Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Giáo trình Xã hội học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.19 KB, 163 trang )

VÕ TÁ TRI - VŨ VĂN HÙNG (Đồng chủ biên)

GIÁO TRÌNH
XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG

NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ
HÀ NỘI, 2015
1


2


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU

5

CHƯƠNG I. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC

7

I. Khái lược lịch sử và đối tượng nghiên cứu môn xã hội học

7

II. Phương pháp nghiên cứu môn xã hội học

20



III. Chức năng và nhiệm vụ của xã hội học

29

CHƯƠNG 2. HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI, TƯƠNG TÁC XÃ HỘI
VÀ QUAN HỆ XÃ HỘI

33

I. Hành động xã hội

33

II. Tương tác xã hội

52

III. Quan hệ xã hội

61

CHƯƠNG 3. CƠ CẤU XÃ HỘI, DI ĐỘNG XÃ HỘI VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI

67

I. Xã hội và cơ cấu xã hội

67


II. Bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội

77

III. Di động xã hội

85

IV. Thiết chế xã hội

89

CHƯƠNG 4. XÃ HỘI HÓA

95

I. Khái niệm và vai trị của xã hội hóa

95

II. Phân đoạn xã hội hóa

102

III. Mơi trường xã hội hóa

107

CHƯƠNG 5. BIẾN ĐỔI XÃ HỘI


113

I. Khái quát chung về biến đổi xã hội

113

II. Các quan điểm về biến đổi xã hội

119
3


III. Những nhân tố và điều kiện của sự biến đổi xã hội

123

IV. Một số vấn đề biến đổi xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay

125

CHƯƠNG 6. MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC
CHUYÊN BIỆT

133

I. Xã hội học giáo dục

133

II. Xã hội học nông thôn


140

III. Xã hội học đô thị

148

IV. Xã hội học quản lý

153

TÀI LIỆU THAM KHẢO

159

4


LỜI NĨI ĐẦU
Xã hội học đại cương là mơn khoa học mới được đưa vào giảng dạy
trong chương trình đào tạo của các trường Đại học và Cao đẳng ở
Việt Nam đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Mặc dù là mơn học cịn khá
mới mẻ nhưng xã hội học đã khẳng định được ý nghĩa và tầm quan trọng
của nó trong việc nâng cao nhận thức và rèn luyện phương pháp nghiên
cứu những vấn đề xã hội cho người học.
Đặc biệt trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập sâu nền kinh tế thế giới tất yếu làm nảy sinh nhiều vấn đề
xã hội như tăng trưởng và công bằng, tiến bộ và bản sắc, dân chủ tự do
và kỷ cương xã hội, thống nhất và đa dạng, xung đột xã hội và ổn định...

hay những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực xã hội cụ thể như đô thị,
nông thôn, giáo dục, y tế, tội phạm... Đây là những vấn đề hết sức nhạy cảm
nhưng cũng rất bức xúc, địi hỏi các khoa học trong đó có xã hội học phải
giải quyết.
Ở Trường Đại học Thương mại, môn xã hội học cũng chỉ mới được
triển khai trong những năm gần đây nên tài liệu phục vụ cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh cịn nhiều hạn chế.
Để có thêm tài liệu chính thức, thống nhất, phù hợp với nội dung chương
trình đào tạo đặc thù của trường, chúng tôi biên soạn cuốn "Giáo trình
Xã hội học đại cương" nhằm giới thiệu những kiến thức và phương
pháp nghiên cứu xã hội học hết sức cơ bản phục vụ cho giảng dạy và học
tập mơn học. Giáo trình xã hội học đại cương có kết cấu 6 chương do tập
thể giảng viên Trường Đại học Thương mại biên soạn, trong đó TS. Võ
Tá Tri và Ths. Lê Đình Tân biên soạn chương I, Ths. Phạm Bá Sanh
biên soạn chương II, Ths. Lê Thị Anh biên soạn chương III, Ths. Nguyễn
Ngọc Diệp biên soạn chương IV, Ths. Nguyễn Thị Lan Phương biên soạn
chương V và TS. Vũ Văn Hùng biên soạn chương VI.
Giáo trình được viết hồn tồn dựa theo chương trình mơn học thuộc
các ngành, chuyên ngành kinh tế - quản trị kinh doanh do Hiệu trưởng
5


Trường Đại học Thương mại phê duyệt ban hành kèm theo Quyết định số
141/QĐ-ĐHTM ngày 21 tháng 3 năm 2012.
Trong q trình biên soạn giáo trình chúng tơi đã tham khảo, kế
thừa, vận dụng có chọn lọc nhiều kiến thức của các nhà nghiên cứu, các
giảng viên trong và ngoài nước qua các tài liệu về khoa học xã hội học
và các lĩnh vực khoa học có liên quan khác. Đồng thời chúng tơi cũng bổ
sung vào giáo trình nhiều nội dung cụ thể bằng việc cập nhật những kiến
thức hiện đại thể hiện qua việc trình bày cơ đọng, logic những vấn đề cơ

bản của xã hội học đại cương. Nhiều nội dung, phương pháp nghiên cứu
của xã hội học được lồng ghép, sử dụng thích hợp với kiến thức chuyên
ngành đào tạo, nhiều ví dụ cụ thể được rút ra từ đời sống kinh tế, xã hội
hiện đại, nhờ đó vừa giúp sinh viên mở rộng kiến thức nghiên cứu, giải
quyết các vấn đề kinh tế dưới góc độ xã hội học, vừa phát huy được tác
dụng tích cực của mơn học.
Có nhiều mức độ, phạm vi và phương pháp tiếp cận khác nhau về xã
hội học, song trong giáo trình này chúng tơi chủ yếu hướng vào những
nội dung cơ bản của xã hội học đại cương - "xã hội học lý thuyết". Bên
cạnh đó, giáo trình cũng gợi mở cho người học những phương pháp và
kỹ năng vận dụng hiểu biết của mình để phân tích, đánh giá bản thân và
xã hội, vận dụng kiến thức xã hội học vào thực tiễn cuộc sống.
Trong quá trình biên soạn giáo trình chúng tơi đã nhận được nhiều ý
kiến đóng góp của đồng nghiệp và độc giả. Nhân dịp này tập thể tác giả
bày tỏ lòng cảm ơn tới các đồng nghiệp, độc giả và đặc biệt tới sự quan
tâm giúp đỡ của Ban Giám hiệu Trường Đại học Thương mại, tới các
nhà khoa học trong và ngoài trường đã có những nhận xét, đánh giá và
góp ý q báu giúp chúng tơi hồn thành giáo trình đảm bảo chất lượng.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do xã hội học vốn là môn khoa học
phức tạp và có nhiều bất đồng của giới nghiên cứu nên lần biên soạn này
chắc khó tránh khỏi thiếu sót nhất định. Chúng tơi mong nhận được
nhiều ý kiến nhận xét, góp ý để giáo trình tiếp tục được bổ sung, sửa đổi
hoàn thiện hơn.
Tập thể tác giả

