Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

(TIỂU LUẬN) đề tài nghiên cứu môn thuế quốc tế chi tiêu thuế là gì và chi tiêu thuế liên quan đến năng lượng to lớn như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.33 KB, 14 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM


ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
MƠN:
THUẾ QUỐC TẾ
CHI TIÊU THUẾ LÀ GÌ VÀ CHI TIÊU THUẾ LIÊN QUAN ĐẾN NĂNG LƯỢNG
TO LỚN NHƯ THẾ NÀO?

NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN
THỰC HIỆN NĂM 2021
DANH SÁCH THÀNH VIÊN

1


STT

TÊN

LỚP

MỨC ĐỘ HỒN
THÀNH

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

KÍ TÊN

ĐIỂM



M ỤC LỤC
PHẦM 1: LỜI NÓI ĐẦU

4
2


PHẦN 2: NỘI DUNG
I.
TĨM TẮT
II.
GIỚI THIỆU
III.
CHI TIÊU THUẾ LÀ GÌ
IV.
CHI THIÊU THUẾ ĐƯỢC DO LƯỜNG NHƯ THẾ NÀO?
V.
CÁC KHOẢN CHI TIÊU THUẾ LIÊN QUAN TỚI NĂNG LƯỢNG
LÀ NHƯ THẾ NÀO?
VI. TRỢ CẤP NĂNG LƯỢNG VÀ CHI TIÊU THUẾ TRONG CÁC QUỐC
GIA ĐANG PHÁT TRIỂN
VII. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

5
5
5
6
8

10
12
13
14

PHẦN MỘT: LỜI NĨI ĐẦU
Thực hiện theo sự phân cơng của giảng viên Đặng Thị Bạch vân, theo chương trình giảng
dạy và học tập mơn thuế Quốc tế nhóm 13 chúng em thơng qua q trình học tập, hỏi ý
và họp nhóm đã phiên dịch trình bày về chủ đề : “Chi tiêu thuế là gì và chi tiêu thuế về
năng lượng to lớn như thế nào?”
Trong quá trình thực hiện tập thể tụi con đã rất cố gắng nhưng vẫn không thể tránh khỏi
khó khăn thiếu sót và hạn chế nhất định. Mong cơ sẽ góp ý để chúng con có thể hồn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2021
3


4


PHẦẦN HAI: NỘI DUNG
I. TÓM TẮT
Chi tiêu thuế xảy ra khi chính phủ giảm nghĩa vụ thuế để họ thu được ít thuế hơn so với
mức mà chính phủ phải thu. Chi tiêu thuế là một phần không thể thiếu. Mặc dù gây tranh
cãi của tất cả hệ thống thuế đương thời. Chính sách này đầu tiên tóm tắt các cách thức mà
chi tiêu thuế có thể được xác định và đo lường. Ước tính quy mơ chi tiêu thuế thì khá
nhảy cảm đến những quyết định về sự định nghĩa và đo lường. Những tóm tắt này tập
trung sự liên quan đến năng lượng chi tiêu thuế (ERTEs). ERTEs ngày càng bị tấn cơng,
bởi vì chúng có thể dẫn đến thất thốt doanh thu do chính phủ, bởi vì bằng cách giảm giá

