Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.82 KB, 89 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu và rộng hậu WTO, lại bị ảnh hưởng
bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đang phải
đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa
dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đang là vấn đề sống còn trong tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính nói chung và các
ngân hàng nói riêng.
Đối với các ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng
trung – dài hạn nói riêng là hoạt động tạo ra doanh thu và lợi nhuận chủ yếu,
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Tuy nhiên, do những yếu
tố khách quan lẫn chủ quan, hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại
nước ta hiện nay còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Những rủi ro đó khi phát sinh sẽ
không chỉ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng mà còn ảnh
hưởng dây chuyền tới sự ổn định và phát triển của cả nền kinh tế. Chính vì vậy
nâng cao chất lượng tín dụng là mối quan tâm của không chỉ các nhà lãnh đạo
ngân hàng mà còn là của các nhà quản lý kinh tế.
Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lý Nhân
tỉnh Hà Nam là một đơn vị hoạt động kinh doanh về nội tệ và ngoại tệ, phần lớn
các khoản vay trung và dài hạn ở đây là cho vay nội tệ. Do vậy trước sự biến
động của nền kinh tế nước ta, ngân hàng nông nghiệp huyện Lý Nhân tỉnh Hà
Nam cũng đã gặp phải không ít những khó khăn, vướng mắc và những rủi ro vốn
có trong hoạt động cho vay của mình. Nhận thức được những rủi ro trong hoạt
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
1
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
động tín dụng trung – dài hạn cũng như sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng
tín dụng, với những kiến thức đã được trang bị trong trường cùng những kinh
nghiệm thực tiễn khi thực tập, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng trung – dài hạn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát


triển nông thôn huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những lý luận cơ bản về tín dụng nói chung, tín dụng trung dài
hạn nói riêng.
- Phân tích thực trạng tín dụng trung – dài hạn tại chi nhánh NHNo & PTNT
huyện Lý Nhân từ đó đánh giá những kết quả được, tìm ra những mặt còn tồn tại
và nguyên nhân của những tồn tại đó.
- Trên cơ sở những tồn tại, đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng tín dụng trung – dài hạn tại chi nhánh.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
đồng thời sử dụng các bảng, biểu để minh họa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Chất lượng tín dụng trung – dài hạn.
Phạm vi nghiên cứu : Hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT Lý
Nhân trong giai đoạn 2007 – 2009.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
2
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1 : Những vấn đề chung về tín dụng và tín dụng trung – dài hạn
Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại chi
nhánh NHNo & PTNT Lý Nhân
Chương 3 : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại
chi nhánh NHNo & PTNT Lý Nhân

Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
3

Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ TÍN DỤNG
TRUNG – DÀI HẠN
1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Ngân hàng bắt nguồn từ việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những
người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người cầm
giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn
thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho
những người cần tiền. Là trung gian tài chính, ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi
trong xã hội và dùng chính tiền đó cho cá nhân và tổ chức vay lại. Tín dụng là
một trong những hoạt động của ngân hàng, hoạt động này mang lại lợi nhuận lớn
cho ngân hàng.
Thuật ngữ “ tín dụng” ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Tín dụng
xuất phát từ chữ la tinh là CREDO ( tin tưởng, tín nhiệm ). Trong thực tế tín dụng
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau :
Trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ
từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở hoàn trả giữa hai chủ thể. Ví dụ, trong hoạt động thương mại một công ty
bán hàng trả chậm cho một công ty khác, như vậy người bán đã chuyển giao hàng
hóa cho bên mua và theo thỏa thuận, sau một thời gian nhất định bên mua phải
trả tiền co bên bán. Hoặc giao dịch giữa ngân hàng với các định chế tài chính
khác, với doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay và cũng sau
một thời gian nhất định người đi vay phải thanh toán cả gốc và lãi cho ngân hàng.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
4
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng

Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng.
Với chức năng cơ bản của một ngân hàng, tín dụng là một giao dịch về tài
sản ( tiền hoặc hàng hóa ) giữa bên cho vay ( ngân hàng và các định chế tài
chính ) và bên đi vay ( cá nhân,doanh nghiệp và các chủ thể khác ) trong đó bên
cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
Quan hệ tín dụng tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội, nhưng dù vận
động ở phương thức nào tín dụng đều mang những đặc trưng sau :
Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay ( bằng tiền ) và cho thuê ( bất động sản và động sản ). Khi xã hội phát
triển thì hình thức cho thuê cũng phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả người cho vay phải nhận được tài sản sau
một thời gian nhất định từ người đi vay.
Giá trị mà người cho vay nhận được phải lớn hơn giá trị ban đầu mà họ cho
vay. Chênh lệch này chính là giá trị nhận được do việc chuyển nhượng quyền sử
dụng vốn.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở hoàn trả vô
điều kiện hay quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tin tưởng giữa người đi vay và
người cho vay. Cơ sở tin tưởng này có thể là do uy tín của người đi vay, do giá trị
tài sản thế chấp hoặc do sự bảo lãnh của người thứ ba.
1.1.3. Vai trò của tín dụng
a. Đối với nền kinh tế
Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho
các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Từ nguồn
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
5
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng

vốn đó, các chủ thể mở rộng hoạt động kinh doanh, đưa tiền vào nền kinh tế đẩy
mạnh sản xuất và tiêu dùng – hai mắt xích quan trọng của quá trình tái sản xuất
và như thế tín dụng ngân hàng đã thúc đẩy sản xuất phát triển.
Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thỏa mãn nhu cầu
đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín
dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn
vốn cho các chủ thể kinh doanh.
Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ động
cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, khi nó
không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này giúp
cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực
sản xuất của xã hội.
Khi nền kinh tế có những thay đổi, thông qua việc điều chỉnh các điều kiện tín
dụng, nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động
của nguồn vốn tín dụng nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về
quy mô lẫn kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín
dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác.
b. Đối với các tổ chức tín dụng
Ngày nay, mặc dù các ngân hàng đã mở rộng các hoạt động như tư vấn, bảo
lãnh…nhưng hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động
của ngân hàng và là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng đó. Bản thân
ngân hàng sẽ tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
tiền gửi. Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.1.4. Phân loại tín dụng
a. Phân loại theo mục đích vay vốn
Theo căn cứ này thì tín dụng được chia ra các loại sau :
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
6
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Cho vay bất động sản : Là loại cho vay liên quan tới việc mua sắm và xây

dựng bất động sản như nhà ở, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ. Đối với loại hình cho vay này bằng chính tài sản thực : đất đai,
nhà cửa và các công trình khác.
- Cho vay công nghiệp và thương mại : Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp thương mại và
dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp : Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón,thuốc trừ sâu,giống vật nuôi cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên
liệu.
- Cho vay các định chế tài chính : Là việc cấp tín dụng cho các ngân hàng,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và
- Cho vay cá nhân : Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cá nhân
như nhà ở, ô tô và các vật dụng thiết yếu khác.
- Cho thuê : Bao gồm cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê
bao gồm bất động sản và động sản mà chủ yếu là máy móc, thiết bị. Đây là
nghiệp vụ mà ngân hàng đảm nhận việc thanh toán tiền mua máy móc, thiết bị và
giữ quyền sở hữu máy móc thiết bị đó còn người đi thuê được quyền lựa chọn
thiết bị phù hợp với nhu cầu kinh doanh và lắp đặt tại nơi tiến hành hoạt động
kinh doanh của mình trong suốt thời gian thuê. Kết thúc hợp đồng thuê, ngân
hàng sẽ nhận được tiền từ người đi thuê, bên đi thuê có thể mua lại tài sản đó
theo giá bán được định trước khi ký kết hợp đồng thuê.
b. Phân loại theo mục đích tín nhiệm
Cho vay có bảo đảm : Là loại cho vay dựa trên cơ sở bảo đảm như thế chấp
hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 3. Đối với khách hàng không có uy
tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo. Sự bảo
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
7
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu thứ 2, bổ sung cho
nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.

Cho vay không có bảo đảm : Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ 3. Việc cho vay này dựa trên uy tín của khách
hàng. Với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài chính
mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cho vay mà không cần nguồn thu
nợ bổ sung.
c. Phân loại theo xuất xứ tín dụng
Cho vay trực tiếp : Đây là việc ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có
nhu cầu đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp : Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Loại
cho vay này gồm có chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng và nghiệp
vụ bao thanh toán.
d. Phân loại theo phương pháp hoàn trả
- Cho vay có thời hạn : Là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng. Loại cho vay này gồm các loại sau :
+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ là loại cho vay thanh toán một lần theo
thời hạn đã thỏa thuận.
+ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể ( cho vay trả góp ) là loại cho vay mà
khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
+ Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, việc trả nợ
phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay. Với loại cho vay này khách
hàng có thể trả nợ trước hạn nhưng ngân hàng được quyền thu lãi toàn bộ kỳ hạn
trả nợ theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
8
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Cho vay không có thời hạn cụ thể : Ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi
vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý,
thời gian này có thể thỏa thuận trong hợp đồng.
e. Phân loại theo thời hạn cho vay

Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thơi gian
liên quan mật thiết đến tính an toàn, sinh lời của tín dụng cũng như khả năng
hoàn trả của khách hàng, theo cách phân loại này tín dụng được chia thành 3 loại:
- Cho vay ngắn hạn : Là loại cho vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng, được
sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn : Thời hạn của tín dụng trung hạn thường là không cố
định. Trước đây, thời hạn mà NHNN Việt Nam đưa ra đối với tín dụng trung hạn
là từ 1 đến 3 năm. Tuy nhiên hiện nay để đáp ứng yêu cầu vay của doanh
nghiệp,NHNN Việt Nam quy định thời hạn của tín dụng trung hạn là từ 1 đến 5
năm. Việc nâng thời hạn tín dụng lên 5 năm đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay của
doanh nghiệp vì đối với 1 số tài sản cố định có thời hạn sử dụng tương đối dài
nên cần phải có thời gian đủ lớn, doanh nghiệp mới có thể hoàn trả gốc và lãi cho
ngân hàng và sẽ giúp doanh nghiệp tránh rơi vào tình trạng nợ quá hạn.
- Cho vay dài hạn : Là loại tín dụng mà thời hạn của nó dài hơn đối với tín
dụng trung hạn. Loại tín dụng này cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như
xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các
xí nghiệp, nhà máy lớn, các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
1.2 Tín dụng trung – dài hạn
1.2.1 Khái niệm tín dụng trung – dài hạn
Tín dụng trung – dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn trên 1 năm, nhưng
không dài hơn thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành từ vốn vay.
Việc phân chia cụ thể tín dụng trung – dài hạn tùy thuộc vào quy định của mỗi
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
9
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
quốc gia. Theo quy định của Thống đốc NHNN Việt Nam các khoản tín dụng có
thời gian từ trên 1 đến 5 năm gọi là tín dụng trung hạn. Đối tượng tín dụng trung,
dài hạn rất đa dạng, phong phú. Ngân hàng có thể cho vay nhiều đối tượng khác
nhau mà pháp luật không cấm.