6


Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC
I. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
MÔN XÃ HỘI HỌC
1. Khái niệm xã hội học
Xã hội là thuật ngữ đã được sử dụng một cách phổ biến để phản
ánh các hoạt động và các quan hệ của con người với nhau. Trên thực tế
chúng ta thấy khơng có xã hội nếu khơng có con người, ngược lại con
người cũng không thể tồn tại nếu tách rời xã hội nên không phải ngẫu
nhiên, lâu nay trên thế giới đã tồn tại hai nhóm quan niệm khá phân biệt
khi nghiên cứu xã hội học: Một là, chỉ thiên về nghiên cứu cá nhân con
người, hành vi mang tính cá biệt (chủ nghĩa thực dụng Mỹ), hai là, cách
tiếp cận thiên về xã hội tức là nghiên cứu cả cộng đồng (chủ nghĩa thực
chứng phương Tây).
Xã hội học (sociology) là thuật ngữ bắt nguồn từ gốc chữ Latin
(Societas - xã hội) và chữ Hy Lạp (Lógos - ngôn từ, học thuyết) được
A. Comte xây dựng và đưa vào sử dụng chính thức lần đầu tiên vào năm
1838. Từ đó xã hội học được xác định là một mơn khoa học mới, độc lập,
có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu riêng, được nghiên
cứu và đưa vào giảng dạy một cách rộng rãi trên thế giới mà trước hết ở
các nước châu Âu và Mỹ.
Cho đến nay đã có rất nhiều lý thuyết khác nhau của xã hội học như
"Lý thuyết xã hội học thực chứng" (gắn với tên tuổi của các nhà xã hội
học: Auguste Comte, Emile Durkheim, Talcott Parsons); "Thuyết đồng
cảm xã hội" và "Thuyết cấu trúc chức năng" (Emile Durkheim); "Lý thuyết
trao đổi xã hội" (tiêu biểu là G.Homans); "Thuyết hành động xã hội" (Max
Weber); "Lý thuyết tương tác biểu trưng" (G.Mead); "Lý thuyết xung đột
xã hội" (K.Marx, Max Weber); "Lý thuyết tiến hóa xã hội" (A.Comte,
7



H.Spencer, E.Durkheim)… Mỗi lý thuyết đều có cách tiếp cận riêng về
phương hướng nghiên cứu, về phạm vi quan sát, thậm chí ở mức độ nhất
định cịn khác nhau cả về đối tượng nghiên cứu.
Với tư cách là người đặt nền móng chính thức cho sự ra đời xã hội
học, A.Comte cho rằng "Xã hội học là khoa học về các quy luật của tổ
chức xã hội"1. Khá đồng nhất với Comte, H.Spencer cũng quan niệm "Xã
hội học là khoa học về các quy luật và nguyên lý tổ chức của xã hội"2.
Mặc dù cịn có chỗ khác nhau nhưng nhìn chung cả hai ơng đều quan tâm
nghiên cứu xã hội như là một tổng thể. Có phần trái ngược, Max Weber
lại giải thích "Xã hội học… là khoa học cố gắng giải nghĩa hành động xã
hội và... tiến tới cách giải thích nhân quả về đường lối và hệ quả của
hành động xã hội"3.
Trải qua gần hai thế kỷ nhưng đến nay cũng chưa có được quan
điểm thống nhất về khái niệm xã hội học và đối tượng nghiên cứu xã hội
học. Tính khơng đồng nhất về quan niệm xã hội học bắt nguồn từ sự
phong phú, phức tạp của con người và xã hội. Theo Giddens, Anthony
"Xã hội học là ngành khoa học nghiên cứu cuộc sống con người, các
nhóm xã hội, và tất cả các xã hội"4. Hoặc với Basirico, Laurence A.,
Barbara G. Cashion, and J Ross. Eshleman "Xã hội học là ngành khoa
học nghiên cứu hành vi con người, các nhóm xã hội, và xã hội"5. Đây là
những quan điểm vẫn thiên về nghiên cứu hành vi con người và xã hội.
Còn John Joseph Macionis lại quan niệm "Xã hội học nghiên cứu một
cách có hệ thống xã hội loài người"6. Hay Fulcher, James and John Scott
khẳng định "Xã hội học giúp chúng ta hiểu thế giới xung quanh chúng ta,
hiểu chúng ta, và hiểu vị trí của chúng ta trong thế giới đó"7. Nhà xã hội
học G.V.Osipov quan niệm "Xã hội học là khoa học về các quy luật và
tính quy luật xã hội chung và đặc thù của sự phát triển và vận hành của
1

Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.45

Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.63
3
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.79
4
Giddens, Anthony. (2009). Sociology. Cambridge: Polity Press. Tr.6
5
Basirico, Laurence A., Barbara G. Cashion, and J Ross. Eshleman (2012), Introduction to
Sociology: BTV Publishing. Tr.6
6
Macionis, John (2008). Sociology. New Jersey: Prentice Hall. Tr.2
7
Fulcher, James and John Scott. (2011). Sociology. Oxford: Oxford University Press. Tr.4
2

8


các hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ chế tác
động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của
các cá nhân, các nhóm xã hội các giai cấp và các dân tộc"1...
Ở Việt Nam nhìn chung các nhà nghiên cứu xã hội học cũng chưa có
được quan điểm thống nhất, đồng thuận về bản chất xã hội học và đặc
biệt là đối tượng nghiên cứu của môn khoa học này. Chẳng hạn "Xã hội
học là khoa học nghiên cứu về xã hội lồi người, thơng qua các hành vi,
các hoạt động của con người trong đời sống xã hội, trong điều kiện lịch
sử xã hội cụ thể"2. Với quan điểm này đối tượng nghiên cứu xã hội học
thiên về xã hội hơn là hành vi cá nhân. Hay "Xã hội học là khoa học
nghiên cứu quy luật của sự nảy sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ
giữa con người và xã hội"3. Điều đó có nghĩa xã hội học chú trọng
nghiên cứu những vấn đề mang tính bản chất, khách quan, phổ biến gắn

với sự phát sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã
hội, trọng tâm nghiên cứu là quan hệ xã hội.
Cái khó của nghiên cứu xã hội học là ở chỗ, đây là ngành khoa học
vừa đòi hỏi sự chặt chẽ, logic của triết học vừa chứa đựng nhiều yếu tố tự
phát, rời rạc, thầm kín của tâm lý con người. Và từ đó cũng đã gây nên
nhiều cuộc tranh luận chưa có hồi kết xuất phát từ tính phức tạp của đối
tượng nghiên cứu xã hội học. Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, song
về đại thể có thể thống nhất cho rằng "xã hội học là khoa học nghiên
cứu về các quy luật và xu hướng của sự phát sinh, phát triển và biến
đổi của các hành động xã hội, các quan hệ xã hội, tương tác giữa các
chủ thể xã hội cùng các hình thái biểu hiện của chúng".
2. Khái lược lịch sử xã hội học
a. Sự ra đời xã hội học
Mặc dù chưa hoàn toàn thống nhất nhưng phần nhiều các nhà xã hội
học đều cho rằng xã hội học có mầm mống tư tưởng từ rất sớm, từ thời
cổ đại. Họ cho rằng, ban đầu các ý niệm về xã hội, những lý giải về xã
1

G.V.Osipov, (1992),“Xã hội học và chủ nghĩa xã hội”, Xã hội học và thời đại, tập 3, số 23. Tr.8
Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê, Vũ Minh Tâm, (2004), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội. Tr.7
3
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.11

2

9


hội đều gắn liền với triết học và xã hội học là thứ triết học về mặt xã hội.