tiêu dùng của các sản phẩm từ nhiên liệu hóa thạch, và vì vậy tăng cường sử dụng chúng,
chúng góp phần làm ơ nhiễm khơng khí và nóng lên tồn cầu. Tuy nhiên, chúng ta biết rất
ít về quy mô của chúng,đặc biệt trong việc phát triển quốc gia. Một dữ liệu nhỏ tồn tại
trên ERTE đến từ OECD và nền kinh tế mới nổi, những gợi ý này rằng ERTE tương đối
nhỏ trong các quốc gia. Có rất ít ươc tính về ERTE ở các quốc gia đang phát triển. Tuy
nhiên, ước tính có sẵn về quy mô của việc trợ cấp năng lượng ( trong đó ERTE là một
thành phần) gợi ý rằng doanh thu có lợi của việc loại bỏ các khoản trợ cấp như vậy trong
các nước đang phát triển có thể lớn hơn nhiều.
II. GIỚI THIỆU
Tuy nhiên, chi tiêu thuế là một phần không thể thiếu, mặc dù gây tranh cãi, một phần của
hệ thống thuế đương đại. Trong khi chúng ta thường nghĩa trợ cấp dưới dạng phân bổ trực
tiếp từ ngân sách chính phủ, chi tiêu thuế (TEs) cũng là một loại trợ cấp khác. Điểm khác
biệt duy nhất là cơ chế giao nộp. Thay vì chuyển trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc nhà
sản xuất, TE làm việc gián tiếp bằng cách giảm nghĩa vụ thuế cho người tiêu dùng và nhà
sản xuất đối với chính quyền. Do đó chúng liên kết với nhau làm giảm một khoản doanh
thu cho chính phủ, như trái ngược với một khoản chi tiêu trực tiếp. Mặc dù TE làm giảm
doanh thu, nhưng các chính phủ biện minh cho chúng trên các nguyên tắc kinh tế. Để
hiêu làm thế nào, sẽ hữu ích khi nghĩ về hệ thống thuế như một công cụ của chính sách
cơng mà mục tiêu mở rộng là nâng cao doanh thu. Bằng việc thay thế cơ cấu thuế của
chính phủ có thể thay đổi giá, bằng việc thay đổi như vậy, họ có thể khơng khuyến khích
hay khuyến khích một số hành vi. Ví dụ như, bằng việc giảm thuế lên sự sản xuất trong
nước, TE có thể khuyến khích sự thay thế dầu sản xuất trong nước đối với dầu nhập khẩu.
Ngoài ra, bằng cách giảm phần trăm VAT trên nhiên nhiên cơ bản, các chính phủ tuyên bố
trợ giúp người nghèo. Tương tự, TEs có thể sử dụng để kích thích sự phát triển của nguồn
năng lượng thay thế. Tuy nhiên, câu hỏi về sự hiệu quả của TEs cần được những mục tiêu

5


trong chính sách này (ví dụ: Arze del Granado, Coady, & Gillingham, 2012; Metcalf,

2008).
Một trong những lí do giải thích sự phổ biến của TEs là chúng dễ thực hiện về mặt chính
trị hơn là chuyển giao trực tiếp điều này làm tăng ngân sách của chính phủ. Bằng cách ưu
đãi thuế, chính phủ có thể tài trợ hiệu quả cho các chính sách bên ngồi khung ngân sách
tiêu chuẩn vì chúng khơng u cầu chi tiêu mới một cách rõ ràng. Ở một vài quốc gia,
điều này có nghĩa là TEs khơng u cầu sự chấp nhận chính thức hàng năm của cơ quan
lập pháp bởi vì chúng khơng còn là ngân sách hàng năm nữa mà là một phần của luật
thuế. Do đó, chúng khơng cần phải ln luôn tuân theo một mức độ giám sát như là chi
tiêu thường xuyên (IMF, 2007). Điều này có thể cản trở sự minh bạc. Ví dụ, trong khi
chúng tơi có một số - mặc dù có giới hạn - ước tính về TE cho các nước OECD và các thị
trường mới nổi, chúng tơi có rất ít thơng tin về ERTE cho các nước đang phát triển, đặc
biệt là ở vùng cận Sahara Châu phi. Nó quan trọng cho sự cải thiện hiểu biết của mình về
TEs ở các nước đang phát triển, cả hai đều để giải quyết ô nhiễm và sự biến đổi khí hậu,
cũng như thu hẹp khoảng cách về tài chính để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Trong phần tiếp theo, chúng tôi thảo luận về phương án thay thế định nghĩa về chi tiêu
thuế. Trong Phần 3, chúng tôi giới thiệu những cách khác nhau mà TE có thể được đo
lường. Điều này sau đó được áp dụng, trong Phần 4, để ước tính quy mơ của thuế liên
quan đến năng lượng chi tiêu ở các nước OECD khác nhau. Phần 5 trình bày ước tính về
doanh thu đã bỏ qua từ năng lượng trợ cấp ở các nước đang phát triển (mặc dù dữ liệu
của chúng tôi không cho phép chúng tôi xem mức độ mở rộng được thúc đẩy bởi TE hoặc
những hình thức trợ cấp khác). Chúng tơi có thể kết luận với một số gợi ý cho các nghiên
cứu xa hơn về ERTEs.
III. CHI TIÊU THUẾ LÀ GÌ?
Khơng có một định nghĩa nào về chi tiêu thuế là toàn diện nhất(Bratić, 2006).
Hầu hết các định nghĩa đề cập đến việc chuyển giao công nguồn lực thông qua việc giảm
nghĩa vụ thuế liên quan đến một điểm tham chiếu thuế nhất định (Kraan, Năm 2004).
Tuy nhiên, có nhiều loại thuế các khoản chi tiêu. Redonda (2016) phân biệt sáu cách phân
loại TE khác nhau, dựa trên: cơ chế phân phối, loại thuế, loại ngân sách, mục tiêu chính
sách, người thụ hưởng và kích thước.