Trong tín dụng trung dài hạn là các công trình, hạng mục dự án đầu tư, mua
sắm tài sản cố định, nâng cấp hạ tầng cơ sở của các đơn vị kinh tế, nhà nước hay
cá nhân có luận chứng kinh tế tốt, xác thực có tính khả thi cao, những khoản cho
vay dài hạn thường đươch thực hiện cho vay với khách hàng là doanh nghiệp nhà
nước để đầu tư những dự án lớn, công trình trọng điểm quốc gia, những dự án
quy mô lớn như nhà máy thủy điện, nhiệt điện, công trình giao thông, cơ sở hạ
tầng hay lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Các khoản tín dụng dài hạn thường
áp dụng phương pháp giải ngân và trả nợ nhiều lần.
1.2.2 Các đặc trưng của tín dụng trung – dài hạn
a. Mục đích và đối tượng cho vay
Khác hẳn với loại hình tín dụng ngắn hạn chủ yếu dùng để bổ xung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp, tín dụng trung dài hạn được dùng để tài trợ cho nhu
cầu tài sản cố đính, tài sản lưu động thường xuyên và các dự án có thời gian
tương đối dài. Mục đích của cho vay trung dài hạn là các chi phí cấu thành trong
tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm giá trị vật tư, máy móc thiết bị, công
nghệ, chi phí nhân công…Tuy nhiên, ngân hàng thương mại sẽ không cho vay
toàn bộ các chi phí mà khách hàng sẽ phải bỏ ra chỉ cho vay theo một tỷ lệ nhất
định , thường là 70% giá trị tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng.
b. Thời hạn cho vay
Được tính bắt đầu từ khi khách hàng nhận được vốn vay cho đến khi khách
hàng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng.Tín dụng trung, dài
hạn do mục đích của người đi vay chủ yếu là đầu tư vào tài sản cố định hoặc các
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
10
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
dự án có thời gian thu hồi vốn chậm.Trên thực tế,thời hạn cho vay của các khoản
vay trung dài hạn thường có hai trường hợp:
- Khoản vay phát huy ngay hiệu quả sau khi số tiền vay được sử dụng, thời
hạn cho vay chính là thời gian thu hồi
- Khoản vay phải trải qua một thời gian mới phát huy được hiệu quả, khách

hàng mới có khả năng trả nợ.Đối với trường hợp này thời hạn cho vay phải bao
gồm thời gian trả nợ và khoảng thời gian phát huy hiệu quả của đồng vốn
Thời hạn cho vay phải dựa trên thỏa thuận giữa người đi vay và ngân hàng. Thỏa
thuận này thông thường được căn cứ vào thời gian khấu hao của dự án vì đây là
nguồn trả nợ chủ yếu của khách hàng. Do đó, tùy vào thời gian khấu hao mà các
khoản vay có thề kéo dài từ trên 12 tháng đến 60 tháng ( tín dụng trung hạn )
hoặc trên 60 tháng ( tín dụng dài hạn )
Tùy thuộc vào loại khách hàng và thời hạn cho vay mà kì hạn trả nợ cũng khác
nhau, khách hàng có thể lựa chọn nhiều loại kì hạn trả nợ:
- Kì hạn trả nợ đều nhau theo tháng , quý hoặc năm
- Kì hạn trả nợ có tính thời vụ
- Kì hạn trả nợ chỉ có 1 lần vào lúc kết thúc thời hạn cho vay
c. Nguồn vốn sử dụng để cho vay
NHTM luôn luôn phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên của
mình, đây là vấn đề sống còn của mỗi ngân hàng, ảnh hưởng không chỉ tới hoạt
động kinh doanh của ngân hàng mà còn là uy tín , hình ảnh của ngân hàng. Do
đó, việc cho vay phải dựa trên nền tảng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được.
Vì một trong những đặc trưng của tín dụng trung dài hạn là thời hạn cho vay
tương đối dài nên nguồn vốn NHTM cho khách hàng vay cũng phải ổn định và
có thời hạn tương ứng. Các nguồn vốn này thường là :
- Vốn tự có: là nguồn vốn của ngân hàng
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
11
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Nguồn vốn huy động TDH : nguồn vốn này có thề được hình thành theo
hình thức tiền gửi trung dài hạn hoặc phát hành trái phiếu dài hạn. Nguồn vốn
này đang ngày càng bị hạn chế do ngân hàng thương mại khó huy động các
khoản tiền gửi dài hạn trong dân, người dân thường không thích gửi các khoản
tiền trong thời hạn dài mà chỉ gửi các thời hạn ngắn trong khi chờ đợi các cơ hội
đầu tư khác hấp dẫn hơn

- Vốn đi vay trung dài hạn : NHTM có thể tìm nguồn vốn TDH bằng cách
vay NHNN hoặc vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên việc vay NHNN thường phụ
thuộc vào chính sách tiền tệ của NHNN trong từng thời kì. Vay nợ nước ngoài
thường chỉ áp dụng cho các dự án lớn , hiểu quả kinh tế cao bởi nguồn vay nợ
nước ngoài thường lớn, lãi suất chấp nhận được nhưng các NHTM cần phải tính
đến yếu tố rủi do không thanh toán được nợ hoặc rủi do tỷ giá
- NHTM cũng có thể sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay
TDH nhưng chỉ theo một tỷ lệ nhất định vì việc làm này có thể ảnh hưởng đến
khả năng thanh khoản của NHTM. Do đó , NHNN đã ban hành quyết định
457/2005/QĐ – NHNN,theo đó NHTM chỉ được phép sử dụng 40% nguồn vốn
ngắn hạn để cho vay TDH ( đối với các TCTD thì tỷ lệ này là 30%)
- Vốn nhận ủy thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình chuyển dịch
cơ cấu đầu tư của nhà nước , tổ chức kinh tê tài chính tín dụng, xã hội trong và
ngoài nước. Nguồn vốn này có đặc điểm và tình ổn định không cao, các dự án
đầu tư thường chỉ định trước các NHTM chỉ là trung gian đóng vai trò quản lý,
giải ngân và thu hồi vốn đầu tư, họ không có quyền lựa chọn dự án đầu tư.
d. Lãi suất cho vay
Lãi suất phụ thuộc vào 4 yếu tố sau:
- Mức lãi suất chung trên thị trường : Các NHTM luôn phải căn cứ vào mức
lái suất chung để quyết định lãi suất cho vay.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
12
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Số tiền vay : Số tiền khách hàng vay càng lớn thì lãi suất lại thường thấp hơn
do các chi phí dàn xếp thẩm định và quản lý các khoản vay có quy mô lớn, rẻ
hơn các khoản vay có quy mô nhỏ tính trên giá trị khoản vay. Thêm vào đó, các
khoản vay có quy mô lớn thường dành cho các khách hàng lớn, có tình hình kinh
doanh tốt, mức độ rủi ro tín dụng thấp.
- Thời hạn vay : Nếu thời hạn vay kéo dài sẽ làm nảy sinh nhiều rủi ro và phát
sinh nhiều chi phí nên các khoản vay có thời gian càng dài thì lái suất cho vay sẽ