Xã hội học cùng với các môn khoa học nghiên cứu về các vấn đề xã hội
đã chủ yếu đề cập đến những tiêu chuẩn tổ chức về mặt xã hội phục vụ
cho các giai cấp và các tầng lớp thống trị. Điều đó được thể hiện trong
quan điểm của các nhà tư tưởng, các triết gia cổ đại và cận đại cả phương
Đơng lẫn phương Tây. Phương Đơng có các nhà tư tưởng Trung Quốc
hay Ấn Độ, trong đó tiêu biểu là Quản Trọng, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân
Tử, Lão Tử... Ở phương Tây gắn với nền văn minh Hy Lạp cổ đại có các
nhà tư tưởng điển hình như Platon, Aristote...
Nhìn chung các nhà xã hội học phương Đơng cổ đại với những cách
đặt vấn đề khác nhau trong việc xác định động lực hay cách thức vận
hành xã hội, nhưng đều thống nhất mục tiêu cuối cùng là để quản lý
xã hội tốt hơn. Tuy vậy, những nền tảng khoa học nói chung (triết học,
kinh tế học, xã hội học...) ở phương Đơng chưa được hình thành một
cách vững chắc. Ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội cận
hiện đại đều thống nhất nhận định Platon và Aristote là những nhà tư
tưởng đầu tiên đặt nền tảng nghiên cứu các vấn đề xã hội học một cách
có hệ thống.
Có thể coi giai đoạn cổ đại đến thời phục hưng là giai đoạn đầu tiên
của xã hội học. Các nhà tư tưởng thời đó mới chỉ đưa ra những ý tưởng
và khi đó chỉ thuần tuý cho rằng xã hội học là một thứ triết học xã hội.
Mặc dù chưa có tính hệ thống và chưa khái quát hóa thành các lý thuyết
cụ thể nhưng đây cũng có thể coi là những tư tưởng khởi đầu, là mầm
mống cho sự phát triển xã hội học sau này.
Sau thời gian phát triển rực rỡ của nền văn minh cổ đại, nhân loại bị
chìm đắm trong thời kỳ dài của lịch sử, thời kỳ trung cổ với sự thống trị
của nhà thờ, tơn giáo và chém giết. Vì vậy khoa học nói chung cũng như
xã hội học nói riêng không phát triển được. Sang thời kỳ phục hưng, các
lĩnh vực khoa học tự nhiên (nhất là khoa học về địa lý, thiên văn) và
khoa học xã hội (trước hết là triết học và kinh tế học) phục hồi và phát
triển mạnh mẽ. Cùng với sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản là cơ sở

chính trị - xã hội vô cùng quan trọng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi bức
xúc về sự tiến bộ của các lĩnh vực khoa học. Đây là điều kiện, tiền đề hết
sức ý nghĩa giúp cho xã hội học phát triển mạnh mẽ hơn. Thời Phục Hưng
10


có các nhà xã hội học như Thoms Hobbes (1588-1679), Juhn Locke
(1632-1704)…
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các biến động to lớn từ trong đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội ở Châu Âu (nhiều nước đã trở thành
nước công nghiệp, kinh tế thị trường phát triển mạnh, mâu thuẫn xã hội
dần trở nên gay gắt…) đặt ra nhu cầu thực tiễn cần phải có nhận thức
mới về xã hội. Lúc này những tư tưởng về các vấn đề xã hội từng bước
được hệ thống hóa và từ đó xuất hiện các lý thuyết nghiên cứu sâu về xã
hội. Tuy nhiên, phải đến cuối thế kỷ XIX, xã hội học mới được thừa nhận
là môn khoa học độc lập.
Người có cơng lớn trong việc khai thơng và xác lập môn xã hội học
thành một môn khoa học thực sự là Auguste Comte (1798-1857). Ông là
nhà bác học người Pháp nghiên cứu nhiều lĩnh vực như toán học, vật lý,
triết học và xã hội học. Ông là trợ lý của Saint Simon, người đã sáng lập
học thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Tây Âu đầu thế kỷ XIX.
Ông là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ xã hội học.
Tiếp đến là nhà xã hội học người Pháp Emile Durkheim (1858-1917)
với tư tưởng "sự kiện xã hội" thay cho tâm sinh lý cá nhân. Ngoài ra còn
phải kể đến các nhà xã hội học khác như: Fredric Le Play (người Pháp,
1806-1882), Karl Marx (người Đức, 1818-1883), Max Weber (người Đức,
1864-1920)…
Sau những khởi xướng của Comte, Durkheim, xã hội học ở châu Âu
phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và chủ yếu tập trung nghiên cứu cấu
trúc xã hội như là một thực thể khoa học. Trong những năm 1920-1930,

xã hội học châu Âu đã hình thành trào lưu "xã hội học cấu trúc".
Tiếp đó, cũng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa
học kỹ thuật, của các q trình cơng nghiệp hố ở Mỹ, đồng thời sau hai
cuộc đại chiến thế giới, hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh, do vậy xã hội
học cũng xuất hiện ở Mỹ. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù bởi rất nhiều
vấn đề xã hội ở Mỹ có liên quan tới hành vi của cá nhân, nhóm xã hội
nên xã hội học ở Mỹ đã phát triển mạnh mẽ theo hướng tiếp cận từ hành
vi và hình thành trào lưu xã hội học hành vi.
11


Từ khi hình thành, mơn xã hội học phát triển nhanh chóng chủ yếu ở
hai khu vực châu Âu và Mỹ theo hai cách tiếp cận khác nhau: cấu trúc xã
hội và hành vi xã hội. Tuy nhiên từ năm 1960 đến nay, trên thế giới xã
hội học đã phát triển theo hướng phổ biến là thâm nhập vào nhau giữa xã
hội học Mỹ và xã hội học châu Âu. Xã hội học đã được giảng dạy và
nghiên cứu trong các trường phổ thông và các trường đại học ở châu Âu
lúc đầu ở Pháp, Đức rồi đến Anh...
Ở Việt Nam, xã hội học được hình thành và phát triển chậm hơn,
phải đến những năm 70 của thế kỷ XX mới trở thành môn khoa học và
được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học chủ yếu của khối xã hội
nhân văn. Hiện nay xã hội học cũng đang được mở rộng giảng dạy ở một
số trường thuộc khối kỹ thuật và quản trị kinh doanh. Nhìn chung, thời
gian qua việc nghiên cứu và giảng dạy môn xã hội học ở Việt Nam cũng
thu được một số kết quả nhất định, nhưng so với thế giới và để đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nước trong thời đại ngày nay xã hội học Việt
Nam cần được tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và mở rộng giảng dạy trong
các trường đại học và cao đẳng.
b. Điều kiện, tiền đề ra đời xã hội học
Cũng như các lĩnh vực khoa học khác, xã hội học xuất hiện không

phải ngẫu nhiên mà gắn với hoàn cảnh lịch sử, với các điều kiện tiền đề
nhất định. Nói cách khác, sự ra đời xã hội học là một tất yếu khách quan
do đòi hỏi của lịch sử.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX ở châu Âu xuất hiện cuộc cách
mạng công nghiệp (hay cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất) nhờ đó nhiều
nước đã xây dựng được nền sản xuất lớn đại cơng nghiệp cơ khí, năng
suất lao động cao. Kinh tế thị trường phát triển mạnh, thương mại được
mở rộng. Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất khẳng định chắc
chắn sự tồn tại xã hội tư bản, đồng thời từng bước xóa bỏ tận gốc những
đặc tính xã hội cũ tồn tại hàng trăm năm trước. Cuộc cách mạng cơng
nghiệp cùng với sự phát triển nhanh chóng kinh tế thị trường làm thay
đổi căn bản xã hội đương đại trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội... Bên cạnh đó nó cũng làm chuyển biến mạnh mẽ hình
thái các hoạt động xã hội và quan hệ xã hội.
12