6


Hộp 1 tóm tắt các cách đánh thuế chi tiêu được cung cấp trong thực tế.
Hộp 1
Các cách cung cấp chi tiêu thuế
Việc giảm nghĩa vụ thuế làm phát sinh chi tiêu thuế có thể xảy ra theo những cách sau:
 Miễn trừ: Doanh thu hoặc giao dịch được loại trừ khỏi cơ sở thuế.
 Phụ cấp: Các khoản có thể được khấu trừ từ cơ sở thuế.
 Tín dụng: Số tiền có thể được khấu trừ từ nghĩa vụ thuế.
 Giảm thuế suất: Thuế suất thấp hơn được áp dụng chung.
 Trì hỗn: Trì hỗn hoặc chậm nộp thuế thanh toán.
Hầu hết các định nghĩa về TE đều liên kết rõ ràng chúng với định nghĩa của hệ thống thuế
chuẩn. Thật vậy, hầu hết những khó khăn trong việc đưa ra một định nghĩa cụ thể cho TE
có thể dẫn đến sự khác biệt trong quan điểm về những gì nên cấu thành hệ thống thuế
chuẩn. Do đó, khơng có gì ngạc nhiên khi các cơ quan quốc gia và quốc tế khác nhau áp
dụng các định nghĩa khác nhau (Burton & Sadiq, 2013). Điều này khiến một số người đặt
câu hỏi liệu khái niệm chi tiêu thuế có cịn phù hợp hay khơng (Burman, 2003). Tuy
nhiên, có hai cách tiếp cận để xác định hệ thống thuế chuẩn: một cách tiếp cận khái niệm
và một cách tiếp cận pháp lý.
Cách tiếp cận khái niệm định nghĩa TE là những sai lệch so với hệ thống thuế ‘lý tưởng’
được xác định về mặt lý thuyết. Trong trường hợp đánh thuế thu nhập, định nghĩa của
Haig-Simons về thuế thu nhập tồn diện là tiêu chuẩn thơng thường (Surrey & McDaniel,
1985). Điều này đảm bảo rằng việc đánh thuế dựa trên khả năng tiêu dùng hơn là tiêu
dùng thực tế, điều này có lợi thế kép là có thể đạt được cơng bằng theo chiều ngang, tức
là những cá nhân có vị trí tương tự bị đánh thuế theo cách tương tự, và công bằng theo
chiều dọc, tức là những người có khả năng nộp nhiều thuế hơn cũng đóng góp nhiều hơn,
đồng thời giảm thiểu các biến dạng kinh tế (Alm, 2018). Đối với việc đánh thuế hàng hóa
và dịch vụ, lý thuyết kinh tế đưa ra một khuôn khổ rõ ràng cho những việc nên làm. Việc
đánh thuế hàng hóa trung gian (đầu vào đến hàng hóa cuối cùng) nên được thực hiện theo

cách không làm sai lệch các quyết định sản xuất (Diamond & Mirrlees, 1971), ngoại trừ
việc điều chỉnh các yếu tố ngoại tác tiêu cực (Baumol, 1972), ví dụ: trong đó việc sản
xuất hoặc tiêu thụ một hàng hóa gây hại cho những người khác mà người sản xuất hoặc
người tiêu dùng khơng tính đến. Ví dụ, nhiên liệu phải bị đánh thuế sao cho giá của nó là
'chi phí bên ngồi', bằng giá thị trường + thuế suất tiêu chuẩn + chi phí ngoại ứng. Nếu
mức thuế thấp hơn mức này, thì khoản chênh lệch đó là trợ cấp ngầm hoặc chi tiêu thuế.
Phương pháp tiếp cận pháp lý sử dụng luật thuế của quốc gia làm cơ sở để xác định điểm
chuẩn và xác định sự khác biệt và đối xử ưu đãi. Định nghĩa cơ sở thuế trong mã số thuế
7


