Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

(TIỂU LUẬN) đề bài phân tích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế liên hệ với thực tiễn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.25 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP NHĨM
Mơn: Kinh tế đầu tư 1
Lớp: Đầu tư CLC 62

Đề bài: Phân tích vai trị của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế? Liên hệ với
thực tiễn tại Việt Nam?
Thành viên nhóm:

1. Ngơ Châu Anh
2. Đào Phương Mai
3. Dỗn Thanh Phương
4. Vũ Bích Linh
5. Trịnh Trung Dũng

HÀ NỘI, 2022


VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ LIÊN HỆ
VỚI TÌNH HÌNH THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Lời Mở Đầu:
Tăng trưởng kinh tế có vai trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia, nó là điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển. Ngày nay, nó
đã trở thành mục tiêu và là động lực của nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các
nước đang phát triển như nước ta.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố nguồn lực và khả
năng huy động, sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Q trình đó liên tục được tiếp diễn và tạo thành chu kỳ tái sản xuất với quy
mô ngày càng được mở rộng, đây là cơ sở và cũng chính là kết quả được tích luỹ lại từ


hoạt động đầu tư.
Như vậy, đầu tư có tác động trực tiếp đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển
của một nền kinh tế. Kết quả của hoạt động đầu tư là làm gia tăng năng lực sản xuất,
cung ứng các sản phẩm vật chất, dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và chuyển giao cơng nghệ, từ đó tạo đà cho sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, duy trì được
mức tăng trưởng cao và ổn định so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, mức
sống người dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được nâng cao,.. Để có
được những thành tựu đó, phải kể đến vai trị đặc biệt quan trọng của đầu tư. Với
những chính sách nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong và ngồi
nước, Việt Nam đang nâng cao uy tín, vị thế của mình trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực cho hoạt động
đầu tư để tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển nền kinh tế ở nước ta cũng bộc lộ
nhiều hạn chế, địi hỏi chúng ta phải có những đánh giá, nhận định đúng về quá trình
thực hiện, rút ra những vấn đề cần phải khắc phục và đề ra biện pháp tổ chức thực hiện
cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm đạt được những mục tiêu mong muốn.
Để giải quyết vấn đề này, trong phạm vi của bài thuyết trình của bọn em xin đưa
ra một số phân tích, đánh giá về tác động, vai trị của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất về các giải pháp tổ chức thực hiện
trong thời gian tới, cụ thể như sau:


I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐẦU TƯ VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
1. Đầu tư
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư như: Theo quan điểm dưới
góc độ tiêu dùng, thì đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thụ được mức
tiêu dùng lớn trong tương lai; Theo quan điểm trên góc độ tài chính, thì đầu tư là một
chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dịng thu nhằm hồn

vốn và sinh lời; Theo nghĩa rộng và bao quát thì đầu tư là việc sử dụng phối hợp các
nguồn lực ở hiện tại vào một hoạt động nào đó nhằm đạt được một hay một số tập hợp
mục đích của nhà đầu tư trong tương lai.
Tuy nhiên, theo Luật đầu tư số: 59/2005/QH11, được Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 29/11/2005 và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 thì: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại
tài sản hữu hình hoặc vơ hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo
quy định của pháp luật".
Tùy theo mục đích và yêu cầu quản lý đối với từng loại hình đầu tư mà người ta
tiến hành phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí khác nhau, ví dụ: Nếu theo bản
chất của đối tượng đầu tư, có: đầu tư cho các đối tượng vật chất, đầu tư cho các đối
tượng tài chính, đầu tư cho các đối tượng phi vật chất; Theo cơ cấu tái sản xuất, có đầu
tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu;Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả
đầu tư, có: đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật,
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, có: đầu tư trực
tiếp, đầu tư gián tiếp. Theo nguồn vốn, có: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài,...

2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về sản lượng của nền kinh tế theo
thời gian. Theo quan điểm của kinh tế học, thì tăng trưởng kinh tế thường chỉ sự gia
tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá trị GNP bình
quân đầu người.
Tuy nhiên, để phản ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia,
người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP hoặc mức tăng
GDP bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ
thể hiện sự gia tăng về mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian.



3. Vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế
3.1 Đầu tư tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường thì hàng hố, dịch vụ được điều tiết thơng qua quan
hệ cung, cầu. Do đó, nó tác động đến quy mô sản lượng của nền kinh tế của mỗi quốc
gia trong một thời kỳ nhất định. Trong khi đó, hoạt động đầu tư lại là một bộ phận cấu
thành lên tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, cụ thể:
- Tác động đến tổng cầu: Do tổng cầu của nền kinh tế: AD = C+ I+ G+ NX, tức là
tổng cầu của nền kinh tế bao gồm: Chi tiêu của khu vực Chính phủ + Chi tiêu của các
hộ gia đình và các doanh nghiệp + Tiết kiệm (hay đầu tư) + Chênh lệch xuất nhập khẩu.
Vì vậy, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu, nó tác động đến
tổng cầu trong ngắn hạn và tác động một cách trực tiếp. Tức là, khi tổng cung chưa thay
đổi thì sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên. Khi đó sẽ
làm cho quy mơ sản lượng cân bằng thay đổi trong ngắn hạn.
- Tác động đến tổng cung: Kết quả của hoạt động đầu tư là tài sản và năng lực
sản xuất mới tăng thêm, vì vậy nó tạo ra sự gia tăng về mặt sản lượng của nên kinh tế.
Những tác động của đầu tư là trong dài hạn, khi đầu tư tăng sẽ làm cho sản lượng của
nền kinh tế gia tăng, do đó sẽ làm cho sản lượng tiềm năng tăng lên và giá cả sản phẩm
giảm xuống. Đến lượt nó, khi giá cả giảm sẽ kích thích, gia tăng tiêu dùng và kích thích
sản xuất phát triển, tạo gia sự tăng trưởng của nền kinh tế.

3.2 Quy mô đầu tư tác động đến tốc độ của tăng trưởng kinh tế:
Cho đến nay, đã có rất nhiều mơ hình nghiên cứu và chi ra vai trò của hoạt động
đầu tư đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, ví dụ như: Mơ hình Robert Solow (1956)
cho rằng: việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn
mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt ở trạng thái dừng; Mơ hình
Sung Sang Park cho rằng: nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc gia
cho đầu tư con người; Theo mơ hình Tân cổ điển, thì nguồn gốc của tăng trưởng tùy
thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn (K) và lao động (L).
Theo quan điểm tăng trưởng của trường phái kinh tế học vĩ mơ Keynes, với mơ
hình tiêu biểu là mơ hình Harrod-Domar thì: nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng

vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên.
Mặc dù các mơ hình kinh tế được đưa ra đều khẳng định vai trò của đầu tư đối
với tăng trưởng kinh tế, những bản thân mơ hình cũng có những hạn chế nhất định.
Nhưng các nguyên lý về vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng đã tiếp tục được làm rõ
qua hoạt động thực tiễn.
Thực tế cho thấy rằng: mức gia tăng sản lượng của nền kinh tế phụ thuộc vào sự
gia tăng quy mơ vốn đầu tư. Vì vậy, việc gia tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn
đầu tư hợp lý là những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng
năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng


CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế...do đó, nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng được mơ hình hóa qua cơng
thức:
Mức gia tăng GDP =
Trong đó: Hệ số ICOR là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng
sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một sản lượng tăng thêm. Hệ số này
được tính tốn như sau:
ICOR = =
Nếu đem chia cả tử và mẫu số cho GDP, ta có:
ICOR =
Như vậy, nếu hệ số ICOR khơng đối, mức tăng trưởng kinh tế GDP hoàn toàn
phụ thuộc vào quy mơ vốn đầu tư.

II. VAI TRỊ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM QUA
1. Khái quát về tình hình tăng trưởng kinh tế:
Sau 25 năm đổi mới, hội nhập quốc tế và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011-2020, thế và lực của nền kinh tế nước ta đã tăng lên đáng kể. Đất
nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu

nhập trung bình. Quan hệ kinh tế đối ngoại có bước phát triển mới, trong đó có sự kiện
quan trọng là trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới, đưa nước
ta hội nhập đầy đủ với các nền kinh tế khu vực và thế giới. Đời sống vật chất và tinh
thần của các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt, nhất là kết quả xóa đói giảm nghèo.
Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững, góp phần tạo mơi trường
thuận lợi và tăng thêm nguồn lực phát triển đất nước.
Bên cạnh những thành tựu và tiềm năng, lợi thế phát triển, nền kinh tế nước ta
vẫn đứng trước những khó khăn, thách thức. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế, yếu kém. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao nhưng vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm
chuyển sang phát triển chiều sâu. Kinh tế vĩ mô xuất hiện nhiều mặt mất cân đối. Lạm
phát đã bùng phát trở lại, tác động tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng
kinh tế bền vững.