cao hơn.
- Mức độ rủi ro của khách hàng : Theo đánh giá của NHTM, các khách hàng
nào có mức độ rủi ro cao sẽ phải chịu mức lãi suất cao hơn các khách hàng có
mức độ rủi ro thấp.
- Lãi suất cho vay TDH có thể là lãi suất cố định, áp dụng luôn cho cả thời
hạn vay, cũng có thể là lãi suất thả nổi, được điều chỉnh theo từng kỳ hạn nhất
định trong suốt thời hạn vay.Khi áp dụng cho vay theo lãi suất thả nổi, NHTM sẽ
kèm theo các điều khoản về lãi suất sàn và lãi suất trần để hạn chế tính biến động,
giảm bớt rủi ro cho cả người đi vay và người cho vay.
e. Rủi ro và tài sản đảm bảo
Hoạt động cho vay của NHTM luôn chịu tác động của nhiều yếu tố. Do thời
hạn dài nên NHTM không thể dự đoán chính xác tác động của các nhân tố đến
hoạt động tín dụng trung – dài hạn. Vì vậy rủi ro trong hoạt động này cũng cao
hơn so với cho vay ngắn hạn , thời hạn cho vay càng dài thì mức độ rủi ro càng
lớn.
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của mình , NHTM thường đòi
hỏi khách hàng phải có hình thức bảo đảm, có thể là tài sản hoặc là sự bảo lãnh
của bên thứ ba. Tài sản bảo đảm sẽ giúp trong quá trình sử dụng vốn , đối với hầu
hết các khoản vay trung – dài hạn thì đây là một điều kiện rất quan trọng để
khách hàng có thể vay được vốn . Tuy nhiên, hình thưc đảm bảo không phải là
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
13
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
yếu tố quyết định để NHTM ra quyết định cho vay, nó chỉ là cứu cánh cho
NHTM không nên quá chú trọng vào vấn đề này mà cần xem xét hiệu quả kinh tế
mà khoản vay có thể đem lại cho khách hàng.
1.2.3. Vai trò của tín dụng trung – dài hạn
a. Vai trò của tín dụng trung – dài hạn đối với các doanh nghiệp
Các khách hàng có nhu cầu vay trung – dài hạn thường là các doanh nghiệp,
mà đối với các doanh nghiệp thì vốn bao giờ cũng là 1 nhu cầu cần thiết.

Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh
nghiệp phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện để nâng cao năng suất lao động,
giảm thiểu chi phí, giảm giá thành để đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường, với mục tiêu là thắng trong cạnh tranh thu được lợi nhuận cao. Về dài
hạn, các doanh nghiệp luôn cần 1 lượng vốn lớn để mở rộng sản xuất, xây dựng
nhà xưởng, đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị, đổi mới công nghê… Các
doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đó bằng nhiều
hình thức như :
- Dùng nguồn vốn tự có
- Phát hành cổ phiếu, trái phiếu
- Đi vay các NHTM
Đối với biện pháp tài trợ bằng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp : Biện pháp
này rất hạn chế, vì không phải tất cả các doanh nghiệp đều có đủ vốn để thực hiện
các hoạt động này.
Đối với biện pháp phát hành cổ phiếu trái phiếu : Đây là biện pháp được sử
dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên sử dụng biện pháp này các
doanh nghiệp phải cân nhắc liệu các cổ phiếu, trái phiếu này có được nhà đầu tư
chấp nhận hay không, nó còn phụ thuộc vào những yếu tố như : uy tín của doanh
nghiệp, sự phát triển của thị trường chứng khoán, tâm lý của nhà đầu tư… Mặt
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
14
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
khác, cũng có các doanh nghiệp không muốn phát hành cổ phiếu để tránh trường
hợp phải phân chia quyền kiểm soát cho các cổ đông mới.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư thì lớn trong khi đó
vốn tích lũy của các doanh nghiệp còn quá ít, tâm lý đầu tư trực tiếp của công
chúng vào các doanh nghiệp còn hạn chế, thị trường chứng khoán chưa phát
triển, cho nên các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn vốn
tự có của mình và phần còn lại phải dựa vào sự tài trợ của hệ thống NHTM. Có
thể nói tín dụng TDH thực sự trở thành một công cụ tài trợ hữu hiệu đáp ứng các

