Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

(TIỂU LUẬN) đề tài lí LUẬN của CHỦ NGHĨA MARX – LENIN về THẤT NGHIỆP LIÊN hệ THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP ở độ TUỔI THANH NIÊN tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.25 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: LÍ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MARX – LENIN VỀ THẤT NGHIỆP
& LIÊN HỆ THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP Ở ĐỘ TUỔI THANH NIÊN
TẠI VIỆT NAM

Hà Nội, 3/2021


LỜI MỞ ĐẦU
Thất nghiệp đang trở thành tình trạng nan giải của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, tình trạng đó mới nảy sinh từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Mặc
dù so với thế giới, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta trong những năm qua vẫn đang là con số
khiêm tốn, nhưng vấn đề nảy sinh từ tình trạng thất nghiệp cao ở thanh niên đang ngày
càng gia tăng. Đặc biệt trong thời điểm đất nước vẫn đang ở trong thời kỳ cơ cấu dân số
vàng thì thất nghiệp ở thanh niên thực sự là một vấn nạn xã hội, là một thách thức của
phát triển, làm mất đi các cơ hội được làm việc, cống hiến và quyền được phát triển của
thanh niên, làm thương tinh thần và trói buồn những người đang nuôi nhiều khát vọng tốt
đẹp cho tương lai tươi sáng của mình và đất nước. Tình trạng thất nghiệp nói chung và
thất nghiệp ở độ tuổi thanh niên nói riêng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy vậy, vấn đề thất nghiệp không tự nhiên xuất hiện mà
luôn có những căn nguyên đằng sau nó. Để đi sâu vào hiểu thêm vấn đề, ta cần tìm hiểu
thực trạng, ngun nhân và giải pháp của nó. Qua việc tìm hiểu những lí luận của chủ
nghĩa Marx – Lenin về thất nghiệp, ta có thể vận dụng nó để phân tích rõ hơn về tình hình
thất nghiệp của lao động ở độ tuổi thanh niên tại Việt Nam, đồng thời đề xuất tìm ra một
số giải pháp cho vấn đề.


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
1. Lí luận của chủ nghĩa Marx – Lenin về thất nghiệp..................................................4
2. Phân loại thất nghiệp...................................................................................................6
3. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam............................................................................7
4. Một số nguyên nhân lí giải tình trạng thất nghiệp của thanh niên tại Việt Nam....9
4.1. Nguyên nhân chủ quan.............................................................................................9
4.2. Nguyên nhân khách quan.......................................................................................10
4.2.1. Về phía cơ sở đào tạo......................................................................................10
4.2.2. Về phía nhà tuyển dụng...................................................................................10
4.2.3. Tác động tiêu cực của dịch covid-19 đến tình hình lao động...........................11
5. Giải pháp đối với tình trạng thất nghiệp của thanh niên tại Việt Nam..............11
KẾT LUẬN.....................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................13


1. Lí luận của chủ nghĩa Marx – Lenin về thất nghiệp
Về định nghĩa, thất nghiệp là tình trạng những người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang khơng có việc làm. Hoặc đơn giản hơn, thất
nghiệp có thể được hiểu là tình trạng người lao động muốn có việc làm, nhưng khơng có
việc làm.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin, thất nghiệp có thể được lí giải bởi
q trình tích lũy tư bản. Về định nghĩa, tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị
thặng dư thành tư bản. Cịn về bản chất, đó là q trình sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa
thơng qua việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh thơng qua việc mua thêm hàng hóa sức lao động, mở mang nhà
xưởng, mua thêm nguyên vật liệu, trang bị thêm máy móc thiết bị,…
Theo quy luật chung của tích lũy tư bản chủ nghĩa, q trình tích lũy tư bản là quá
trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Tư bản vốn tồn tại dưới dạng vật chất và giá trị. Cấu tạo của tư bản gồm có cấu tạo
kĩ thuật và cấu tạo giá trị. Trong đó: cấu tạo kĩ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa khối lượng tư