Về kinh tế: Cơng cuộc cơng nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đã tạo được
một nền kinh tế hùng mạnh với nền sản xuất lớn đại công nghiệp. Việc
sử dụng máy móc cơ khí vào sản xuất phổ biến loại bỏ những công cụ
thủ công, với phương pháp lao động thủ công năng suất thấp. Sản xuất
được tập trung chuyên mơn hóa, quy mơ lớn thay thế kiểu sản xuất nhỏ
lẻ, tự phát, phân tán. Thành tựu của cuộc cách mạng cơng nghiệp và kinh
tế thị trường sau đó được K. Marx và F. Engels đánh giá rất cao. Trong
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" (năm 1848) hai ông đã khẳng định
mặc dù chủ nghĩa tư bản ra đời chưa đầy 100 năm mà đã tạo ra đống của
cải vật chất, sức sản xuất khổng lồ lớn hơn tất cả những gì các thế hệ
trước đấy cộng lại. Nền sản xuất lớn đảm bảo cho xã hội tư bản có được
khối lượng sản phẩm hàng hóa đồ sộ. Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản
về mặt kinh tế, K. Marx khẳng định chủ nghĩa tư bản biểu hiện ra là "một

đống khổng lồ hàng hóa chồng chất lại".
Phân cơng lao động mở rộng trên nhiều lĩnh vực, nhiều mức độ làm
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế. Công nghiệp, dịch vụ tăng
nhanh chóng cả về quy mơ và tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng về quy mô nhưng giảm tỷ trọng đóng
góp vào sản phẩm quốc nội so với công nghiệp và dịch vụ.
Sự phát triển kinh tế thị trường tư bản tạo nền tảng vật chất thúc đẩy
tiến bộ xã hội nói chung. Nhưng cũng do kinh tế thị trường phát triển
trong xã hội mang tính tự phát đã làm xuất hiện nhiều nguy cơ về mâu
thuẫn và xung đột xã hội. Bởi sự phát triển kinh tế thị trường luôn tiềm
ẩn yếu tố bất ổn định như lạm phát, khủng hoảng kinh tế, cạnh tranh
không lành mạnh... Kinh tế thị trường phát triển đòi hỏi phải có thị
trường tiêu thụ sản phẩm và đầu tư tư bản đã dẫn đến các cuộc chiến
tranh cướp giật thuộc địa. Ngoài ra, kinh tế thị trường tư bản với mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên giai cấp những người sở hữu sẵn sàng làm
mọi thứ để thỏa mãn nhu cầu làm giàu của mình, kể cả gây chiến tranh
và tội phạm.
Về chính trị - tư tưởng: Sự xuất hiện xã hội tư bản địi hỏi phải xóa
bỏ ngay lập tức kiểu quản lý xã hội và con người mang tính cưỡng chế
trực tiếp nơ dịch. Tiền đề để có nền kinh tế thị trường tư bản và chủ
nghĩa tư bản là hàng hóa sức lao động. Điều đó có nghĩa người lao động
13


phải được tự do, tự do theo nghĩa được quyền làm chủ sức lao động của
mình và được bán sức lao động để tồn tại. Các cuộc cách mạng dân chủ
tư sản thể hiện đỉnh cao nhu cầu của giai cấp tư sản đấu tranh để giải
phóng mình, thủ tiêu rào cản đối với sự phát triển chủ nghĩa tư bản, đồng
thời qua đó cũng gián tiếp giải phóng giai cấp nông dân khỏi ách nô lệ
của địa chủ phong kiến, hình thành quan hệ mới: tư bản - cơng nhân.

Cuộc cách mạng tư sản đã làm thay đổi thể chế chính trị, đánh dấu
thời kì tan rã của chế độ phong kiến thay vào đó là sự thống trị của giai
cấp tư sản, hình thành nhà nước tư sản, quyền lực chính trị chuyển sang
tay giai cấp tư sản. Giai cấp cơng nhân hình thành và có nhiều tiến bộ
nhờ những biến đổi về mặt nhận thức quyền con người, quyền bình đẳng,
quyền tự do… Con người được coi trọng hơn, được tự do hơn đó là sự
tiến bộ. Tuy nhiên thực chất đây chỉ là sự chuyển hóa về cách thức bóc
lột lao động trong khn khổ pháp quyền tư sản.
Sau thời gian tồn tại và phát triển khá êm đềm (tính từ thế kỷ XVII)
khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX những mâu thuẫn, xung đột ở
nhiều nước châu Âu trở nên trầm trọng. Cuộc cách mạng công nghiệp
trong chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển vượt bậc, giai cấp vô sản trưởng thành nhanh chóng.
Nhưng cùng với điều đó là tình trạng khủng hoảng kinh tế, nạn thất
nghiệp, bần cùng hoá đời sống người lao động... tăng nhanh, đã dẫn đến
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước châu Âu. Sự
đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển dần từ đấu tranh kinh tế sang
đấu tranh chính trị, từ tự phát sang tự giác có tổ chức. Giai cấp cơng nhân
dần trở thành lực lượng chính trị độc lập nhận thức đầy đủ hơn về sứ
mệnh lịch sử của mình.
Phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân xuất hiện sớm nhất ở
Anh vào năm 60 của thế kỷ XVIII (1760). Trong những cuộc đấu tranh
đầu tiên hiện tượng đập phá máy móc xuất hiện và tiếp tục cho đến đầu
những năm 20 của thế kỷ XIX. Phong trào đấu tranh của công nhân Anh
thể hiện tập trung nhất ở phong trào Hiến chương của giai cấp công nhân
Anh. Phong trào đấu tranh diễn ra với 3 cao trào từ năm 1839 đến năm
1848, với sự tham gia từ 1 đến 5 triệu công nhân. Ở Pháp, thợ tơ Lyon đã
tổ chức phong trào khởi nghĩa từ năm 1831 và 1834. Đây là cuộc khởi
14