2. Khái quát về hoạt động đầu tư:
Giai đoạn 2011 - 2015:
Trong những năm 2011-2015, cơ cấu các khu vực kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo hướng tích cực. Năm 2011, tỷ trọng các khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản;
công nghiệp và xây dựng; dịch vụ; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm trong GDP
tương ứng 19,57%; 32,24%; 36,73% và 11,46%. Cơ cấu này đã có sự dịch chuyển theo
xu hướng giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp và xây dựng và tỷ trọng ngành dịch vụ. Đến năm 2015 tỷ trọng của các khu vực
này lần lượt là: 17,00%, 33,25%, 39,73% và 10,02%. Như vậy, trong 5 năm 2011-2015
tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 2,57 điểm phần trăm; công nghiệp và xây
dựng tăng 1,01 điểm phần trăm; dịch vụ tăng 3.00 điểm phần trăm.
Kinh tế Nhà nước những năm 2006-2010 chiếm 34,81% tổng sản phẩm trong
nước theo giá hiện hành đã giảm xuống còn 32,26% trong những năm 2011-2015 (giảm
2.55 điểm phần trăm), chủ yếu do việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
trong những năm vừa qua. Tỷ trọng kinh tế ngoài Nhà nước từ 47,97% trong những

năm 2006-2010 đã tăng lên 48,57% trong những năm 2011-2015 (tăng 0,60 điểm phần
trăm). Tỷ trọng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 17,22% lên 19,17%
(tăng 1,95 điểm phần trăm). Các số liệu nêu trên cho thấy, sự chuyển dịch cơ cấu thành
phần kinh tế những năm vừa qua diễn ra đúng hướng, nhưng tốc độ chuyển dịch còn
chậm.

Giai đoạn 2016 - 2021:
Tốc độ tăng GDP giai đoạn 2016 - 2020 khá cao, bình quân 6,8%. Mặc dù năm
2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 nhưng tốc độ tăng trưởng bình
quân 5 năm 2016 - 2020 ước đạt khoảng 5,9% và thuộc nhóm các nước tăng trưởng
cao nhất khu vực, thế giới. Trong đó, khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tiếp tục
giữ vai trị dẫn dắt, đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng chung, với tốc độ tăng bình
quân giai đoạn 2016 - 2020 lần lượt là 7,3% và 6%; tỷ trọng khu vực công nghiệp và
dịch vụ (bao gồm xây dựng) theo giá cơ bản trong GDP tăng từ 73% trong năm 2015
lên khoảng 75,4% vào năm 2020. Quy mô GDP tiếp tục được mở rộng, đến năm 2020
ước đạt 268,4 tỷ USD, tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015; GDP bình quân đầu người
năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD/người, gấp khoảng 1,3 lần so với năm 2015.
Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa tăng 1,7 lần, từ 327,8 tỷ USD trong
năm 2015 lên khoảng 517 tỷ USD (năm 2019) và khoảng 527 tỷ USD (năm 2020),
tương đương trên 190% GDP. Xuất khẩu hàng hóa tăng từ 162 tỷ USD trong năm 2015
lên khoảng 267 tỷ USD trong năm 2020, tăng bình quân 10,5%/năm giai đoạn 2016 2020, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Cán cân xuất - nhập khẩu hàng
hóa chuyển từ thâm hụt sang thặng dư, tạo điều kiện cho cán cân thanh tốn giữ được
trạng thái tích cực, góp phần ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cho hay trong năm 2021, Việt Nam cấp phép
cho 1.738 dự án mới, giảm 31,1% về số dự án so với năm 2020, song vốn đăng ký của
các dự án mới đạt 15,2 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm trước. Riêng các khu kinh tế, khu
công nghiệp vẫn thu hút được 539 dự án FDI và 615 dự án đầu tư trong nước với vốn


đăng ký cấp mới 12,8 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2020. Làn sóng thứ tư của đại dịch

COVID-19 ảnh hưởng đáng kể đến các doanh nghiệp. Tình hình sản xuất kinh doanh
của các khu công nghiệp, khu kinh tế giảm so với năm 2020. Tổng doanh thu sản xuất
giảm 27% so với năm 2020, kim ngạch xuất khẩu giảm 11% so với năm 2020.