liệu sản xuất với số lượng lao động cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó. Nó biểu
hiện dưới các hình thức của số lượng máy móc, ngun liệu, năng lượng do một cơng
nhân sử dụng trong một thời gian nào đó. Cịn cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ mà theo
đó tư bản phân thành tư bản bất biến (hay giá trị của tư liệu sản xuất) và tư bản khả biến
(giá trị của sức lao động) cần thiết để tiến hành sản xuất.
Cấu tạo kĩ thuật thay đổi sẽ làm cho cấu tạo giá trị thay đổi, C.Mác đã dùng phạm
trù cấu tạo hữu cơ của tư bản để chỉ mối quan hệ đó. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo
giá trị được quyết định bởi cấu tạo kĩ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kĩ thuật
của tư bản. Do tác động thường xuyên của tiến bộ khoa học và công nghệ, cấu tạo hữu cơ
của tư bản cũng không ngừng biến đổi theo hướng ngày càng tăng lên. Điều này biểu hiện
ở chỗ: bộ phận tư bản bất biến (c) tăng nhanh hơn bộ phận tư bản khả biến (v), tư bản bất
biến tăng tuyệt đối và tăng tương đối, còn tư bản khả biến thì có thể tăng tuyệt đối, nhưng
lại giảm xuống một cách tương đối. C.Mác lí luận rằng chính sự biến đổi này trong chủ
nghĩa tư bản là nguyên nhân dẫn đến nạn nhân khẩu thừa tương đối (đội quân thất
nghiệp).


Chúng ta đều biết, lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ và động lực của hoạt động
sản xuất và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. C.Mác từng khái quát rằng: “giá trị
thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển
hóa là lợi nhuận”. Như vậy, để tối đa hóa lợi nhuận và tăng doanh thu, doanh nghiệp sẽ
tìm cách gia tăng giá trị thặng dư và sử dụng giá trị thặng dư đó để thúc đẩy quá trình tích
lũy tư bản và phát triển quy mơ sản xuất. Việc đẩy mạnh tích lũy tư bản của các nhà tư
bản đóng vai trị trực tiếp và gián tiếp dẫn đến nguyên nhân tạo ra thất nghiệp. Theo đó,
với khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mơ tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ
phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu tỷ lệ tích lũy và tiêu dùng đã được xác định, thì
quy mơ tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Các nhân tố chủ yếu
ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư có thể lí giải trực tiếp cho thất nghiệp bao gồm:
Thứ nhất, trình độ khai thác sức lao động. Thông thường, muốn tăng khối lượng
giá trị thặng dư, nhà tư bản phải đầu tư tăng thêm máy móc, thiết bị và cơng nhân. Tuy

nhiên, phần lớn nhà tư bản có thể khơng tăng thêm công nhân mà sử dụng các phương
pháp cắt xén tiền cơng, tăng ca tăng kíp, tăng cường độ lao động; đồng thời tận dụng triệt
để số máy móc hiện có. Qua đó, giá trị thặng dư tăng lên, quy mô sản xuất của doanh
nghiệp cũng mở rộng tuy nhiên không đồng nghĩa với việc nhiều việc làm hơn được tạo ra
hay nhà tư bản lựa chọn thuê thêm công nhân mà ngược lại cịn có dẫn đến trình độ bóc
lột của nhà tư bản tăng cao hơn.
Thứ hai, năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội tăng thì giá cả tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích lũy: một
là, với khối lượng giá trị thặng dư khơng đổi, phần dành cho tích lũy có thể lấn sang phần
tiêu dùng, trong khi sự tiêu dùng của nhà tư bản khơng giản mà vẫn có thể bằng hoặc cao
hơn trước; hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích lũy cũng có thể
chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn
trước.
Sự tiến bộ của khoa học và cơng nghệ đã đóng góp một phần to lớn trong quá trình làm
tăng năng suất lao động xã hội. Nhưng nếu doanh nghiệp vận dụng đầu tư vào máy móc
và sử dụng chúng một cách hiệu quả hơn, thì hệ quả là ít cơng nhân hơn được yêu cầu sử
dụng để sản xuất một số lượng sản phẩm nhất định. Như vậy, việc sử dụng máy móc một
cách có hiệu quả của nhà tư bản sẽ làm giảm số lượng việc làm của công nhân trong sản
xuất.