được lấy làm chuẩn. Chi tiêu thuế phát sinh khi có sự miễn trừ rõ ràng (hoặc hình thức ưu
đãi khác - xem Hộp 1) theo luật. Ví dụ: mã số thuế chung thường xác định cơ sở thuế
GTGT và thuế suất áp dụng, nhưng thường mã số thuế cụ thể theo ngành, chẳng hạn như
mã số thuế khai thác, sẽ có các ngoại lệ theo ngành cụ thể đối với mã số thuế GTGT
chung; với cách tiếp cận pháp lý, sự khác biệt giữa hai là một khoản chi tiêu thuế.
Sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận này là phạm vi và tính khả thi (chính trị) của chúng.
Thứ nhất, những gì có thể khơng được tính theo cách tiếp cận pháp lý vì nó nằm ngồi cơ
sở pháp lý, sẽ được tính trong cách tiếp cận khái niệm, vì nó vẫn là một phần của cơ sở
kinh tế. phương pháp tiếp cận pháp lý để lại quá nhiều chỗ để che giấu các nhượng bộ
thuế bằng cách đùa giỡn với các định nghĩa pháp lý (Villela, Lemgruber, & Jorratt, 2010).
Tuy nhiên, cách tiếp cận khái niệm cũng không khách quan. Bản thân việc lựa chọn tiêu
chuẩn khái niệm có liên quan đến các ý tưởng về các nguyên tắc mà hệ thống thuế phải
làm cơ sở (Shaviro, 2003). Ví dụ, khái niệm thu nhập của Haig-Simons dựa trên khả năng
chi trả. Tuy nhiên, công bằng chỉ là một tiêu chí khả thi cho một hệ thống thuế lý tưởng,
các tiêu chí khác bao gồm hiệu quả kinh tế, đủ thu nhập, dễ quản lý, đơn giản hoặc bền
vững về môi trường. Thứ hai, cách tiếp cận pháp lý thường dễ thực hiện hơn. Trong khi
các nhà kinh tế có xu hướng ủng hộ cách tiếp cận khái niệm tồn diện hơn, có thể khó
chuyển đổi những ý tưởng lý thuyết này thành thực tiễn hành chính khả thi. Bằng cách
tham khảo luật hiện hành, cách tiếp cận pháp lý cung cấp một điểm neo trực quan hơn,

giúp dễ hiểu hơn, khả thi hơn về mặt chính trị và dễ thực hiện hơn về mặt hành chính.
IV. CHI THIÊU THUẾ ĐƯỢC DO LƯỜNG NHƯ THẾ NÀO?
Định lượng TE không đơn giản. Từ lý thuyết kinh tế, chúng ta biết rằng thuế có thể ảnh
hưởng đến hành vi kinh tế, tức là nó có thể thay đổi số lượng tiêu thụ. Một thách thức lớn
trong việc đo lường TEs là giải thích cho sự thay đổi hành vi này. Ba phương pháp để
tính TE có thể được phân biệt: phương pháp tính khấu trừ doanh thu; phương pháp tăng
doanh thu; và phương pháp chi tiêu trực tiếp tương đương. Mỗi phương pháp đề cập đến
một khái niệm đo lường khác nhau với sự khác biệt chính là mức độ mà chúng tính đến
các thay đổi hành vi.
1. Phương pháp miễn trừ doanh thu: phương pháp này giả định không có thay đổi
hành vi và ước tính mức giảm tổng cộng các khoản nợ thuế dựa trên tình trạng hiện
tại của thế giới. Ví dụ, chi phí của việc giảm thuế suất đối với nhiên liệu sẽ đơn
giản là kết quả của việc giảm thuế suất và tổng mức tiêu thụ nhiên liệu - được giả
định là không thay đổi sau thuế.