nhu cầu vốn dài hạn của các doanh nghiệp.
b. Vai trò của tín dụng trung – dài hạn đối với các NHTM
Hiện nay, các NHTM đã phát triển rất nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ
nhưng cho vay luôn là hoạt động chủ yếu của các NHTM, chiếm tỷ trọng cao
nhất trong thu nhập của ngân hàng. Trong đó hoạt động tín dụng TDH luôn
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh số cho vay của NHTM. Có thể nói, tín
dụng TDH có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Điều này được thể hiện ở chỗ :
- Khi cho vay, quy mô khoản vay càng lớn thời hạn cho vay càng dài thì tiền
lãi vay càng lớn. Do đó các khoản vay TDH luôn mang lại hiệu quả kinh tế cao,
tạo ra nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng. Tuy nhiên, NHTM phải luôn chú
trọng nâng cao chất lượng tín dụng TDH vì đây là một hoạt động mang lại thu
nhập lớn đồng thời rủi ro cũng rất cao.
-Việc mở rộng tín dụng TDH tạo điều kiện phát triển uy tín cho ngân hàng
khẳng định khả năng tài chính, tiềm lực về vốn của NHTM, củng cố thương hiệu
và nâng cao tính cạnh tranh của NHTM.
- Thông qua hoạt động tín dụng TDH, ngân hàng có thể mở rộng đối tượng
khách hàng, khai thác được các khách hàng tiềm năng, mở rộng phát triển các
dịch vụ khác cho doanh nghiệp. Từ đó, ngân hàng có thể tạo dựng được quan hệ
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
15
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
làm ăn lâu dài với các doanh nghiệp đã vay vốn và điều này sẽ thúc đẩy tín dụng
ngắn hạn phát triển.
Vì những lý do kể trên có thể thấy tín dụng TDH luôn đem lại hiệu quả kinh
tế cao đối với hoạt động của ngân hàng. Do vậy,tín dụng TDH cần phải được
NHTM quan tâm, chú trọng phát triển, việc mở rộng và nâng cao chất lượng của
hoạt động này.
c. Đối với nền kinh tế
Nền kinh tế nào cũng cần có những khoản vốn TDH dù là nền kinh tế của

các nước đang phát triển hay là nền kinh tế của các nước phát triển. Các nước có
nền kinh tế phát triển thì cần đầu tư TDH để nâng cao, phát triển kinh tế theo
chiều sâu. Các nước có nền kinh tế đang phát triển thì cần phải đầu tư phát triển
kinh tế theo chiều rộng. Do đó, có thể thấy rõ đối với nền kinh tế của 1 nước
đang phát triển như Việt Nam thì hoạt động tín dụng TDH có những đóng góp to
lớn đối với nền kinh tế.
- Tín dụng TDH góp phần quan trọng vào sự mở rộng và phát triển của các
doanh nghiệp mà sự phát triển của các doanh nghiệp góp phần tạo nên sú phát
triển của cả nền kinh tế. Khi các doanh nghiệp mới được thành lập hoặc mở rộng
quy mô thì nền kinh tế sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm, đời sống người lao động
sẽ từng bước được cải thiện. Thêm vào đó sự phát triển sản xuất sẽ nâng cao chất
lượng mẫu mã sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy thương mại trong
nước cũng như thương mại quốc tế phát triển. Điều này sẽ tạo điều kiện nâng cao
nguồn thu cho ngân sách và nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, góp phần cải thiện
cán cân thương mại và thanh toán quốc tế.
- Thông qua huy động và cho vay có định hướng, hoạt động tín dụng TDH
góp phần to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vì tín dụng TDH là 1
công cụ quan trọng mà thông qua nó các NHTM sẽ tiến hành tài trợ cho các
ngành kinh tế kém phát triển và giúp phát triển các nền kinh tế mũi nhọn, trọng
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
16
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
điểm. Các khoản tín dụng này sẽ tạo điều kiện xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý,
khai thác triệt để các nguồn lực để tập trung phát triển nền kinh tế theo hướng có
lợi. Thông qua đó, cơ cấu kinh tế sẽ được chuyển dịch theo hướng hợp lý, đẩy
mạnh tốc đọ phát triển của nền kinh tế góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH –
HĐH đất nước mà Đảng và Chính phủ đã đề ra.
Như vậy, có thể thấy hoạt động tín dụng TDH có vai trò quan trọng đối với
không chỉ hai bên ngân hàng và doanh nghiệp mà còn với cả nền kinh tế. Với
những đóng góp to lớn cho nền kinh tế, tín dụng TDH cần phải được quan tâm và

phát triển một cách hợp lý.
d. Đối với quan hệ kinh tế đối ngoại
Trong điều kiện hiện nay, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn
liền với thị trường thế giới. Các hoạt động tín dụng tín dụng trung – dài hạn đã
trở thành nhịp cầu nối liền quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau bằng các
hình thức kinh doanh cho vay quốc tế như : Các hình thức giữa các chính phủ,
giữa các cá nhân với chính phủ, giữa cá nhân với cá nhân, các hình thức tài trợ,
cho vay không hoàn lại của chính phủ cấc nước.
1.2.4. Các loại tín dụng trung – dài hạn
- Cho vay theo dự án đầu tư
Đây là hình thức cấp tín dụng dựa trên cơ sở dự án sau khi đã xem xét khẳng
định tính hiệu quả, tính khả thi của dự án đó. Do vậy, công việc của ngân hàng
không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn khẳng định lại các vấn đề : Chi phí sản
xuất, giá thành thị trường tiêu thụ, quy trình công nghệ. Bởi vì việc quyết định
cấp một khoản tín dụng sẽ ràng buộc ngân hàng với người vay một khoảng thời
gian dài tùy theo từng dự án cho nên cần phải nghiên cứu một cách nghiên cứu và
xem xét kĩ các rủi ro xảy ra. Hình thức cho vay theo dự án gồm :
+ Tín dụng hợp vốn ( cho vay đồng tài trợ )
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
17
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
Cho vay đồng tài trợ là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng cho
một dự án do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối hợp với các bên tài trợ để
thực hiện nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng.
Quan hệ tín dụng dưới hình thức đồng tài trợ gồm hai bên tham gia : Bên
đồng tài trợ và bên nhận tài trợ.
Bên đồng tài trợ : Tối thiểu phải có từ hai ngân hàng thành viên trở lên, mỗi
ngân hàng thành viên là một tổ chức tín dụng hoặc nhiều khi cũng có thể là một
chi nhánh của một tổ chưc tín dụng được ủy quyền. Các ngân hàng thành viên sẽ