Điều này không đồng nghĩa với việc số lượng việc làm sẽ liên tục giảm. Một số ngành cụ
thể sẽ tìm được thị trường mới và mở rộng; các ngành cơng nghiệp mới được tạo ra cũng
có thể đáp ứng nhu cầu việc làm của công nhân. Như vậy, nhu cầu về lao động tăng hay
giảm sẽ phụ thuộc vào những thay đổi trong chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, điều đó có
nghĩa là chủ nghĩa tư bản có khuynh hướng dẫn dắt người lao động ra khỏi sản xuất.
Như vậy, có thể kết luận rằng: q trình tích lũy tư bản là q trình bần cùng hóa
giai cấp vơ sản. Cấu tạo tư bản ngày càng tăng, làm cho cầu tương đối về sức lao động có
xu hướng ngày càng giảm. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra nạn nhân khẩu thừa
tương đối (thất nghiệp).

2. Phân loại thất nghiệp
Nhân khẩu thừa (nạn thất nghiệp ngày nay) từng được phân thành 3 hình thái cơ
bản chính như sau:
 Nhân khẩu thừa lưu động: là loại lao động bị sa thải ở xí nghiệp này, nhưng
lại tìm được việc làm ở xí nghiệp khác. Nói chung, số này chỉ mất việc làm
từng lúc.
 Nhân khẩu thừa tiềm tàng: là nhân khẩu thừa trong nơng nghiệp – đó là
những người nghèo ở nông thôn, thiếu việc làm và cũng không thể tìm được
việc làm trong cơng nghiệp, phải sống vất vưởng.
 Nhân khẩu thừa ngừng trệ: là những người hầu như thường xuyên thất
nghiệp, thỉnh thoảng mới tìm được việc làm tạm thời với tiền công rẻ mạt,
sống lang thang, tạo thành tầng lớp dưới đáy xã hội.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, tình trạng thất nghiệp lại được phân loại một
cách đa dạng và bài bản hơn, gồm có:
 Thất nghiệp cổ điển: là dạng thất nghiệp liên quan tới loại việc làm mà tiền
công thực tế trả cho người làm cơng việc đó cao hơn mức tiền cơng thực tế
bình qn của thị trường lao động chung, khiến cho lượng cung về lao động
đối với công việc này cao hơn lượng cầu. Dạng thất nghiệp này cịn được
gọi là thất nghiệp tiền cơng thực tế.
 Thất nghiệp cơ cấu: là loại thất nghiệp tạm thời do người lao động đang chờ
để tìm được việc làm mà họ kỳ vọng chứ khơng phải khơng thể tìm được
việc làm nào.


 Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp liên quan đến chu kỳ kinh tế tại pha
mà tổng cầu thấp hơn tổng cung dẫn tới doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất
và phải giảm thuê mướn lao động. Dạng thất nghiệp này cịn được gọi là
thất nghiệp Keynes vì Keynes là người đề xướng thuyết về tổng cầu-tổng
cung.
 Thất nghiệp ma sát: là dạng thất nghiệp do người lao động và người th