3. Đánh giá chung về vai trò của đầu tư với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
Mặc dù trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2016 - 2021 cịn gặp nhiều khó khăn, thách thức, những yếu tố bất định; nhưng
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tương đối toàn diện trên hầu hết các
lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 để vừa
quyết liệt phịng, chống dịch bệnh, vừa duy trì, phát triển các hoạt động kinh tế, xã hội.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, khu vực FDI ln có tốc độ tăng trưởng
cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt khoảng
5,9%/năm ở giai đoạn 2011-2015 và khoảng 6,75 %/năm ở giai đoạn 2016-2019. Trong
khi đó, khu vực FDI có tốc độ tăng trưởng khoảng 8,4% năm 2010; khoảng 10,6% năm
2019. GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện thấp hơn so với nhóm các nước
dẫn đầu ASEAN. Năm 2019, GDP/người của Việt Nam đạt khoảng 2.750 USD, bằng
khoảng 4% của Singapore, 22,5% của Malaysia, 35,3% của Thái Lan.

Phần lớn vốn FDI đến từ các nước có cơng nghệ trung bình và khơng nắm giữ
công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn. Thực tế này đặt ra vấn đề, Việt Nam cần có giải pháp
thu hút các nhà đầu tư FDI đến từ các quốc gia phát triển, nắm giữ cơng nghệ hàng
đầu, có tiềm năng tài chính và có thị trường rộng lớn.

III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
1. Đầu tư công đối với nền kinh tế Việt Nam
Đầu tư cơng có vai trò quan trọng trong việc giúp nền kinh tế đạt được các chỉ
tiêu kinh tế-xã hội đề ra trong từng thời kỳ kế hoạch.
Trên cơ sở nguyên tắc, tiêu chí được Quốc hội thơng qua, Chính phủ đã giao kế
hoạch đầu tư công trung hạn cho các bộ, ngành và địa phương đạt 1.815.556 tỷ đồng,



bằng 90,8% tổng mức vốn được Quốc hội thông qua cho 11.000 dự án (giảm 1 nửa so
với giai đoạn 2011-2015).
Trong đó, số dự án hồn thành là 7.354 dự án, bằng 66,2% tổng số dự án (Số
dự án chuyển tiếp từ giai đoạn 2011-2015 hoàn thành trong giai đoạn 2016- 2020 là
4.547 dự án, dự án khởi công mới hoàn thành ngay trong giai đoạn 2016-2020 là 2.807
dự án), khởi công mới 4.208 dự án.

Việc thực hiện hiệu quả đầu tư công thời gian qua đã mang lại nhiều kết quả, tạo tác
động tích cực, lan tỏa trong nền kinh tế. Cụ thể:
Một là, hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư nói chung và đầu tư cơng nói riêng được cải
thiện. Hệ số suất đầu tư (ICOR) của Việt Nam đã giảm dần; ICOR giai đoạn 2016-2019
(Không bao gồm năm 2020 là năm đặc biệt, do tác động của dịch COVID-19, tăng
trưởng GDP giảm mạnh và chỉ số ICOR không phản ánh đầy đủ hiệu quả đầu tư) là 6,1
thấp hơn so với mức gần 6,3 của giai đoạn 2011-2015. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 9,2 triệu tỷ đồng, bằng 33,7% GDP, đạt mục tiêu
bình quân 5 năm (32-34%) và cao hơn giai đoạn 2011-2015 (31,7% GDP).
Hai là, đầu tư cơng tiếp tục đóng vai trị là nguồn vốn mồi, dẫn dắt các thành phần kinh
tế khác tham gia đầu tư. Cơ cấu vốn đầu tư trong tổng đầu tư tồn xã hội dịch chuyển
tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước (từ mức trung
bình 39,04% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 34,34% giai đoạn 2016-2020), tăng tỷ
trọng vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước, từ mức 38,26% giai đoạn 2011-2015 lên
42,7% giai đoạn 2016-2020. Điều này kéo theo sự dịch chuyển tích cực trong cơ cấu
kinh tế theo hướng khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh hơn, cụ thể, trung bình giai đoạn
2011-2015 đạt 6,14% nhưng đến giai đoạn 2016-2019 tăng lên mức trung bình 6,7% và
cải thiện tỷ trọng đóng góp vào GDP… Đồng thời, cơ cấu huy động vốn đầu tư dịch


chuyển tích cực, phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình
tăng trưởng; khuyến khích các thành phần kinh tế ngồi nhà nước bỏ vốn đầu tư phát

triển sản xuất, kinh doanh, phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật.