8


2. Phương pháp tăng doanh thu: Phương pháp này kết hợp các thay đổi hành vi để ước
tính tổng doanh thu sẽ thu được nếu việc giảm thuế được xóa bỏ. Đó là, khoản thuế
sẽ được thu nếu áp dụng thuế này, có tính đến việc giảm tiêu thụ do giá cao hơn.
3. Phương pháp chi tiêu trực tiếp tương đương: phương pháp này giả định khơng có
thay đổi về hành vi nhưng có tính đến thực tế là việc loại bỏ một khoản chi tiêu
thuế làm cho người nộp thuế trở nên tồi tệ hơn. Do đó, phương pháp này tính tốn
tổng chuyển nhượng sẽ để lại cho người nộp thuế cùng một khoản thu nhập sau
thuế như họ sẽ có được với chi phí thuế tại chỗ. Cách tiếp cận này xem xét rằng
việc chuyển nhượng làm tăng thu nhập chịu thuế, do đó, một khoản chuyển nhượng
lớn hơn một chút được yêu cầu để người nộp thuế được hưởng lợi như nhau sau
thuế.
Bảng 1 cung cấp một ví dụ đơn giản cho mỗi phương pháp. Trong trường hợp này chúng

tôi, chúng tôi coi một khoản trợ cấp thuế đối với thuế thu nhập và tính tốn chi phí thuế
liên quan đến khoản trợ cấp thuế này là khoản chênh lệch giữa doanh thu (thuế thu nhập)
thu được vói khoản trợ cấp thuế tại chỗ và doanh thu thu được khi loại bỏ khoản phụ cấp,
sử dụng mỗi phương pháp trong số 3 phương pháp trên (Xem ghi chú để biết thêm chi
tiết)
(1)
Khơng có chi tiêu thuế
(2)
(3)
(4)
Với chi tiêu thuế
Doanh thu Doanh thu Chi tiêu
bị mất
tăng
trực tiếp
tương
đương
1
Thu nhập cơ
1,000
1,000
1,000
1,000
bản
2
Trợ cấp thuế
200
0
0
0

3
Chi tiêu trực
0
0
0
50
tiếp tương
đương
4
Thay đổi hành 0
0
-8%
0
vi
5
Thu nhập chịu 800
1,000
920
1050
thuế
6
Tỷ suất cận
20%
20%
20%
20%
biên
7
Thuế thu nhập 160
200

184
210
8
Thu nhập sau
840
800
736
840
thuế
9


9

Thuế suất có
16%
20%
20%
20%
hiệu lực
10
Chi tiêu thuế
40
24
50
Từ Bảng 1, rõ ràng là quy mô chi tiêu thuế theo phương pháp khấu trừ doanh thu khơng
bằng ước tính khi sử dụng phương pháp tăng thu, vì sau đó có tính đến sự thay đổi trong
hành vi. Việc lựa chọn phương pháp thường phụ thuộc vào mục tiêu của bài tập và sự sẵn
có của dữ liệu. Nếu mục tiêu là loại bỏ chi tiêu thuế và thay thế nó bằng một chương trình
chi tiêu, thì phương pháp chi tiêu trực tiếp tương đương là phù hợp nhất. Ngoài ra, nếu

mục tiêu là ước tính thu nhập tăng thêm có thể được mong đợi từ việc loại bỏ chi phí
thuế, thì phương pháp tăng thu là thích hợp nhất. Tuy nhiên, các ước tính chính xác sẽ
phụ thuộc chủ yếu vào bản chất và chất lượng của các thay đổi hành vi được ước tính.
Những sự co giãn này, hoặc những thay đổi hành vi, thường khơng có sẵn, đặc biệt là ở
các nước đang phát triển. Do đó, nhiều ước tính dựa trên cách tiếp cận miễn giảm doanh
thu, ngay cả ở các nước OECD (Villela và cộng sự, 2010). McKitrick (2017) cảnh báo
rằng điều này có thể làm tăng ước tính chi tiêu thuế.