nghĩa lớn của công nhân Pháp thời kỳ này. Công nhân ở Lyon đã đứng
lên biểu tình để phản đối việc chủ không chịu tăng lương. Các cuộc
khởi nghĩa này đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào công nhân Pháp
bởi lần đầu tiên họ bước lên vũ đài chính trị với tư thế là một lực lượng
chính trị độc lập. Đặc biệt phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
chuyển biến mạnh mẽ từ đấu tranh tự phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh
tế đến đấu tranh chính trị.
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản tiếp tục chuyển biến mạnh mẽ từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang độc quyền hóa cao độ. Quan hệ bóc lột
mở rộng không chỉ trong phạm vi các nước tư bản mà trên phạm vi quốc
tế thơng qua chính sách thơn tính thực dân. Mâu thuẫn xã hội do vậy gia
tăng nhanh chóng và trở nên hết sức căng thẳng, đa dạng. Sự tự do bóc
lột giai cấp cơng nhân của giai cấp tư sản và những bất đồng về chính trị
- xã hội làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mâu
thuẫn giữa các dân tộc ngày một gay gắt. Khi mâu thuẫn xã hội phát triển
tất yếu bùng nổ các cuộc cách mạng vơ sản cũng như cách mạng giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Cách mạng vô sản Pháp (1871) và
tiếp đó Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) là minh chứng thực tế về
cách thức giải quyết mâu thuẫn xã hội không thể đảo ngược.
Về mặt tư tưởng, dưới sức ép của nền sản xuất lớn và sự bất ổn của
nền kinh tế thị trường tư bản, hàng loạt những người sản xuất nhỏ bị phá
sản nên đã xuất hiện tư tưởng chống đối chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản
từ phía những người sản xuất nhỏ, tiểu tư sản. Điển hình cho trào lưu này
là Sismondi (1773 - 1842) nhà kinh tế học, xã hội học Thụy Sĩ nhưng chủ
yếu sống và làm việc ở Pháp. Tiếp đến sự xuất hiện chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp phê phán chủ nghĩa tư bản dưới góc độ kinh tế, đấu
tranh chống lại áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đương thời. Tuy
nhiên, giai cấp công nhân lúc này chưa thực sự trở thành lực lượng chính
trị độc lập, phong trào cơng nhân chưa mang tính tự giác nên lý luận của

các học thuyết này chỉ biểu hiện ra dưới hình thức tư tưởng, ước mơ về
một xã hội tương lai tốt đẹp mà thôi. Ra đời trong điều kiện đó, học
thuyết của các nhà xã hội chủ nghĩa khơng tưởng là biểu hiện sự bất bình
tự phát của giai cấp công nhân và quần chúng lao động đối với chủ nghĩa
tư bản và tìm đường xây dựng một xã hội công bằng và hạnh phúc. Tiêu
15


biểu là các nhà lý luận như Saint Simon (1760-1825), Charles Fourier
(1772-1837) ở Pháp và Robert Owen (1771-1858) ở Anh. Có thể nói chủ
nghĩa xã hội khơng tưởng Pháp là mầm mống tư tưởng trực tiếp cho sự ra
đời của xã hội học.
Vấn đề văn hóa - xã hội: Trải qua những thăng trầm của lịch sử, cuối
thế kỷ XVIII, với sự bùng nổ của sản xuất công nghiệp gắn với nó là q
trình đơ thị hóa và những bất ổn trong đời sống xã hội gia tăng, khoa học
và kỹ thuật phát triển mạnh làm xuất hiện nhiều vấn đề xã hội mới, phức
tạp đòi hỏi phải nghiên cứu một cách khoa học, hệ thống. Cùng với sự
mở rộng nền dân chủ tư sản và thể chế tự do tư bản là môi trường tốt cho
việc nghiên cứu xã hội. Xã hội học do đó được phát triển mạnh và khẳng
định vai trị, vị trí của mình trong hệ thống các lĩnh vực nghiên cứu khoa
học xã hội.
Sản xuất công nghiệp phát triển, thương mại mở rộng, nhiều nhà
máy, xí nghiệp ra đời đã thu hút nhiều lao động, đặc biệt là lao động từ
nông thôn ra thành thị. Sự biến đổi kinh tế đã làm biến đổi sâu sắc đời
sống văn hóa - xã hội. Sự biến đổi kinh tế cũng làm cho hệ thống tổ chức
xã hội phong kiến bị xáo trộn mạnh mẽ. Cuộc sống đô thị thay thế dần
cách sống, kiểu sống nông thôn. Các phong tục, tập quán lối sống truyền
thống cũ được thay dần bằng nhịp sống hiện đại của cư dân đô thị. Văn
hóa thay đổi nhanh chóng bởi lối sống thực dụng của kinh tế thị trường.
Cấu trúc gia đình biến đổi do cá nhân dần rời bỏ cộng đồng có tính huyết

thống, truyền thống cũ, cùng với sự thay đổi vai trị của vợ chồng trong
quan hệ gia đình. Quyền lực trong tôn giáo bị giảm xuống bởi sự phát
triển, tiến bộ của khoa học công nghệ và sự suy vong của tầng lớp địa
chủ phong kiến.
Kết cấu giai cấp trong xã hội thay đổi mạnh mẽ với sự hiện diện của
hai giai cấp chính mâu thuẫn đối kháng là giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản. Bên cạnh vẫn tồn tại một bộ phận đáng kể các tầng lớp thuộc giai
cấp tiểu tư sản như những người tiểu sản xuất, tiểu thương, tri thức... Cấu
trúc xã hội mới thay thế xã hội truyền thống vốn đã tồn tại hàng nghìn
năm trước đó.
Trước những biến động mạnh mẽ và sâu sắc hầu hết mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội... làm
16


xuất hiện ngày càng nhiều "vấn đề xã hội" mà các khoa học khác như
triết học, chính trị học, kinh tế học... khó giải thích một cách thấu đáo địi
hỏi có một lĩnh vực khoa học có khả năng nghiên cứu sâu, chi tiết hơn.
Tóm lại, sự xuất hiện của hệ thống tư bản đã phá vỡ trật tự xã hội cũ,
làm xáo trộn đời sống xã hội của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã
hội. Từ đó đặt ra nhu cầu giải quyết những vấn đề mới mẻ của xã hội
đang nảy sinh từ cuộc sống đầy biến động và phải lập lại trật tự xã hội
một cách ổn định trên thực tế. Xã hội học ra đời đáp ứng nhu cầu tất yếu
đó. Người đi đầu trong ngành khoa học này là nhà triết học người Pháp:
August Comte.
3. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
Đã có đến hàng trăm quan niệm khác nhau về đối tượng của xã hội
học, nhưng suy cho cùng đều có thể quy về một trong ba cách tiếp cận
chính:
Một là, cách tiếp cận thiên về con người (xã hội học vi mô): Cách

tiếp cận này cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học là hành vi xã
hội hay hành động xã hội của con người. Nói cách khác, đó là hành vi cá
nhân, các cơ chế hình thành các hành vi đó bao gồm các tương tác giữa
các cá nhân, sự hình thành động cơ và các tác nhân hành động của nhóm.
Đây chính là cách tiếp cận của trường phái xã hội học Mỹ - xã hội học vi
mô, khoa học về hành vi xã hội của cá nhân và nhóm. Trường phái này
chịu ảnh hưởng của thuyết hành vi và chủ nghĩa thực dụng theo hiện
tượng luận.
Hai là, cách tiếp cận thiên về xã hội (xã hội học vĩ mô): Với cách
tiếp cận này đối tượng nghiên cứu của xã hội học là cả xã hội lồi người,
đó là tính chỉnh thể của tổ chức xã hội, tính hệ thống của xã hội trong
mối quan hệ chi phối cá nhân. Các khái niệm mà cách tiếp cận này
thường xuyên đề cập đến là văn hoá, thiết chế xã hội, hệ thống và cấu
trúc xã hội... các q trình xã hội rộng lớn. Đây chính là cách tiếp cận
của trường phái xã hội học châu Âu, xã hội học vĩ mô do ảnh hưởng
mạnh mẽ của triết học thực chứng và thuyết tiến hoá của Charles Darwin.
Ba là, cách tiếp cận "tổng hợp" cả con người và xã hội: Theo cách
này, xã hội học vừa nghiên cứu hành vi con người vừa nghiên cứu hệ
17