Ba là, việc tăng cường các biện pháp nhằm thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư cơng đã
mang lại kết tích cực cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ
giải ngân vốn đầu tư công hàng năm đạt khoảng 83,4% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ
giao, trong đó năm 2016 đạt 88,27%; 2017 đạt 81,69%; 2018 đạt 71,69%; 2019 đạt
78,68%; riêng năm 2020 tỷ lệ giải ngân đạt cao nhất trên 97,46%. Theo ước tính của
Tổng cục Thống kê trong giai đoạn 2016-2020, giải ngân đầu tư công tăng thêm 1% thì
tăng trưởng GDP sẽ tăng thêm 0,058%, giải ngân 1 đồng vốn đầu tư công sẽ kéo theo
1,61 đồng vốn đầu tư của khối ngoài nhà nước, cao hơn giai đoạn trước 1,42 đồng,
điều này cho thấy sự cải thiện trong mức độ lan tỏa của đầu tư công.


Bốn là, nguồn vốn đầu tư công được tập trung phát triển hệ thống kế cấu hạ tầng kinh
tế-xã hội, qua đó góp phần giải quyết những yêu cầu bức thiết trong đời sống kinh tế-xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong đó:
- Cải thiện hệ thống hạ tầng giao thông quốc gia: nâng cấp Quốc lộ 1A và đường
Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, các dự án đường cao tốc hướng tâm có tác động
lớn trong việc nâng cao năng lực vận tải,....
- Nhiều nhà máy, dự án như: Nhà máy Foxconn (Bắc Giang), dự án Samsung
mở rộng (Bắc Ninh, Thái Nguyên),.... có cơng nghệ hiện đại đã được đưa vào sản xuất,
góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư nâng cấp và từng bước
hiện đại hoá; Hạ tầng thuỷ lợi đồng bộ theo hướng đa mục tiêu.
Năm là, đầu tư công thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, đơ thị, qua đó thúc đẩy chuyển
dịch đất đai, phát triển thị trường bất động sản và đến lượt mình, chuyển dịch đất đai
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thực tế cho thấy tác động lan tỏa của đầu tư đến thị trường bất động sản và

đóng góp vào GDP: Muốn tăng 1% giá trị gia tăng, ngành Bất động sản cần tăng giải
ngân 4,53% vốn đầu tư, đồng thời để tăng 1 đồng giá trị gia tăng ngành Bất động sản
cần tăng 1,86 đồng vốn đầu tư. Đóng góp của giá trị gia tăng ngành Bất động sản vào
tăng trưởng GDP chung của toàn nền kinh tế là 0,6 điểm%.
- Giải ngân đầu tư công mang lại tác động tích cực, trong đó có cả tác động trực
tiếp và tác động gián tiếp. Tác động trực tiếp là khi một hạ tầng lớn chuyển động, đồng
nghĩa khu vực bất động sản ở đó sẽ có cơ hội tăng giá và tạo sóng. Cơ hội gián tiếp là
khi đầu tư cơng được giải ngân thì tồn nền kinh tế được kích cầu, từ đó dịng tiền
chuyển động mạnh và sẽ có những nguồn tiền nhất định (từ chứng khốn, từ vàng, từ
dịng vốn ngoại…) đổ vào thị trường bất động sản.
Trong đó: Đóng góp của giá trị gia tăng ngành Xây dựng vào tăng trưởng GDP
chung của toàn nền kinh tế là 0,9 điểm %. Để tăng 1% giá trị gia tăng ngành Xây dựng
cần 2,25% vốn đầu tư, muốn tăng 1 đồng giá trị gia tăng, thì ngành Xây dựng cần 0,76
đồng vốn đầu tư.