V. CÁC KHOẢN CHI TIÊU THUẾ LIÊN QUAN TỚI NĂNG LƯỢNG LÀ NHƯ
THẾ NÀO?
Trong phần này, chúng ta tập trung vào chi tiêu thuế liên quan đến năng lượng hoặc
ERTEs, và cụ thể là liên quan đến nhiên liệu hóa thạch. Loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa
thạch là mục tiêu trong cuộc chiến chống ô nhiễm và biến đổi khí hậu. Tuy chúng ta được
thơng báo về chuyển đổi trực tiếp trong việc hỗ trợ sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nhưng
những điều này thường được ghi vào ngân sách chính phủ nên chúng ta có ít thông tin về
trợ cấp thông qua hệ thống thuế, hoặc chi tiêu thuế. Phần này được xây dựng dựa trên
thông tin thu thập bởi OECD (ví dụ: 2015, 2018) để cung cấp về độ lớn của TEs, nhưng
cũng để làm nổi bật một số thách thức trong việc giải thích các ước tính này.
Hình 1 xếp hạng chi tiêu thuế của nhiên liệu hóa thạch cho các nước OECD tính
theo phần trăm GDP. Trong năm 2016, các nước OECD chi trung bình khoảng 0,25%
GDP của họ, hoặc 0,74% doanh thu thuế trung bình, về hỗ trợ nhiên liệu hóa thạch thơng
qua hệ thống thuế. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia với nhau.

10


Brazil chi gần 0,90% GDP chi tiêu thuế cho nhiên liệu hóa thạch, trong khi Chilê chi thuế
cho nhiên liệu hóa thạch hầu như khơng đáng kể. Tuy nhiên, cần thận trọng khi diễn giải
những con số này, đặc biệt là khi so sánh số liệu giữa quốc gia. Thứ nhất, vì sự liên kết
giữa các TEs khác nhau, tổng doanh thu thu được từ việc loại bỏ chính sách giảm nghĩa

vụ thuế đối với cá nhân thuế không nhất thiết phải bằng tổng doanh thu thu được từ việc
loại bỏ tất cả các chính sách cùng một lúc (Altshuler & Dietz, 2011). Thứ hai, các phần
trước cho thấy rằng có thể có sự thay đổi đáng kể trong chi tiêu thuế ước tính tùy thuộc
vào các lựa chọn liên quan đến tiêu chuẩn và phương pháp ước lượng. Các con số OECD
trong Hình 1 được xây dựng dựa trên những gì mà các quốc gia cơng khai. Tuy nhiên, có
sự khác biệt đáng kể về phạm vi và độ sâu của báo cáo, cũng như về tiêu chuẩn và
phương pháp luận được sử dụng để đo ERTEs. ERTEs cao hơn có thể chỉ đơn giản là
phản ánh sự lựa chọn cho tỷ lệ mức thuế chuẩn cao hơn hoặc minh bạch hơn, thay vì hỗ
trợ cho nhiên liệu hóa thạch (OECD, 2015, trang 38).
Ví dụ, Määtä (2012) thấy rằng Na Uy định nghĩa ERTEs là sai lệch so với chi phí bên
ngồi, trong khi Đan Mạch thì khơng. Cả hai đất nước có thể cung cấp cùng một mức hỗ
trợ, nhưng vì tiêu chuẩn của Na Uy được đặt cao hơn so với Đan Mạch, nên mức thuế chi
tiêu cho nhiên liệu hóa thạch cũng thấp hơn. Sự so sánh giữa các quốc gia vì thế mà vơ
cùng khó khăn.
Do đó, cần phải thống kê rõ hơn nữa để hài hịa những ước tính này giữa các quốc
gia. OECD và Ủy ban Châu Âu đã bắt đầu làm việc này (ví dụ: Oosterhuis,
11


