hóa luôn có những tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp từ môi trường bên ngoài đó là thị trường tiềm năng và thị trường mục tiêu. Với
mật độ dân số 80 người/ km2, số dân sống chủ yếu ở nông thôn. Cùng với chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, hệ thống giao thông cũng như
các cơ sở vật chất ở vùng nông thôn được đầu tư nâng cấp, nên thuận lợi cho người
dân tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. Bắc Phong thuộc vùng duyên hải nam trung
Bộ, ngoài địa hình đội núi, hệ thống kênh rạch không nhiều, Bắc Phong còn có khí


hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn, cần có chính sách phát triển văn hóa du lịch Thác
Tiên cho phù hợp nên thu hút được các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, đây là thị
trường tìm năng cần được khai thác.
1.4. Thách thức:
Trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động văn hóa nghệ thuật điều là sản
phẩm, người ta có thể mua bán và sở hữu, vì thế sẽ xuất hiện sự cạnh tranh của các
tổ chức, sản phẩm, dịch vụ khác trên thị trường đối với tổ chức, sàn phẩm, dịch vụ
của chúng ta. Có hai vấn đề cạnh tranh có thể làm ảnh hưởng đến hình thức tham
dự của công chúng đó là: bản chất của sự cạnh tranh và mối de dọa của đối thủ
cạnh tranh. Về bản chất sự cạnh tranh có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau như:
cạnh tranh về thời gian, địa điểm phát hành; Cạnh tranh về nguồn nguyên liệu đầu
vào; cạnh tranh về khoa học công nghệ; về các hình thức giải trí trực tiếp; về có
cùng sản phẩm; về nhãn hiệu… Để xác định mối đe dọa của đối thủ cạnh tranh ta
cần phải xác định: tổ chức của chúng ta đang cạnh tranh với những tổ chức nào;
các lĩnh vực của chức đối thủ cạnh tranh với tổ chức chúng ta như (các dòng sàn
phẩm, dịch vụ tương tự; nhà tài trợ; các biện pháp hoạt động..) Các cộng đồng dân

cư thường có những hành vi tiêu dùng khác nhau, và điều này góp phần quyết định
thành công hay thất bại trong quá trình phát triển sản phẩm.
Sự phát triển cộng nghệ giải trí tại nhà đang trở thành mối đe dọa đối với các
chương trình văn hóa nghệ thuật biểu diễn trực tiếp. Kinh tế phát triển sẽ tạo sức
mua cao, nhưng đây cũng là thách thức, vì công chúng có thể bỏ ra số tiền cao để
mua sản phẩm có chất lượng cao. Các chính sách có thể thay đổi trong các giai
đoạn khác nhau, nên có những tác động trực tiếp đối với hoạt động văn hóa của các
tổ chức. Những yếu tố thuộc thị trường, sự cạnh tranh văn hóa - xã hội, công nghệ,
kinh tế, chính trị, pháp luật và nhân khẩu học, cần phải được phân tích và cân nhắc
như là những cơ hội hay thách thức đối với quá trình vận hành của các tổ chức văn
hóa nghệ thuật.
2. Xây dựng thị trường văn hóa:
2.1. Triển khai tài nguyên văn hóa:


Về phong tục tập quán, cộng đồng dân cư sống tập trung theo làng xã, theo
tộc người, theo dòng họ, và có phong tục thờ cúng tổ tiên, đa số làm nghề nông.
Cơ sở tôn giáo: có 1 chùa nằm trên địa bàn thôn Mỹ Nhơn và 2 đình tại 2
thôn Mỹ Nhơn và Ba Tháp.
2.2. Kim soát kinh tế vĩ mô:
Nhà nước kiểm soát quản lý qua các văn bản pháp luật ở tầm vĩ mô đối với
các hoạt động văn hóa. Đồng thời đưa ra những chính sách để kiểm soát kinh tế vĩ
mô như: Chính sách đầu tư văn hóa: làm công nghiệp văn hóa tạo ra sản phẩm, dựa
vào nội dung; chính sách thuế; chính sách giá có tính đàn hồi; chính sách hỗ trợ
hữu hiệu.
3. Chính sách đầu tư:
3.1. Nhân lực:
Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn cho đội ngũ lãnh đạo,
quản lý văn hóa các cấp đủ năng lực và phẩm chất đảm đương nhiệm vụ. Mở rộng
hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn theo từng chuyên dề, đào tạo sau đại học.