thống xã hội. Cách tiếp cận này tuy đã đề cập nghiên cứu cả con người
và xã hội song vẫn mang tính rời rạc, chưa có sự liên kết, chưa thể hiện
được tính "tổng hợp" trong đối tượng nghiên cứu. Cũng từ cách tiếp cận
này dễ gây nhầm lẫn rằng xã hội học có hai đối tượng nghiên cứu.
Rõ ràng mỗi cách tiếp cận đều có những mặt tích cực, nhấn mạnh
một khía cạnh khơng thể thiếu khi nghiên cứu xã hội học. Tuy nhiên cả
ba cách tiếp cận trên cũng bộc lộ những mặt hạn chế, thiếu sót nhất định.
Bởi con người và xã hội tồn tại không tách rời nhau và đều là những
khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học nên phải chăng xã hội học

khơng có đối tượng nghiên cứu rõ ràng?
Gần đây, nhiều nhà xã hội học hiện đại đưa ra và chấp nhận cách
tiếp cận "tích hợp" hay "hỗn hợp". Theo cách tiếp cận này, đối tượng
nghiên cứu của xã hội học không phải chỉ là con người hay xã hội hoặc
cả con người lẫn xã hội mà là nghiên cứu mối liên hệ hữu cơ, mối quan
hệ biện chứng, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau giữa một bên là
con người với tư cách là cá nhân, nhóm với một bên là xã hội với tư cách
là hệ thống là cơ cấu hay cấu trúc xã hội.
Vậy đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người xã hội, nói
cách khác nghiên cứu mặt xã hội của con người, nghiên cứu yếu tố con
người thể hiện qua mọi quan hệ xã hội, mọi lĩnh vực hoạt động xã hội.
Xã hội học nghiên cứu hành vi của con người vì mọi suy nghĩ, mọi hành
động của con người đều được thể hiện qua hành vi nhất định. Những
hành vi của con người có biểu hiện ngẫu nhiên nhưng hầu như khơng
hồn tồn tùy tiện mà ln bị chi phối bởi những khn mẫu xã hội nhất
định tùy thuộc vào vai trị, vị thế của cá nhân trong xã hội hay bối cảnh
xã hội nào đó.
Tuy vậy con người xã hội khơng tồn tại độc lập mà luôn bị tác động,
chi phối bởi nhóm xã hội thậm chí cả cộng đồng nên hành vi của con
người cũng tác động hay bị tác động, chi phối hay bị chi phối bởi cộng
đồng xã hội. Điều đó có nghĩa xã hội học nghiên cứu hành vi con người
trong mối quan hệ tương tác với cộng đồng xã hội.
Đồng thời xã hội học cũng nghiên cứu xã hội về mặt là cấu trúc,
thiết chế được tạo bởi con người và trở lại quy định hành vi của con người.
18


Nói cách khác xã hội học khơng nghiên cứu xã hội nói chung cũng khơng
đi nghiên cứu cụ thể các "vấn đề xã hội" như nghèo đói, tệ nạn xã hội...
mà nghiên cứu xã hội như là kết quả được tạo bởi hành động xã hội của

con người đồng thời chi phối, quy định hành động, hành vi của con người.
Nghiên cứu xã hội học đòi hỏi phải kết hợp việc nghiên cứu các cá
nhân với tư cách là chủ thể xã hội, đồng thời nghiên cứu mối liên hệ xã
hội của các cá nhân đó để làm rõ các phạm trù rất cơ bản của xã hội như:
chủ thể xã hội, hành động xã hội, hoạt động xã hội, cơ cấu xã hội, quan
hệ xã hội, thiết chế xã hội, tương tác xã hội… Khơng có chủ thể xã hội
(có thể là cá nhân hay nhóm xã hội) thì khơng có xã hội. Nhưng xã hội
khơng phải là phép cộng cơ học của các chủ thể đó mà là tổng hợp, tích
hợp của các chủ thể trong mối liên hệ tương tác với nhau. Nói cách khác,
xã hội học nghiên cứu con người nhưng không phải cô lập mà được đặt
trong mối liên hệ hữu cơ giữa những con người với nhau, đồng thời xã
hội học cũng nghiên cứu xã hội thông qua hành động, tương tác và quan
hệ của con người.
Nhưng phải chăng như vậy đối tượng nghiên cứu của xã hội học vẫn
chưa rõ ràng hay có nhiều đối tượng nghiên cứu khác nhau? Vấn đề ở
đây không phải là hành vi cá nhân, hay là xã hội hoặc cả hai mà chính là
quan hệ giữa cá nhân với xã hội. Con người tạo ra xã hội, ngược lại xã
hội tạo ra con người. K. Marx lập luận "xã hội tạo ra con người, như con
người, hệt như con người tạo ra xã hội"1.
Mặc dù cịn có nhiều cách hiểu chưa hồn tồn thống nhất nhưng
nhìn chung các nhà xã hội học đều có một điểm khá đồng nhất về đối
tượng nghiên cứu xã hội học đó là các quy luật và tính quy luật hay xu
hướng của sự phát sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa con
người và xã hội; nhấn mạnh quan hệ giữa con người và xã hội được biểu
hiện qua hành vi xã hội, hành động xã hội, tương tác xã hội của con
người và bị chế ước bởi các cấu trúc xã hội, thiết chế xã hội. Cái đích của
nghiên cứu xã hội học là tìm ra các quy luật và xu hướng của sự phát
sinh, phát triển và biến đổi của các quan hệ xã hội, tương tác giữa các
chủ thể xã hội cùng các hình thái biểu hiện của chúng. Các quy luật quan
1


Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tr.30

19


hệ xã hội của con người vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù
và có tính lịch sử.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN XÃ HỘI HỌC
1. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu môn xã hội học
Nhận thức xã hội học là một quá trình hết sức phức tạp, trong đó con
người, một trong những chủ thể cấu thành xã hội, đồng thời là lực lượng
tạo ra các mặt đời sống xã hội, là những thế giới thu nhỏ vơ cùng phong
phú và sinh động. Vì vậy, nghiên cứu xã hội học cần chú ý các quan
điểm sau:
a. Quan điểm tồn diện
Lê Nin nói "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ giao tiếp"
của sự vật đó"1. Xuất phát từ tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ
cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần có quan điểm tồn
diện. Khi nghiên cứu một vấn đề xã hội nào đó, phải đặt vấn đề đó vào
trong mối tương quan. Cơ sở của quan điểm này là mối liên hệ chằng
chịt, qua lại giữa các mặt của đời sống xã hội. Quan điểm tồn diện địi
hỏi trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn cần phải xem xét sự
vật trong mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa
các mặt của sự vật, hiện tượng cũng như sự tác động qua lại giữa chúng
với nhau. Ví dụ, một sinh viên học giỏi chưa hẳn đã là người có nhân
cách tốt vì con người vốn là "tổng hịa" các quan hệ xã hội.
Việc nghiên cứu một vấn đề nào đó tách rời khỏi toàn bộ các vấn đề
khác thường dẫn đến các kết luận hời hợt, thiếu sót và dĩ nhiên có độ

chính xác thấp. Quan điểm tồn diện giúp chúng ta khắc phục được tính
hẹp hịi, phiến diện trong nghiên cứu xã hội học.
b. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Quan điểm lịch sử - cụ thể bắt nguồn từ tính chất đa dạng, phong
phú của các mối liên hệ đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
cần có quan điểm lịch sử - cụ thể song song với quan điểm toàn diện.
1