mướn lao động khơng tìm được nhau vì những lý do như khác biệt về địa lý,
thiếu thơng tin,
 Thất nghiệp trá hình: là dạng thất nghiệp của những người lao động không
được sử dụng đúng hoặc không được sử dụng hết kỹ năng. Thuộc loại này
bao gồm cả những người làm nghề nông trong thời điểm nông nhàn (đôi khi
những người này được tách riêng thành những người thất nghiệp theo thời
vụ).
 Thất nghiệp ẩn: là dạng thất nghiệp không được báo cáo.
3. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam
Theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam, người thất nghiệp được định nghĩa là những
người từ đủ 15 tuổi trở lên mà trong thời kỳ tham chiếu hội đủ các yếu tố sau: hiện không
làm việc; đang tìm kiếm việc làm; sẵn sàng làm việc. Trong đó, người thất nghiệp ở độ
tuổi thanh niên được áp dụng với đối tượng là người thất nghiệp từ 15 đến 24 tuổi.
Số người thất nghiệp còn gồm những người hiện khơng có việc làm và sẵn sàng làm việc
nhưng trong thời kỳ tham chiếu khơng tìm được việc do:
 Đã chắc chắn có một cơng việc hoặc một hoạt động sản xuất kinh doanh để bắt đầu
sau thời kỳ tham chiếu;
 Phải tạm nghỉ (không được nhận tiền lương, tiền công hoặc không chắc chắn quay
lại làm công việc cũ) do cơ sở bị thu hẹp hoặc ngừng sản xuất;
 Đang trong thời gian nghỉ thời vụ;
 Bận việc đột xuất của gia đình hoặc ốm đau tạm thời.
Tỷ lệ thất nghiệp là chỉ tiêu biểu hiện tỷ lệ so sánh số người thất nghiệp với lực lượng lao
động.
Năm

Tỷ lệ thất nghiệp lao động
trong độ tuổi tại Việt Nam

Tỷ lệ thất nghiệp của
thanh niên Việt Nam


2017

2,24%

7,51%


2018

2,19%

7,06%

2019

2,16%

6,39%

2020

2,48%

7,10%

(Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam)

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên nước ta
thực tế thường giữ ở mức cao hơn gấp 3 lần so với tỷ lệ này đối với người trong độ tuổi

lao động, trở thành nhóm độ tuổi có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất tại Việt Nam. Tỷ lệ thất
nghiệp ở thanh niên từ 15 – 24 tuổi đã giữ ở mức giảm liên tục từ giai đoạn năm 2017 –
2019, tuy nhiên lại có dấu hiệu tăng trở lại trong năm 2020. Tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên
Việt Nam hiện được xác định cao xấp xỉ với các nước ở khu vực Đơng Nam Á và Thái
Bình Dương và cịn có thể có xu hướng tiếp tục gia tăng trong điều kiện sản xuất kinh
doanh trong nước và toàn cầu đang gặp khó khăn trước bối cảnh đại dịch Covid-19.
Tính đến q 4/2020, cả nước có 1.155,8 nghìn người trong độ tuổi thất nghiệp,
giảm 60,2 nghìn người so với quý trước nhưng vẫn tăng 95,8 nghìn người so với cùng kỳ
năm trước, trong số đó, thanh nhiên chiếm 35,55% tổng số người thất nghiệp.

Năm

Tỷ lệ thất nghiệp của
thanh niên

2017

7,51%

2018

2019

2020

7,06%

6,39%

7,10%


Tỷ lệ thất nghiệp thanh
niên theo khu vực
Thành thị

11,75%

Nông thôn

5,87%

Thành thị

10,56%

Nông thôn

5,73%

Thành thị

10,24%

Nông thôn

4,83%

Thành thị

10,63%


Nông thôn

5,45%

(Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam)