2. Đầu tư tư nhân đối với nền kinh tế Việt Nam
Khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới
và phát triển đất nước, đóng góp trên 40% GDP, 30% ngân sách nhà nước (NSNN), thu
hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn
biến phức tạp và kéo dài từ đầu năm 2020 đến nay, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục
phát huy sức mạnh nội tại và trở thành “lực kéo” quan trọng của nền kinh tế Việt Nam,
đóng góp đáng kể vào nguồn thu NSNN.


Trong đó, vai trị, vị thế của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định và thể
hiện rõ nét thơng qua những đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế tư nhân
liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 42 - 43% GDP, thu hút khoảng
85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các
nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh

xã hội... Đặc biệt, lực lượng doanh nghiê pˆ thuôˆc khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần
thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi diện mạo đất nước, tạo
dấu ấn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; hình thành nhiều
thương hiệu có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Trong 9 tháng đầu năm 2021, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (bao gồm kinh
tế tập thể và kinh tế tư nhân) đã thể hiện được khả năng chống chịu lớn nhất khi thu
ngân sách so với dự toán đạt mức cao nhất trong cả ba khu vực. Thu từ khu vực kinh tế
ngồi quốc doanh đạt khoảng 74,2% dự tốn, tiếp đó đến thu khu vực doanh nghiê pˆ có
vốn đầu tư nước ngồi đạt khoảng 72,2% dự tốn và thu từ khu vực doanh nghiê pˆ nhà
nước đạt khoảng 71,2% dự toán.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục là một nguồn
vốn đầu tư quan trọng trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Vốn đầu tư tồn xã hơ iˆ từ
khu vực kinh tế tư nhân quý III/2021 giảm 1,4% so cùng kỳ và là mức giảm cao nhất
trong 3 khu vực (khu vực nhà nước giảm 20,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi giảm 20,7%). Tính chung 9 tháng năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội chỉ tăng 0,4%
chủ yếu nhờ lực kéo của vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân
đạt 1.100,5 nghìn tỷ đồng, bằng 58,9% và tăng 3,9% và là khu vực duy nhất có vốn đầu
tư tăng trưởng dương so với cùng kỳ (khu vực nhà nước giảm 4,7%; khu vực có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 3,4%).
Tuy nhiên, chất lượng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn một số hạn chế.
Tốc độ tăng năng suất của khu vực kinh tế tư nhân còn thấp, chỉ bằng 34% năng suất
lao động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và khoảng 69% năng suất lao động của
doanh nghiêˆp có vốn đầu tư nước ngồi. Năng lực khoa học cơng nghệ còn hạn chế,
đầu tư của doanh nghiêˆp cho đổi mới công nghệ chỉ chiếm khoảng 0,3% doanh thu,
thấp hơn nhiều so với các nước như Ấn Độ (5%), Hàn Quốc (10%)…Các doanh nghiệp
Việt Nam chưa chú trọng cải thiện khả năng liên kết, nâng cao năng lực cạnh tranh để
tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, chỉ có khoảng 21% doanh nghiê pˆ nhỏ và vừa
tham gia được một phần chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành cơng trong việc liên kết với
đối tác nước ngồi. Ngun nhân của những bất cập này là do một số rào cản thể chế.
Trong đó, hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân còn nhiều bất cập,

thiếu đồng bộ, chưa sát thực tế; môi trường đầu tư kinh doanh dù được cải thiện nhưng
vẫn còn hạn chế, việc tiếp cận cơ hội kinh doanh, nguồn lực phát triển chưa thực sự
bình đẳng, phát sinh nhiều chi phí trung gian và khơng chính thức.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh dịch Covid-19 kéo dài, khả năng chống chịu của các doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiêˆp thˆc khu vực kinh tế tư nhân nói riêng ngày càng
suy giảm. Các khó khăn cơ bản của doanh nghiêˆp vẫn là thiếu vốn, giá nguyên vâˆt liêˆu


tăng, chi phí logistics tăng làm chi phí sản xuất - kinh doanh tăng; trả lương, đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí cơng đồn; trả tiền vay ngân
hàng (gốc và lãi); trả tiền điện, nước và nguyên liệu đầu vào; trả tiền thuê kho bãi, nhà
xưởng, văn phòng, thiết bị.