Lê Nin (1980), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Tr.364

20


Lịch sử - cụ thể là việc nhận thức và xử lý các tình huống hoạt động thực
tiễn cần phải xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình
huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Căn cứ vào vị trí, vai trị
khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể để từ đó có những nhận định, giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Mọi
sự vật, hiện tượng, con người và xã hội luôn vận động biến đổi nên hành
vi, hành động của con người thay đổi, qua đó các giá trị chuẩn mực xã
hội cũng thay đổi theo. Ví dụ, trong xã hội phong kiến ở Việt Nam trước
đây con cái khi xây dựng gia đình đều do cha mẹ quyết định (cha mẹ đặt
đâu, con ngồi đó), nhưng ngày nay trong xã hội dân chủ, quan niệm đó
đã dần được thay đổi.
Quan điểm lịch sử cụ thể giúp người nghiên cứu có cách nhìn khách
quan, khoa học về các nội dung của xã hội học, từ đó có cách nhìn nhận
sự việc, hiện tượng, các mối quan hệ xã hội một cách hài hòa giữa "cổ
xưa", hiện tại và định hướng tương lai. Quan điểm này giúp cho các nhà
nghiên cứu và quản lý xã hội tránh được tình trạng máy móc, duy ý chí.
c. Quan điểm hệ thống

Các vấn đề xã hội là các mắt xích trong hệ thống phức tạp cả về
chiều dọc lẫn chiều ngang. Xét về chiều dọc, vấn đề nào đó thường là bộ
phận của một vấn đề lớn hơn. Xét về chiều ngang, vấn đề nghiên cứu
thường là kết quả của một số nguyên nhân, đồng thời nó lại là nguyên
nhân của một kết quả xã hội khác. Xã hội là một hệ thống trong đó các cá
nhân hay nhóm xã hội là một bộ phận có sứ mệnh, vai trị, vị trí riêng.
Nghiên cứu xã hội là nghiên cứu mối liên hệ gắn kết, chi phối lẫn nhau
giữa các cá nhân và nhóm xã hội. Ngược lại, nghiên cứu con người hay
nhóm xã hội là nghiên cứu bộ phận của hệ thống xã hội, chịu sự chi phối,
điều khiển của hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu một vấn đề xã hội nào đó
phải đặt nó trong một hệ thống mà nó đang tồn tại. Ví dụ, khi nghiên cứu
công tác quản lý đối với cá nhân, bộ phận nào đó trong cơng ty, doanh
nghiệp hay một đơn vị chúng ta thường quan tâm đến sơ đồ bộ máy tổ
chức của đơn vị đó. Từ đó, chúng ta sẽ có nhiều nội dung súc tích để xem
xét, khảo sát, lý giải và kết luận một cách đầy đủ, có hệ thống chặt chẽ.
21


d. Quan điểm thực tiễn
Xét cho cùng, phương pháp nghiên cứu xã hội học đều dựa trên cơ
sở thực nghiệm, tức là xuất phát từ nhu cầu thực tế, quan sát hiện tượng
hoặc quá trình thực tế tìm ra cách lý giải vấn đề dựa trên các luận chứng
thực tế. Khi kết luận vấn đề nào đó cũng có sự đối chiếu, so sánh với
thực tế bằng phương pháp kiểm định thực tế. Sở dĩ như vậy là vì hiện
tượng và q trình xã hội thường trừu tượng, nếu khơng bám sát thực tế
sẽ có nhiều cách lý giải khác nhau tùy theo đối tượng nghiên cứu, góc độ
nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, thời gian nghiên cứu... Ví dụ, khi điều
tra các nghi can trong các vụ án người làm công tác điều tra thường yêu
cầu họ "diễn lại" hành vi của mình, nếu phù hợp cơ quan điều tra mới
đưa ra kết luận. Các kết quả nghiên cứu hay các mơ hình khơng được

kiểm chứng bằng thực tiễn chỉ là lý thuyết sng hay mơ hình lý thuyết
và khơng có giá trị thực tế. Chỉ có qua cọ xát, đối chiếu thực tế mới có
thể chứng minh hoặc lý giải được hợp lý nhất.
Nhiều chuyên gia xã hội học đã chỉ ra một số yếu tố đặc thù khi
nghiên cứu môn khoa học xã hội đặc thù này: Một là, nhìn "cái chung"
thơng qua "cái riêng", tìm khn mẫu xã hội qua thao tác cá nhân cụ thể.
Hai là, nhìn "cái lạ" thơng qua "cái quen", vì con người được hình thành
phần nhiều từ khn mẫu xã hội, hành động theo khuôn mẫu xã hội. Và
ba là, chủ động đặt mình trong hồn cảnh cụ thể hoặc tách mình khỏi
hồn cảnh để kiểm nghiệm. Chẳng hạn một người bị đặt ra bên lề xã hội
sẽ có cách nhìn và khả năng nhìn nhận xã hội sâu sắc hơn.
2. Phương pháp nghiên cứu môn xã hội học
Liên quan đến thuật ngữ xã hội học, có thể có hai cách tiếp cận
phương pháp nghiên cứu: Phương pháp xã hội học khi nghiên cứu các
lĩnh vực xã hội và phương pháp nghiên cứu môn xã hội học. Về cơ bản
cả hai cách tiếp cận này đều là tổng hợp các phương pháp, kỹ thuật và
cách thức nghiên cứu xã hội học nhằm làm sáng tỏ bản chất, những đặc
trưng, cơ cấu, xu hướng và tính quy luật của các hiện tượng và quá trình
xã hội. Tuy nhiên phạm vi ứng dụng, công cụ sử dụng (các phạm trù,
khái niệm, chỉ tiêu...) theo các cách tiếp cận có tính chất đặc thù tùy lĩnh
vực xã hội mà chúng ta nghiên cứu.
22


Trong nghiên cứu xã hội học, ngoài việc phải xác định được vấn đề
nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, xây dựng các giả thiết khoa học, giới
hạn phạm vi nghiên cứu, các tình huống... chúng ta cần sử dụng tổng hợp
nhiều phương pháp và công cụ nghiên cứu. Về cơ bản có thể chia thành
ba nhóm, cụ thể:
a. Phương pháp phân tích tư liệu