Về cơ cấu, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên ở thành thị luôn chiếm tỷ trọng cao hơn và
luôn giữ ở mức gần gấp đôi so với tỷ lệ của thanh niên ở nơng thơn. Lí giải cho việc tỷ lệ
thất nghiệp của thanh niên ở khu vực nông thôn đang còn thấp so với thành thị là bởi tại
khu vực này cịn có nhiều việc làm ở khu vực nông nghiệp và những việc làm tự tạo, việc
làm phi chính thức.
Tính đến năm 2020, số thanh niên khơng có việc làm và không tham gia học tập
hoặc đào tạo (NEET-Youth not in employment, education or training) là 1,47 triệu người
(chiếm 11,5% tổng số thanh niên). Tỷ lệ NEET ở khu vực thành thị cao hơn 0,8 điểm
phần trăm so với khu vực nông thôn, ở nữ thanh niên cao hơn 3,5 điểm phần trăm so với
nam thanh niên
Những số liệu trên cịn chưa tính đến một vấn đề đang tồn tại trong việc làm ở Việt
Nam là, khơng ít thanh niên đã phải chấp nhận nhận làm những công việc đòi hỏi về học
vấn và kỹ năng thấp hơn trình độ có được của bản thân với thu nhập cũng thấp hơn khả
năng có thể, để duy trì một cuộc sống với chi tiêu dè dặt.
4. Một số nguyên nhân lí giải tình trạng thất nghiệp của thanh niên tại Việt Nam
4.1. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân thất nghiệp của lực lượng lao động ở độ tuổi thanh niên (từ 15 – 24
tuổi) tại Việt Nam thứ nhất có thể kể đến là do lực lượng lao động ở độ tuổi thanh niên có
chất lượng cịn thấp:
 Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam đạt mức 3,79 điểm (trong thang điểm 10), xếp hạng thứ 11 trong số 12
quốc gia được khảo sát tại châu Á.

 Nguồn nhân lực thanh niên nước ta còn yếu về chất lượng, thiếu năng động và
sáng tạo, tác phong lao động cơng nghiệp...
 Ngồi ra, thể lực của lao động thanh niên Việt Nam ở mức trung bình kém,
chưa đáp ứng được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy
móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.
 Cơng tác chăm sóc sức khỏe và an toàn nghề nghiệp chưa tốt; bên cạnh đó, kỷ
luật lao động cịn kém so với nhiều quốc gia trong khu vực.
 Một bộ phận lớn lao động thanh niên hiện nay chưa được tập huấn về kỷ luật
lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và hành vi.


 Người lao động trẻ chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo
nhóm, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và
chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Mặc dù trong những năm qua, tỉ lệ người lao động trẻ được đào tạo, có văn bằng
chứng chỉ tại Việt Nam đang có xu hướng tăng dần, trình độ chun mơn kĩ thuật và tay
nghề của lao động thanh niên ở nước ta ngày càng được cải thiện. Người lao động trẻ vẫn
gặp khó khăn trong q trình tìm việc làm dù đã được đào tạo bài bản. Theo đó, tính đến
quý 4 năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp đối với người lao động có trình độ chun mơn ở bậc
trung cấp là 4,8%, bậc cao đẳng là 6,2% và bậc đại học trở lên là 4,8%.
4.2. Nguyên nhân khách quan
4.2.1. Về phía cơ sở đào tạo
Tại Việt Nam, số lượng các trường và quy mô đào tạo bậc cao đẳng trở lên tăng
nhanh nhưng các điều kiện đảm bảo chất lượng chưa được quan tâm tương xứng; ở một
số cơ sở đào tạo, quy mô tuyển sinh và chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được với nhu cầu
của thị trường lao động.
Còn về chất lượng giáo dục nghề nghiệp, dựa trên báo cáo này của Diễn đàn kinh
tế thế giới (WEF) vào năm 2019 tại đánh giá về trụ cột kỹ năng: chất lượng đào tạo nghề
tại Việt Nam chỉ xếp thứ 102/141. So với các mục còn lại trong trụ cột kỹ năng (gồm kỹ
năng của học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp, mức độ đào tạo nhân viên và mức độ dễ