bàn bạc cùng nhau chọn ra một tổ chức tín dụng làm đầu mối. Nhìn chung mọi
quan hệ về tín dụng giữa bên đồng tài trợ và bên nhận tài trợ đều được thông qua
tổ chức tín dụng làm đầu mối.
Bên nhận tài trợ : thường là một pháp nhân hoặc cá nhân có nhu cầu vay vốn
đàu tư cho dự án.
+ Tín dụng trực tiếp
Đây là hình thức tín dụng trung – dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. Ngân hàng tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm đối với từng
dự án đầu tư của khách hàng mà họ đã lựa chọn để tài trợ. Thực tế cho thấy việc
lựa chọn dự án tốt là yếu tố quyết định nhất của hình thức tín dụng này.
+ Tín dụng tuần hoàn
Tín dụng tuần hoàn được coi là tín dụng trung – dài hạn khi thời hạn của hợp
đồng kéo dài từ một đến vài năm và người vay rút tiền ra kh cần và được trả nợ
khi có nguồn, trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
Trong các doanh nghiệp cổ phần khi có nhu cầu về vốn trung – dài hạn, doanh
nghiệp có thể gia tăng việc phát hành cổ phiếu nhưng cũng có thể vay ngân hàng
dưới hình thức tín dụng tuần hoàn, sau đó sử dụng phần lợi nhuận tính trả cho cổ
đông đẻ trả nợ, đồng thời tăng vốn góp của cổ đông lên. Thực chất đây là một
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
18
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
hình thức cải biến cơ cấu tàu chính của doanh nghiệp, chuyển nợ vay ngân hàng
thành vốn trung – dài hạn.
Doanh nghiệp vay vốn cũng có thể yêu cầu ngân hàng chuyển tín dụng tuần
hoàn thành tín dụng trung – dài hạn và thậm chí có thể ra hạn kéo dài nhiều năm
với điều kiện có tài khoản đảm bảo cho khoản vay một cách chắc chắn. Việc
chuyển đổi này thường được diễn ra vào cuối giai đoạn của hợp đồng và điều đó
còn phụ thuộc vào mức độ hợp đồng và tình hình tài chính của khách hàng vay
vốn.
- Tín dụng thuê mua

Tín dụng thuê mua là một kiểu cho thuê tài sản để sử dụng. Tài sản cho thuê
gồm động sản và bất động sản như nhà cửa, máy móc, thiết bị văn phòng.
Đối với người cho thuê ( ngân hàng ) : đa dạng hóa việc sử dụng vốn, mở
rộng khách hàng , tăng thêm sản phẩm ngân hàng , giảm mức độ rủi ro so với cấp
tín dụng hoặc bảo lãnh. Vì trong thời gian cho thuê , ngân hàng vẫn có khả năng
nhanh chóng lấy lại thiết bị nếu người đi thuê không tuân thủ theo hợp đồng thuê.
Tín dụng thuê mua bảo đảm sử dụng đúng đắn số vốn tài trợ , tỷ lệ sử dụng vốn
cao .
Đối với người đi thuê : Người đi thuê không phải bỏ ngay một số tiền để mua
sắm thiết bị nhưng vẫn có thiết bị sử dụng , có thể tiếp cận được công nghệ tiên
tiến đồng thời hạn chế được sự nỗi thời nhanh chóng của thiết bị. Mô hình tín
dụng thuê mua có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển đất nước, tạo điều kiện
giúp đỡ những doanh nghiệp không đủ vốn nhưng vẫn có thể thuê được máy móc
, thiết bị hiện đại , thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh , tăng năng suất và chất
lượng sản phẩm.
1.3. Nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn
1.3.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
19
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
Chất lượng sản phẩm,dịch vụ là một phạm trù rất quan trọng và phức tạp,phản
ánh tổng hợp các nội dung kỷ thuật ,kinh tế xă hội .Do tính phức tạp của nó nên
hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm.Mổi khái
niệm đều có những cơ sở khoa học và nhằm giải quyết những mục tiêu,nhiêm vụ
nhất định trong thực tế. Đứng trên các góc độ khác nhau tùy theo mục tiêu
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp có thể đưa ra những quan niệm
về chất lượng ,xuất phát từ người sản xuất ,người tiêu dùng, từ sản phảm hay đòi
hỏi của thị trường.
Theo quan niệm của các nhà sản xuất thì chất lượng là sự hoàn hảo và phù
hợp của mộtt sản phảm với một tập hợp các yêu cầu và tiêu chuẩn,quy cách đã