Chương trình, giáo trình biên soạn, cải tiến phù hợp yêu cầu đổi mới, phù hợp chức
danh tiêu chuẩn, công chức nghiệp vụ phương pháp viên, hướng dẫn viên, tuyên
truyền viên…
Có những chính sách đãi ngộ nhằm thu hút nhân tài, có chế độ khen thưởng,
khuyến khích, động viên các hạt nhân, nòng cốt, các cá nhân tích cực, có nâng lực
và hiệu quả công tác như sáng tác, biểu diễn, tổ chức, vận động quần chúng, v.v…
Giúp đỡ tổ chức tốt các câu lạc bộ sở thích, các nhóm năng khiếu văn nghệ,
làm tốt công tác vận động quần chúng.
3.2. Vật lực:
a. Về hoạt động văn hóa nghệ thuật:
Xây dựng đồng bộ các thiết chế văn hóa từ Trung tâm huyện đến các xã
vùng sâu vùng xa.
Điều kiện làm việc của ngành văn hóa - thông tin, nhà văn hóa cần có: Trụ
sở làm việc, địa điểm tổ chức các loại hình nghiệp vụ thông tin địa điểm của các


địa điểm của Thư Viện; Khu vui chơi rèn luyện thể chất; Khu cây xanh; khu vực
dịch vụ văn hóa; trang bị đồng bộ phương tiện kỹ thuật chuyên dùng.
b. Về Thể dục thể thao: Ngoài trụ sở thì đầu tư cho sân vận động; nhà thi đấu đa
năng; hồ bơi…
Phát triển mạng lưới truyền thanh rộng khắp trên các thôn
c. Về Du lịch: Đầu tư các hạng mục như (khu vui chơi, cơ sở hạ tầng, khu di tích
Ba Tháp …).
3.3. Tài chính:
Về kinh phí hàng năm được cấp cho các hoạt động văn hóa trên địa bàn xã
Bắc Phong từ xã đến thôn khoảng 165 triệu đồng. Ngoài ra còn các khoản tiền tài
trợ các doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài huyện từ khoảng 30 triệu đồng
Để có nguồn kinh phí cho hoạt động về lĩnh vực văn hóa ngoài ngân sách
nhà nước, cần kiêu gọi các nhà đầu tư, các nhà tài trợ cho các hoạt động văn
hóa….Ngoài ra các tổ chức hoạt động văn hóa, cần có chiến lược làm kinh tế văn

hóa.
Nguồn tài chính đầu tư cho chiến lược phát triển văn hóa ở xã về nhân lực
và vật lực ước khoảng 200 triệu đồng/năm.

3.4. Thời gian:
Do cơ cấu hệ thống về lĩnh vực hoạt động văn hóa của xã Bắc Phong chưa
đồng bộ, nên việc đầu tư nâng cao các hoạt động văn hóa trên địa bàn xã cần có
nhiều thời gian. Đầu tư phần cơ bản về nhân lực và vật lực cần có chiến lược
khoảng 15 năm. Đầu tư cho phát triển bền vững cần có chiến lược khoảng 25 năm.
4. Quản lý kinh tế văn hóa:
4.1. Điều tiết kiểm soát cơ bản trong kinh tế:
Chính sách giá thương phẩm và đặc biệt là thương phẩm văn hóa
quan hệ cung cầu về thương phẩm, thương phẩm văn hóa.


×