dàng tìm kiếm lao động lành nghề...), chỉ tiêu chất lượng đào tạo nghề nghiệp của Việt
Nam đang có dấu hiệu tăng mạnh. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam hiện
vẫn chỉ đứng thứ 8 (sau Lào, trên Campuchia và Myanmar). Theo các chuyên gia, giáo
dục nghề nghiệp Việt Nam phải thay đổi rất nhiều mới có được năng lực cạnh tranh ngay
tại các quốc gia Đơng Nam Á.
4.2.2. Về phía nhà tuyển dụng
Hiện nay, tình trạng lao động trẻ mặc dù đã qua đào tạo ở trình độ chun mơn cao
đẳng, đại học trở lên vẫn khơng thể tìm được việc làm khi ra trường ngày càng trở nên
phổ biến. Một phần lí do có thể kể đến là bởi: nhiều nhà tuyển dụng ln có những u
cầu về kinh nghiệm thực tế đối với các ứng viên. Đây là nhu cầu chính đáng của các nhà
tuyển dụng khi họ cần giảm thiểu chi phí đào tạo cho nhân viên mới thiếu kinh nghiệm.
Tuy nhiên, điều này đã tạo nên một thực tế là: khó có sinh viên mới ra trường nào có thể
đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng. Vơ hình chung, tạo nên khó khăn cho nhà


tuyển dụng khi không thể tiếp cận được với lượng lớn ứng viên tiềm năng và cả những
người lao động trẻ có năng lực tốt, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhà tuyển dụng, tuy
nhiên, việc thiếu kinh nghiệm lại là rào cản đến với công việc.
4.2.3. Tác động tiêu cực của dịch covid-19 đến tình hình lao động
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, tính đến tháng 12 năm 2020, cả nước có 32,1
triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 bao gồm người bị
mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập,… Trong
đó, 69,2% người bị giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân
phiên và khoảng 14,0% buộc phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến tỷ lệ thất nghiệp thanh niên tại Việt Nam có
dấu hiệu tăng trở lại trong năm 2020 sau 3 năm giảm liên tiếp từ 2017 – 2019.
5. Giải pháp đối với tình trạng thất nghiệp của thanh niên tại Việt Nam
Thứ nhất, lao động trẻ (từ 15 – 24 tuổi) tại Việt Nam cần chủ động hơn để làm chủ
tương lai của mình. Họ cần sự có sự đầu tư về thời gian và nghiêm túc trong việc chọn
lựa nghề nghiệp. Tránh việc coi thường và bỏ qua cơ hội tham gia quá trình đào tạo bài

bản để nâng cao trình độ chun mơn kĩ thuật của bản thân. Đồng thời cũng không nên
học đại trà, học theo trào lưu mà khơng có sự chủ động trong việc lựa chọn, dẫn đến việc
học tập khơng hiệu quả và kiến thức cịn nhiều thiếu sót. Bên cạnh đó, lao động ở độ tuổi
thanh niên cũng cần chủ động trau dồi ngoại ngữ, kỹ năng mềm và kỹ năng sử dụng cơng
nghệ thơng tin khi cịn ở trên ghế nhà trường. Trong môi trường kinh doanh quốc tế như
hiện nay, ngoại ngữ đã trở thành một trong những điều kiện tuyển dụng đầu tiên hoặc
mang tính ưu tiên cho rất nhiều ngành nghề trong xã hội. Bên cạnh đó, kỹ năng mềm và
kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cũng ngày càng trở nên thiết yếu và là nền tảng để
phát triển sự nghiệp của lao động trẻ trong thời điểm diễn ra cuộc cách mạng cơng nghiệp
4.0. Do đó, để tránh gặp phải những khó khăn trong tìm kiếm việc làm, lao động thanh
niên cần nỗ lực cải thiện chất lượng lao động qua việc chuẩn bị kĩ càng về kỹ năng
chuyên môn nghiệp vụ cũng như những kỹ năng bổ sung cần thiết kể đến ở trên.
Thứ hai, các cơ sở đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho lao động trẻ cũng cần phải
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo và bắt kịp xu hướng của thị trường lao động.
Cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 đang diễn ra nhanh chóng. Xu hướng là các ngành nghề
truyền thống khơng cịn sử dụng nhiều lao động mà thay thế vào đó là máy móc tự động
và robot có thể kết nối vạn vật để thay thế con người. Chương trình đào tạo nên đi sâu vào
những nguyên lý cơ bản mang tính quy luật (nắm được “dĩ bất biến”) để từ đó có thể áp


