Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

PHONG TRÀO THƠ mới (1932 1945 )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.64 KB, 8 trang )

PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932 – 1945)
Kết quả cần đạt
Giúp học sinh:
- Nắm được những nét chính về quá trình phát triển, đặc điểm cơ bản và
những đóng góp chủ yếu của Phong trào thơ mới
- Vận dụng các kiến thức đã học để luyện tập ( trắc nghiệm và tự luận).
- Có thái độ yêu mến, trân trọng các giá trị tốt đẹp của Phong trào thơ mới.
Trong những năm đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước xuất hiện một dòng
thơ ca thuộc khuynh hướng lãng mạn. Đó là Thơ mới (hay còn gọi là Thơ mới lãng
mạn). Thơ mới là một cuộc cách mạng thơ ca trong tiến trình lịch sử văn học dân
tộc ở thế kỷ 20. Sự xuất hiện của Thơ mới gắn liền với sự ra đời của Phong trào
thơ mới 1932-1945. Phong trào thơ mới đã mở ra “một thời đại trong thi ca”
1
,

mở
đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.
I- Hoàn cảnh lịch sử xã hội.
Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định
của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng
lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự
xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu
thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn
đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945.
Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành,
các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa,
một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư
sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và
không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách
để giữ vững nhân cách của mình.
Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức


Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua
tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương
Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác.
II- Các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới .
Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo
bản nhạc đầu tiên trong bản hòa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là
“gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, được Hoài Thanh - Hoài Chân xếp
đầu tiên trong số 46 tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới. Và đến ngày 10-3-1932
khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài
1
tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của
Phong trào thơ mới chính thức bắt đầu.
Có thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành
ba giai đọan
2
:
1- Giai đoạn 1932-1935:
Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài
khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy
Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối,
bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư
kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay
vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt
bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà,
Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ
mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và
sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới.
Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới
với tập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng
Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …

2- Giai đoạn 1936-1939:
Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên
nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọan này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn
như Xuân Diệu (tập Thơ thơ -1938), Hàn Mặc Tử (Gái quê -1936, Đau thương
-1937), Chế Lan Viên (Điêu tàn - 1937), Bích Khuê (Tinh huyết - 1939), … Đặc
biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa
mới bước vào làng thơ “đã được người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn”
3
. Xuân
Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này.
Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh
hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích
bằng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang
đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật.
Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho
mình một cách thoát ly riêng.
3- Giai đoạn 1940-1945:
Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ
Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập
có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ
Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê,…
Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc
cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai
cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc
2
lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và
bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận
những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới
mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát.
III- Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới

Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận địnhh “Thơ mới là
một hiện tượng văn học đã có những đóng góp vào văn mạch của dân tộc”… “
Trong phần tốt của nó, Thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu
tiếng nói của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ
mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa”… “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu
quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ
mới một cách đậm đà đằm thắm”
4
.
1- Tinh thần dân tộc sâu sắc
Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thời
kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ
1925-1931 (mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi
nghĩa Yên Bái). Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được “tung hoành hống hách những
ngày xưa” (Nhớ rừng); Huy Thông thì khát khao:
“Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng
Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”.
Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt.
Nghe tiếng ru của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hồn thiêng đất nước”
trong từng câu ca:
“Nằm trong tiếng nói yêu thương
Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”.
Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày
càng trong sáng và giàu có hơn.
Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của
ngưòi nghệ sĩ không được tự do (Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Trần Huyền
Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm) …
2- Tâm sự yêu nước thiết tha
Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ
mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng

trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp
(Em đi Chùa Hương); hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ
Huy Cận (Đẹp xưa); hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh
(Quê hương) v.v… Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng
quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao: Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ,
Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến
3
nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê
hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước.
Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, Phong trào thơ mới còn
bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không
tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt
đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu
sau cách mạng tháng Tám.
IV- Đặc điểm nổi bật của Phong trào thơ mới
1. Sự khẳng định cái Tôi
Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một
nền văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện
trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến Phong trào thơ mới, cái Tôi
ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là
sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa
chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới.
Ý thức về cái Tôi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu
hiện. Cái Tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của
thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người
bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước
ra “trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong
trào thơ mới lên tiếng trước:
- “Tôi là con chim đến từ núi lạ …”,
- “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…

Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:
“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!”
Thoảng hoặc có khi lại là “Ta”:
“Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”.
“ Thơ mới là thơ của cái Tôi”
5
. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố
gắng cuối cùng để khẳng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn
mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
2 . Nỗi buồn cô đơn
Trong bài “Về cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ
mới buồn, buồn nhiều”, “Cái buồn của Thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc
nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa
tìm thấy lối ra”
6
.
4
Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng
thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với
hình ảnh:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”.
(Lưu Trọng Lư ).
Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” (tức dân Chàm):
“Đường về thu trước xa xăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi”
Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao xác
gà trưa gáy não nùng” còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn nghe như máu

ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải là người buồn nhiều, đau
buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà một phút huy
hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ
mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng
với đời và với chính mình.
3. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu
Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc
mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ”
7
. Cảm hứng về thiên nhiên và tình
yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc,
âm thanh, tràn trề sự sống.
Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính:
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”.
Và đây là hình ảnh buổi trưa hè:
“Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy và bướm vàng nữa chứ”
(Huy Cận).
Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:
“Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rủ trước thành”
tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam.
Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới.
“Ông hoàng của thơ tình” Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên:
“Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”.
Chu Văn Sơn cho rằng “Xuân Diệu coi tình yêu như một tôn giáo” nhưng là một
“thứ tôn giáo lãng mạn, tôn giáo nghệ sĩ”

8
.
5
Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng nỗi
cô đơn sầu não:
“Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”.
Cảm xúc ấy không phải là một ngoại lệ. Nhà thơ Huy Cận cho rằng “Cái đẹp bao
giờ cũng buồn” (Kinh cầu tự) và cảm nhận được sự tận cùng của nỗi buồn cô đơn
“sầu chi lắm, trời ơi, chiều tận thế”. Nhà thơ triết lý về điều này một cách sâu sắc:
“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.
4. Một số đặc sắc về nghệ thuật
Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền
văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật
sâu sắc.
Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần
dần trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn,
thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình
Liên), Em đi chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, T.T.KH chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn
Bính, Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát v.v…
Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần (độc vận)
mà dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường thiên: vần ôm, vần lưng, vần
chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo một trật tự nhất định:
“Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao nghe réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt
Mây bay… gió quyến, mây bay
Tiếng vi cút như khoan như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may”

(Thế Lữ).
Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây
là những câu thơ toàn thanh bằng:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(Xuân Diệu)
hay
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi!
Vàng rơi!
Thu mênh mông”
(Bích Khê)
6
Ngoài việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp một
cách linh hoạt:
“Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!” (Xuân Diệu)
Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ Thơ mới diễn ra khá
rầm rộ. Thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của “Thơ
cũ”, Thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo hình
và gợi cảm sâu sắc:
“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều”
(Xuân Diệu)
hay
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc dưới sông trôi”
(Anh Thơ)
Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình tượng, cảm
xúc của ngôn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác, bằng

màu sắc hội họa của thơ mới. Đây là bức tranh “Mùa xuân chín” được Hàn Mặc Tử
cảm nhận qua màu sắc và âm thanh:
“Trong làn nắng ửng, khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang”.
5. Sự ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp.
Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và
Thơ mới chủ yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ lại những mặt
tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư
Dị, Trong bài Tràng giang, Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu để bày tỏ lòng
yêu nước:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ tiếng Việt càng phong phú giàu
có thêm, tinh tế hơn thì sự ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần cho Thơ mới
sáng tạo về thi hứng, bút pháp và cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Một trong những
nhà thơ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy Thông, về sau là
Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,…Hầu hết các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng khá sâu sắc
chủ nghĩa tượng trưng của thơ ca lãng mạn Pháp mà đại biểu là Budelaire,
Verlaine, Rimbaud. Sự ảnh hưởng ấy diễn ra trên nhiều bình diện: từ cách gieo
vần, ngắt nhịp đến cách diễn đạt. Ta có thể tìm thấy điều này ở các bài Nguyệt
Cầm, Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Đi giữa đường thơm (Huy Cận), Màu thời
gian (Đoàn Phú Tứ). Một số bài thơ trong tập Tinh huyết (Bích Khê), Thơ điên
7
(Hàn Mặc Tử), Thơ say (Vũ Hoàng Chương) chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái
suy đồi của thơ ca Pháp (các bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud, Tương hợp
của Budelaire …).
Trong bài “Thơ mới-cuộc nổi loạn ngôn từ” Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về
hệ thống ngôn từ Thơ mới “Thơ mới là bản hòa âm của hai nền văn hóa xa nhau

vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”
9
. Đó là sự giao thoa tiếng Việt với thơ
Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca
lãng mạn Pháp đối với Phong trào thơ mới không tách rời nhau. Điều này cho thấy
tác động và ảnh hưởng từ nhiều phía đối với Thơ mới là một tất yếu trong quá trình
hiện đại hóa thơ ca. Chính sự kết hợp Đông -Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân
tộc và sức hấp dẫn riêng của Thơ mới.
Sau 75 năm, kể từ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới đã có chỗ
đứng vững chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua thời gian, những giá trị tốt
đẹp của Phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử thách và có sức
sống lâu bền trong lòng các thế hệ người đọc.

CHÚ THÍCH:
1- Một thời đại trong thi ca (Thi nhân Việt Nam, Hòai Thanh-Hoài Chân, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1993, trang 15)
2- Trong cuốn Văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 (NXB Giáo dục, 2002),
Phan Cự Đệ chia làm 2 giai đoạn: 1932-1939 và 1940-1945
3- Thi nhân Việt Nam (Sđd, trang 106)
4- Về Thơ mới (Huy Cận, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 12)
5- Thơ mới, những bước thăng trầm (Lê Đình Kỵ, NXB TP. Hồ Chí Minh,
1993, trang 46)
6- Về cái buồn trong Thơ mới (Hoài Chân, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong
thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 23)
7- Về Thơ mới (Huy Cận, Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 9)
8- Ba đỉnh cao Thơ mới (Chu Văn Sơn- NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang
24).
9- Thơ mới, cuộc nổi loạn của ngôn từ (Đỗ Đức Hiểu, Nhìn lại một cuộc cách

mạng trong thơ ca, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 142).
8

×