Razzini,Franckx & Ding, 2014). Tuy chúng ta có ước tính về TEs cho các nước OECD và
một số thị trường mới nổi, nhưng các nước đang phát triển thì lại có ít thơng tin hơn, đặc
biệt là Châu Phi Hạ Sahara.
VI. TRỢ CẤP NĂNG LƯỢNG VÀ CHI TIÊU THUẾ TRONG CÁC QUỐC GIA
ĐANG PHÁT TRIỂN
Bởi vì ở hầu hết các nước đang phát triển có rất ít dữ liệu hệ thống về quy mô chi
tiêu thuế (liên quan đến năng lượng hoặc không), các khoản chi tiêu thuế là dữ liệu về
quy mô trợ cấp năng lượng trong tổng thể. IMF đã đối chiếu dữ liệu về quy mô trợ cấp
năng lượng cho 96 quốc gia. Họ sử dụng phương pháp 'chênh lệch giá' để tính tốn trợ
cấp; điều này bao gồm chênh lệch giữa giá nhiên liệu trên thị trường quốc tế và giá trong
nước nhân với số lượng tiêu dùng hiện tại (Coady và cộng sự, 2016). Chênh lệch giá này

và các khoản trợ cấp liên quan, được tài trợ bằng 1 trong 4 cách: chuyển ngân sách trực
tiếp; chi tiêu thuế; cho vay ưu đãi; và tích lũy các khoản nợ phải trả (trong doanh nghiệp
nhà nước hoặc của chính phủ).
Tiếc rằng, khơng có dữ liệu hệ thống nào cho phép các nhà phân tích học phân tách các
nguồn thông tin này. Dù vậy, tất cả chúng
đều có ý nghĩa đối với thuế: chuyển ngân
sách trực tiếp có ý nghĩa tiêu cực hơn các
cách khác cho cùng một mức thuế; cho vay
ưu đãi và tích lũy nợ phải trả đều bao hàm
gánh nặng trong tương lai. Hơn thế nữa, trợ
cấp năng lượng cho một số quốc gia là rất
lớn và vượt trội hơn hẳn. Hình 2 cho thấy
quy mô của trợ cấp năng lượng ở Châu Phi
Hạ Sahara tính theo tỷ trọng GDP năm 2015.
Mặc dù chúng tơi khơng biết có bao nhiêu
trợ cấp trong số này là do chi tiêu thuế,
nhưng tổng thể quy mô của các khoản trợ
cấp là một bậc lớn hơn so với các nước
OECD. Các quốc gia tầm trung ở Châu Phi
Hạ Sahara có trợ cấp trên 1% GDP. Điều này
cho thấy, thẩm định giá bằng phương pháp
chi phí, bao gồm cả việc đánh thuế năng
lượng một cách thích hợp, có thể tạo ra
doanh thu bổ sung đáng kể trong các quốc
gia đang phát triển.
12


VII. KẾT LUẬN
Mặc dù đã tồn tại từ rất lâu, chi tiêu thuế liên quan đến năng lượng ngày càng được coi là

có vấn đề, nó khơng chỉ góp phần gây ra ơ nhiễm mơi trường và biến đổi khí hậu bằng
các trợ cấp cho các nguyên liệu hóa thạch mà còn gây ra những khoản thất thu đáng kể
cho nhiều chính phủ. Hơn nữa, các chi tiêu về thuế thường khơng có tính minh bạch hơn
so với chi tiêu trực tiếp.
Trong nội dung nàynày, chúng ta bắt đầu tóm tắt tóm tắt các cuộc tranh luận về việc xác
định và đo lường chi tiêu thuế. Đối với định nghĩa, các cách tiếp cận khái niệm tồn diện
hơn và có thể so sánh được, nhưng cách tiếp cận pháp lý thường trực quan hơn và dễ thực
hiện hơn. Đối với các phương pháp đo lường, một vấn đề quan trọng là làm thế nào để
giải thích các thay đổi hành vi do hậu quả của việc đánh thuế. Dữ liệu về chi tiêu thuế cịn
ít. Dữ liệu về ERTEs rất ít đến từ OECD và một số nền kinh tế mới nổi, cho thấy ERTEs
tương đối nhỏ ở các quốc gia này. Có rất ít ước tính về ERTE ở các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, ước tính về quy mơ của các khoản trợ cấp năng lượng (trong đó ERTE là một
thành phần) cho thấy rằng doanh thu được hưởng lợi từ việc loại bỏ các khoản trợ cấp
như vậy ở các nước đang phát triển có thể lớn hơn nhiều.

13


Tài li ệu tham kh ảo
What are ‘Tax Expenditures’ and How Big are Energy-related Tax Expenditures?
Roel Dom and Neil McCulloch
www.ictd.ac
Summary Brief Number 18

14



×