dụng vào môi trường lao động đang biến đổi nhanh chóng (để “ứng vạn biến”). Bên cạnh
đó, việc mở ngành của các cơ sở đào tạo phải phù hợp với nhu cầu nguồn nhân lực để
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, vùng, cả nước cũng như của từng lĩnh vực; khi
xác định chỉ tiêu tuyển sinh phải cân đối xác định quy mô đào tạo của các ngành nghề phù
hợp với nhu cầu của xã hội.
Thứ ba, để cân bằng lại thị trường lao động, cũng như giúp các doanh nghiệp tiếp
cận với nguồn lao động dối dào hơn, các nhà tuyển dụng nên chấp nhận sinh viên mới ra
trường. Các phương án phù hợp là áp dụng chế độ thử việc, lương thử việc, hoặc chấp
nhận thời gian đào tạo việc làm trước khi nhận việc chính thức. Việc đưa ra những
chương trình tham quan công ty, thực tập tại công ty cũng là một phương án giúp nhà

tuyển dụng tuyển chọn được lao động phù hợp với nhu cầu của mình. Hơn nữa, khi thực
tập, chi phí cho lương của các bạn sinh viên thương tháp hoặc có nhiều trường hợp thực
tập khơng lương. Điều này sẽ giúp nhà tuyển dụng tiết kiệm một khoản chi phí nhỏ mà
vẫn đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng. Tuy nhiên, sinh viên và các nhà tuyển
dụng nên có hợp đồng quy định rõ ràng ngay từ đầu, tránh trường hợp tranh chấp hoặc lợi
dụng sức lao động của sinh viên.
Thứ tư, chính phủ cần quy hoạch lại và xây dựng mạng lưới các trung tâm dịch vụ
việc làm trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển nhân lực cả
nước, của từng ngành, từng vùng và từng địa phương trong từng thời kỳ, bảo đảm kết nối
cung – cầu lao động, cơ hội việc làm của người lao động trẻ và phát huy năng lực, hiệu
quả của các trung tâm dịch vụ việc làm hiện có, hình thành các trung tâm dịch vụ việc làm
trọng điểm ở các vùng kinh tế trọng điểm và ở các tỉnh có thị trường lao động đặc trưng.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần áp dụng những biện pháp hợp lí để có thể vừa
song song đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, vừa phòng/chống dịch COVID – 19 một
cách hiệu quả. Qua đó, có thể phục hồi những hậu quả kinh tế do đại dịch gây ra vào năm
2020 và tạo ra nhiều việc làm hơn cho đối tượng lao động ở độ tuổi thanh niên, hướng tới
mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp ở độ tuổi thanh niên vào năm 2021.


KẾT LUẬN
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội nan giải, và là thách thức lớn trong
sự phát triển của mỗi quốc gia, nó thường tác động đồng thời đến nhiều mặt của đời sống
xã hội. Vì vậy, giải quyết tình trạng thất nghiệp khơng thể là việc làm “một sớm, một
chiều”, và không chỉ bằng một chính sách hay một biện pháp, mà phải được thực hiện
đồng bộ cả hệ thống các giải pháp phát triển trong tiến trình thực thi chiến lược tổng thể
của một quốc gia. Thất nghiệp ở thanh niên Việt Nam phải được coi là một vấn đề cấp
thiết, đang đòi hỏi những quyết sách đúng đắn của Chính phủ về giáo dục – đào tạo, lao
động – việc làm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin – Bộ giáo dục và đào tạo (2019)
 Giáo trình Kinh tế vĩ mô – Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
 Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam số 26, 27, 28 – Tổng Cục Thống Kê
 Báo Cáo Tác Động Của Dịch Covid-19 Đến Tình Hình Lao Động, Việc Làm Quý
IV Và Năm 2020 – Tổng Cục Thống Kê
 Báo cáo toàn cầu của ILO: Thách thức về việc làm cho thanh niên ở khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương – Tổ chức Lao Động Quốc Tế (ILO)


Thực trạng và giải pháp giảm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay – Tạp chí Cơng
Thương



×