Phân tích tư liệu là xem xét các tài liệu có sẵn trong kho thơng tin
lưu trữ và các nguồn khác để nghiên cứu vấn đề cần thiết, không phải
làm các cuộc phỏng vấn điều tra. Đây là phương pháp giúp người nghiên
cứu có được những số liệu, tư liệu thứ cấp, thậm chí là những phân tích,
kết luận có sẵn phục vụ cho việc nghiên cứu có luận cứ rõ ràng và ít tốn
kém. Các nguồn tư liệu này được tập hợp từ các cá nhân hay cơ quan
nghiên cứu, các cơ quan quản lý (các báo cáo, số liệu thống kê...), các tổ
chức chính trị xã hội... hay các phương tiện thông tin đại chúng như sách,
báo, tạp chí, internet... Về đại thể có thể quan niệm đây là phương pháp
thu thập và phân tích các tư liệu thứ cấp trong nghiên cứu xã hội học.
Cốt lõi của phương pháp này là sưu tầm được đúng và đầy đủ các tư
liệu cần thiết cho nội dung nghiên cứu. Muốn vậy người nghiên cứu phải
xác định đúng những tư liệu cần, nguồn cung cấp tư liệu, cách khai thác
tư liệu... Ví dụ, để đánh giá được xu hướng và mức độ phân tầng xã hội ở
Việt Nam hiện nay (dưới góc độ thu nhập, mức sống) chúng ta cần tư
liệu nào? ở đâu?
Trước đây công việc này rất khó khăn và mất rất nhiều thời gian,
nhưng hiện nay cơng việc này dễ dàng hơn vì có nhiều nguồn thơng tin.
Nhưng khó khăn là phải chọn lọc đúng được những tư liệu đang cần.
Phân tích tư liệu là phương pháp được dùng rất phổ biến vì khơng
tốn chi phí và cơng sức điều tra, và những vấn đề khơng có điều kiện
thuận lợi để điều tra. Nhưng phương pháp này cũng có hạn chế vì người
nghiên cứu dễ bị rối trước nguồn tư liệu quá nhiều hay độ tin cậy của
nguồn tư liệu thấp, nhất là khi số liệu thống kê, báo cáo không chuẩn xác.
b. Các phương pháp thu thập, xử lý thơng tin
Đây là nhóm các phương pháp cụ thể nhằm thu thập, tập hợp và xử lý
thông tin ban đầu, tư liệu sơ cấp. Nhóm các phương pháp này thường gồm:
23



* Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp nghiên cứu những biểu hiện bên ngoài của
tâm lý con người (hành động, cử chỉ, ngôn ngữ…) diễn ra trong sinh hoạt
của con người, qua đó có thể suy ra những quá trình tâm lý bên trong.
Đây là phương pháp thu thập thông tin thực nghiệm từ khách thể nghiên
cứu thông qua các giác quan để nghe, nhìn, cảm xúc... là công cụ quan
trọng cho việc thu nhận thông tin từ thực tế. Ngoài việc sử dụng các giác
quan để thu thập tài liệu, người quan sát có thể dùng máy ảnh, máy ghi
âm, camera...
Tùy theo mức độ chuẩn bị, cách thức, tính chất quan sát... có thể
chia phương pháp quan sát làm nhiều cách.
- Về phạm vi quan sát có: Quan sát tổng hợp và quan sát chi tiết.
Quan sát tổng hợp là quan sát chung phục vụ mục tiêu nghiên cứu chung,
rộng, nhiều vấn đề. Quan sát chi tiết tập trung vào một hiện tượng, một
hành vi... cụ thể của đối tượng nghiên cứu.
- Dựa vào mức độ chuẩn bị của quan sát người ta chia ra thành:
Quan sát có chuẩn mực và quan sát khơng chuẩn mực. Quan sát có chuẩn
mực đi vào các yếu tố có ý nghĩa nhất của các đối tượng nghiên cứu để
tập trung chú ý. Thường dùng để kiểm tra kết quả nhận được của phương
pháp khác hoặc để nhận thức sâu về các đối tượng. Quan sát không
chuẩn mực chưa xác định các yếu tố có ý nghĩa. Phương pháp này được
dùng phổ biến cho lúc khởi đầu nghiên cứu. Quan sát không chuẩn mực
là loại quan sát mà người quan sát chưa xác định được trước các yếu tố
của đối tượng nghiên cứu.
- Theo mức độ tham gia của người quan sát phương pháp quan sát
cũng được chia làm hai loại: Quan sát có tham gia và quan sát khơng tham
gia. Quan sát có tham gia là khi người quan sát gia nhập vào hoạt động
của nhóm người bị quan sát. Ngược lại, quan sát không tham gia áp dụng
khi người quan sát không tham gia vào hoạt động của người bị quan sát.
Quan sát có tham gia có kết quả cao hơn nhưng nếu bị phát hiện thì

kém hiệu quả thậm chí phản tác dụng, gây nguy hiểm cho việc nghiên
cứu và người thực hiện quan sát. Quan sát không tham gia kết quả ít hơn
nhưng dễ giữ bí mật.
24


- Dựa vào mật độ thực hiện quan sát, có quan sát một lần và quan sát
nhiều lần. Quan sát nhiều lần độ chính xác cao hơn tuy nhiên phức tạp,
tốn kém hơn đối với người quan sát và dễ gây phức tạp, phiền nhiễu cho
người bị quan sát.
Ngoài ra cịn có quan sát cơng khai và quan sát bí mật. Quan sát
công khai là người thực hiện quan sát công khai mọi yêu cầu (thời gian,
mức độ, nội dung...) cho người bị quan sát biết. Cịn quan sát bí mật là
người quan sát giữ kín, khơng tiết lộ mọi thứ cho người bị quan sát biết.
Quan sát muốn đạt kết quả thường được tổ chức từ hai đến ba người
cùng làm, sau đó đối chiếu, tổng hợp. Ngồi ra, cũng nên quan sát bí mật,
vì nếu người ta biết mình đang bị quan sát sẽ khơng tự nhiên, các cử chỉ
sẽ trở nên gị bó khơng phản ánh đúng sự thực nữa.
Khi sử dụng phương pháp quan sát trong nghiên cứu xã hội học cần
lưu ý:
- Phải xác định rõ đối tượng, mục đích, khơng gian, thời gian... của
việc quan sát.
- Mỗi một cách quan sát đều có ưu điểm nhưng cũng có hạn chế
riêng. Bởi vậy khi thực hiện quan sát, người quan sát phải biết lựa chọn
cách thức, công cụ, phương tiện quan sát phù hợp. Quan sát có một
nhược điểm là số đối tượng được quan sát thường không được nhiều, do
phải tốn người, tốn công quan sát. Vì vậy, phương pháp quan sát chỉ
dùng nếu phạm vi nghiên cứu hẹp, số đối tượng hạn chế.
* Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn
Phương pháp đàm thoại: Phương pháp đàm thoại là nói chuyện giữa

người nghiên cứu và đối tượng. Đây là phương pháp hay được áp dụng vì
nó có hiệu quả. Nếu trị chuyện trong một khơng khí thân mật, chân
thành, tin cậy, thoải mái có thể khiến người ta bộc lộ tâm tình, từ đó có
thể hiểu được tâm trạng, cảm xúc, thái độ đối với vấn đề cần tìm hiểu.
Có thể đàm thoại trực tiếp vào nội dung cần tìm hiểu, nếu vấn đề dễ
bàn luận, nhưng cũng có thể phải đi vịng, nếu vấn đề tế nhị dễ đụng chạm.
Để đàm thoại đạt kết quả phải:
- Xác định rõ mục tiêu để lái câu chuyện sang hướng cần nghiên cứu.
25


×