IV. MỘT SỐ THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP VÀ CƠ CHẾ CHÍNH
SÁCH TRONG THỜI GIAN TỚI
A. Một số thách thức
Quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 2020 đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được
thì vẫn cịn một số vấn đề, thách thức.
1.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2020 không đạt kế hoạch đề ra do tác động, ảnh
hưởng lớn của dịch Covid-19, dẫn đến tăng trưởng bình quân 5 năm giai đoạn 2016 2021 không đạt mục tiêu đề ra. . Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP tăng từ 33% (năm 2016)
lên 33,9% (năm 2019) và dự kiến đạt 33,4% (năm 2020), đạt mức cao mục tiêu Quốc
hội giao (33 - 34%). Do đó, năng suất lao động tăng chủ yếu do tăng cường độ vốn.
Trong khi đó, dư địa để điều hành chính sách kinh tế vĩ mô đã hạn hẹp hơn rất nhiều so
với giai đoạn trước năm 2010. Nợ cơng, nợ chính phủ tương đối cao, làm tăng chi phí
trả lãi từ NSNN, cũng như hạn chế khả năng vay nợ mới. Là nước thu nhập trung bình,
Việt Nam cũng gặp hạn chế hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi nước
ngồi.Mơ hình tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào vốn và đầu tư nước ngoài. Tăng
trưởng ngày càng phụ thuộc vào khu vực có vốn FDI. Tỷ trọng khu vực có vốn FDI trong
GDP tăng từ 15,6% (năm 2011) lên 18,59% (năm 2016) và đạt 20,34% (năm 2019).

2.
Quá trình cơ cấu lại các ngành kinh tế chưa đạt được kết quả như kỳ vọng. Công
nghiệp chế biến, chế tạo chủ yếu hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, tỷ lệ
nhập khẩu lớn về nguyên, nhiên liệu, trình độ công nghệ sản xuất vẫn thấp so với thế
giới, tỷ lệ nội địa hóa cịn ở mức thấp; ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng chưa bền
vững, ngành du lịch vẫn chưa thể hiện được vai trò chủ đạo trong phát triển, hệ thống
phân phối còn nhiều bất cập, chi phí logistics cao hơn mức bình qn tồn cầu.
3.
Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao
động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu cơ chế, chính sách
hỗ trợ cho doanh nghiệp thực hiện đổi mới và ứng dụng công nghệ, đặc biệt là các công
nghệ tiên tiến theo xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo.


B. Một số định hướng để giải quyết những thách thức trên
Trong bối cảnh đó, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 đặt
ra mục tiêu là đảm đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trên cơ sở ổn định kinh
tế vĩ mô, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; phấn đấu tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao hơn mức bình quân của 5 năm 2016 - 2021. Do vậy, để đảm bảo
thực hiện được các mục tiêu kinh tế trong giai đoạn 2022 - 2025 hiệu quả cần phải chú
trọng đến các định hướng sau:
1.
Tiếp tục tập trung thực hiện “mục tiêu kép” trong những năm đầu của giai đoạn
2021 - 2025 khi còn dịch Covid-19, tuyệt đối không lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, thực
hiện hiệu quả cơng tác phịng và chống dịch. Đồng thời, các biện pháp phòng, chống
dịch cần được xây dựng trên cơ sở tính tốn kỹ lưỡng, hạn chế được tối đa tác động
tiêu cực đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
2.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc

đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mơ. Trong đó
tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để hoàn thiện cơ bản các yếu tố cấu thành
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
Nhà nước, thị trường và xã hội.
3.
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển nền kinh tế số. Trong đó
tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học và
cơng nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu của cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần
thứ tư, trong đó tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như
công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thơng; an tồn, an ninh mạng; cơng
nghiệp chế tạo thơng minh; tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số;
du lịch số; công nghiệp văn hóa số; y tế; giáo dục và đào tạo.
4.
Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư của nền
kinh tế. Thu hút tối đa nguồn lực đầu tư, đa dạng hóa các hình thức huy động và sử
dụng nguồn lực, nhất là các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước. Các nguồn lực của nền
kinh tế phải được kiểm kê, đánh giá, thống kê, hạch toán đầy đủ, đúng đắn để quản lý,
bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, hiệu quả và bền vững.
5.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng
dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hoá, nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng. Bên cạnh đó, thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư.




×