được xây dựng trước.
Trong nền kinh tế thị trường,người ta đưa ra rất nhiều quan niệm khác nhau
về chât lượng sản phẩm nhưng khái niệm chất lượng này xuất phát và gắn bó chặt
chẽ với các yếu tố cơ bản của thị trường như nhu cầu cạnh tranh, giá cả…Theo
hiệp hội tiêu chuẩn Pháp thì chât lượng là năng lực của sản phẩm hoặc một dịch
vụ nhằm thõa mãn nhu cầu của người sử dụng,còn theo Philip Croby- một
chuyên gia hàng đầu của Mỹ về quản lý chất lượng thì: “Chất lượng là sự phù
hợp với yêu cầu” Theo ông, yêu cầu ở đây là yêu cầu của người tiêu dùng và
người sản xuất.Theo tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa ( ISO ) trong bộ tiêu
chuẩn ISO đã đưa ra định nghĩa như sau: “ Chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu
những đặc trưng của mình thể hiện được sư thõa mãn nhu cầu trong những biểu
hiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phảm mà người tiêu
dùng mong muốn”.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng là vấn đề vô cùng phong phú, phức tạp do tính
đa dạng của hoạt động kinh doanh ngân hàng.Về cơ bản,một sản phẩm do một
tổ chức cung cấp phải có khả năng thỏa mãn một nhu cầu nào đó của khách
hàng .Sản phẩm ngân hàng mang nhiều đặc điểm khác với các sản phẩm của các
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
20
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
ngành công nghiệp.Tính vô hình ,tính không thể tách biệt,tính không ổn định và
khó xác định nên việc xác định chất lương tín dụng là rất khó.Trên cơ sở các
quan niệm chất lượng trên ta có thể hiểu chất lượng TDNH như sau: “Chất lượng
tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng
trong quan hệ tín dụng,đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn,tăng lợi nhuận
của ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển KT-XH.
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu,vừa mang tính định tính,vừa mang tính
định lượng. Chất lượng tín dụng được hiểu là sư hiệu quả của việc sử dụng khoản
vốn vay mà ngân hàng thương mại đã cấp cho khách hàng. Một khoản tín dụng
được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích cho cả khách hàng ,ngân

hàng và nền kinh tế . Nếu chỉ đem lại lợi ích cho một bên ngân hàng thì khoản tín
dụng đó không thể coi là tín dụng có chất lượng. Bởi vì khi NHTM cho vay thì
ngoài việc xem xét khả năng hoàn trả của khách hàng còn cần phải tính đến xem
liệu khoản vốn mình cấp cho khách hàng có mang lại hiệu quả kinh tế cho khách
hàng .Như vậy,một khoản tín dụng có chất lượng phải là khoản tín dụng đem lại
phải đáp ứng lợi ích cho cả 3 bên:
+ Đối với ngân hàng thương mại : Chất lượng tín dụng là khoản tín dụng được
đảm bảo an toàn, sử dụng đúng mục đích phù hợp với chính sách tín dụng của
ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng
với chi phí nghiệp vụ thấp ,tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường, làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển của
ngân hàng.
+ Đối với khách hàng : Chất lượng tín dụng là khoản tin dụng đáp ứng được
các nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất về lãi suất, kỳ hạn, hình thức giải
ngân va thu nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng , thủ tục
đơn giản thuận tiện, thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng nhiệt tình, chuyên
nghiệp.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
21
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
+ Đối vối nền kinh tế : Khoản tín dụng có chất lượng là khoản tín dụng góp
phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, công cuộc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ cho hoạt đọng kinh doanh, tiêu dùng hợp pháp
góp phần phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, giải quyết công ăn việc làm, khai
thác khả năng tiềm tàng của đất nước.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung –dài
hạn
Tín dụng từ xưa đến nay vẫn là hoạt đọng chủ yếu của các NHTM. Mang
lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng.Trong đó hoat động tín dụng
trung –dài hạn luôn đóng góp một phần không nhỏ vào lợi nhuận của các

NHTM. Việc mở rộng tín dụng TDH là một việc làm cần thiết để gia tăng thu
nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngân hàng và đáp ứng ngày càn tốt
hơn nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, các khoản cho vay trung –
dài hạn có qui mô lớn, thời hạn cho vay dài thường chứa đựng nhiều rủi ro.
Do đó, việc nâng cao chất lượng các khoản tín dụng luôn là mối quan tâm của
các ngân hàng thương mại.
Chất lượng tín dụng trung –dài hạn được nâng cao cũng sẽ giúp cho ngân
hàng thực hiện tốt hoạt động kinh doanh của mình. Khi đó, NHTM sẽ có thể
giảm được các chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý và các thiệt hại do không thu
hồi được vốn cho vay. Từ đó đảm bảo được khả năng thanh toán và lợi nhuận của
ngân hàng. Ngoài ra ,khả nă cấp tín dụng sẽ gia tăng và thu hút được nhiều khách
hàng, NHTM có thể cung cấp nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ khác cho khách
hàng. Ngân hàng sẽ ngay càng nâng cao được hình ảnh và uy tín của mình,tạo thế
mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.
Đảm bảo chất lượng tín dụng TDH sẽ tạo điều kiện phát triển nền kinh tế đất
nước. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo thì nguồn vốn cho vay sẽ tăng, sẽ
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
22
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
có ngay càng nhiều khách hàng tiếp cận được với nguồn vốn tham gia đầu tư
phát triển sản xuất, từ đó đem lại lợi ích cho nền kinh tế.
Với những ưu điểm trên, việc cũng cố và nâng cao chất lượng tín dụng
trung dài hạn là cần thiết cho sự phát triển lâu dài của ngân hàng, đem lại thu
nhâp về nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Vì thế, chất lượng tín dụng cần phải được
chú ý nâng cao.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung-dài hạn.
Chất lượng tín dụng ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng trung dài hạn
nói riêng của mõi ngân hàng được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau
mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh nhất định .
a. Đánh giá chất lượng tín dụng trung- dài hạn cua ngân hàng từ phía người

đi vay (khách hàng ).
* Chi phí vốn vay (lãi suất tiền vay).
Chi phí hay giá của sản phẩm, dịch vụ là tiêu chí dược khách hàng quan tâm
hàng đầu khi tiếp cân với bất kỳ một sản phẩm, dịch vụ nào .Đối với dịch vụ
ngân hàng ,giá cả ở đây chính là lãi suất cho vay và các loại chi phí (nếu có )
của khoản vay.
Xét trên một ngân hàng cụ thể thi giá (lãi suất) của các khoản vay khác nhau,
nó phụ thuộc vào mức độ rủi ro tiềm ẩn (theo cách đánh giá của ngân hàng) của
mõi khoản vay. Đối với cho vay trung dài hạn ,do thời gian dài giá trị khoản vay
thường lớn nên ngan hàng luôn thẩm định, đánh giá mức độ rủi ro rất kỹ
lưỡng,thông thường lãi suất cho vay sẽ tương ứng với mức độ rủi ro của khoản
vay trên nguyên tắc : rủi ro cao thì lãi suất cao và ngược lại ,rủi ro thấp thì lãi
suất thấp (tất nhiên chỉ cho vay khi khoản vay không nằm trong giới hạn chấp
nhận được ).
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
23
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
Còn xét trong tổng thể ngành ngân hàng trên cơ sở cạnh tranh giữa các NHTM
thì lãi suất dịch vụ tín dụng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng của
các ngân hàng này thường không khác nhau nó phụ thuộc vào hai yếu tố:
+ Lãi suất huy động tiền gửi đầu vào : NH nào có chi phí đầu vào thấp ( lãi
suất huy động thấp) thì lãi suất cho vay thường sẽ thấp hơn.
+ Đối tượng khách hàng chính của ngân hàng
Do vậy, để giảm lãi suất cho vay , thu hút được nhiều khách hàng , nhiều phương
án ,dự án khả thi giảm thiểu rủi ro trong ngân hàng thì các ngân hàng cần phải
giảm thiểu chi phí đầu vào ( lãi suất huy động ). Để làm được điều đó các ngân
hàng không ngừng xây dựng hình ảnh, uy tín của mình trong mắt khách hàng.
* Thời gian bình quân để xét duyệt một khoản vay trung – dài hạn.
Ngoài yếu tố chi phí ( lãi vay ) thì thời gian được đáp ứng nhu cầu cũng là một
tiêu chí mà khách hàng rất quan tâm bởi trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh

gay gắt như hiện nay, tiêu chí này đôi khi quyết định sự thành bại của một
phương án kinh doanh. Vì vậy tiêu chí này ảnh hưởng rất lớn tới việc lựa chọn
ngân hàng để vay vốn của khách hàng. Do vậy, để trách việc mất đi những khách
hàng tốt, nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, các ngân hàng cần phải rất chú
ý đến chỉ tiêu này, cần nỗ lực tìm mọi giải pháp để đơn giản vẫn đảm bảo sự an
toàn tín dụng cho ngân hàng.
* Sự đa dạng của loại hình tín dụng trung – dài hạn của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của
khách hàng trong quan hệ tín dụng. Điều này đồng nghĩa với việc để nâng cao
chất lượng tín dụng, ngoài những yếu tố khác ngân hàng cần đặc biệt chú trọng
tới sự đa dạng trong chủng loại sản phẩm tín dụng. Do vậy, các ngân hàng cần
liên tục nghiên cứu để tìm ra các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
b. Đánh giá chất lượng tín dụng rung – dài hạn từ phía người cho vay ( ngân
hàng )
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
24
Khóa luận tốt nghiệp Học viện ngân hàng
- Chỉ tiêu doanh số cho vay trung – dài hạn.
Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền mà ngân hàng đã sử dụng để
cho vay trung – dài hạn. Chỉ tiêu này mang tính chất thời kỳ, thường được tính
cho một năm. Doanh số cho vay lớn và tốc độ tăng nhanh cho thấy hoạt động tín
dụng trung – dài hạn của ngân hàng đang rất tốt và ngày càng được mở rộng.
- Chỉ tiêu dư nợ trung – dài hạn.
Chỉ tiêu này là chỉ tiêu tuyệt đối mang tính thời điểm, phản ánh số tiền trung –
dài hạn mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng nhưng chưa thu hồi do khoản
vay chưa đến hạn thanh toán hoặc khoản vay đang bị nợ quá hạn. Mặc dù bao
gồm cả những khoản vay quá hạn nhưng chỉ tiêu dư nợ nói chung và dư nợ tín
dụng trung – dài hạn nói riêng được các ngân hàng rất quan tâm. Chỉ tiêu này cho
biết quy mô tín dụng trung – dài hạn của một ngân hàng và thông qua việc so
sánh giữa các thời kỳ khác nhau ngân hàng sẽ đánh giá được tốc độ phát triển tín

dụng trung- dài hạn của ngân hàng mình. Từ chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung – dài
hạn ta cũng có thể tính toán và đánh giá chất lượng tín dụng trung – dài hạn của
ngân hàng qua một chỉ tiêu khác là :
Dư nợ cho vay T& DH
Tỷ lệ dư nợ cho vay T&DH =
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu tuyệt đối cho biết quy mô tín dụng trung dài hạn của ngân hàng tại
một thời điểm nhất định.Qua việc so sánh các thơi điểm,ngân hàng sẽ biết được
tốc độ phát triển TDH ra sao, đồng thời cũng một phần phản ánh được chất lượng
tín dụng đang tăng lên hay giảm xuống. Nếu dư nợ tăng nhiều và ổn định thì
chứng tỏ hoạt động tín dụng TDH của ngân hàng đang phát triển theo chiều
hướng tốt.
Chỉ tiêu tương đối cho biết tỷ trọng của dư nợ cho vay TDH với tổng dư nợ,
đồng thời cũng phản ánh tương quan với dư nợ ngắn hạn. Hoạt động tín dụng
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp LTCĐ 4A
25

×