Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

(TIỂU LUẬN) lý luận của chủ nghĩa mác lênin về sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.15 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN TIÊN TIẾN CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
----------

BÀI TẬP LỚN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề tài: Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về sản xuất hàng hóa
và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam

GVHD: PGS. TS NGUYỄN THỊ THANH HIẾU
SVTH : BÙI LÊ ĐAN TÂM
MSSV : ………….
LỚP: Tài chính doanh nghiệp chất lượng cao 62C

TP. HÀ NỘI - NĂM 2021
Y

Tieu luan


MỤC LỤC
PHẦN 1. ĐẶC VẤN ĐỀ................................................................................................1
PHẦN 2. NỘI DUNG.....................................................................................................2
1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác về Kinh tế hàng hóa.....................................................2
1.1.1. Kinh tế hàng hóa...................................................................................................2
1.1.2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.................................................2
1.2. Đặc trưng và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa........................................................3
1.3. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa..........................................4
1.3.1. Các nhân tố của kinh tế hàng hóa.........................................................................4
1.3.2. Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa là quy luật giá trị và quy luật cạnh
tranh............................................................................................................................... 5


2.1. Liên hệ thực tế ở Việt Nam......................................................................................6
2.1.1. Tiềm năng và hạn chế của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta...................................9
2.1.2. Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới đến nay
........................................................................................................................................ 9
KẾT LUẬN..................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................15

Tieu luan


PHẦN 1. ĐẶC VẤN ĐỀ
Với bất kì quốc gia nào, nền kinh tế hàng hóa cũng đóng vai trị chủ đạo chi phối
đáng kể vào nền hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Sau hơn 45 năm đổi mới toàn diện, trước những thử thách gay go, những hoàn
cảnh hết sức khó khăn phức tạp nhưng Đảng và nhân dân Việt Nam khơng những đã
đứng vững được mà cịn vươn lên đạt được những thắng lợi trên nhiều mặt. Nguyên
nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi đó là Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết chuyển đổi từ
nền kinh tế hàng hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây chính là bước ngoặt quan trọng thể hiện một quyết định sáng suốt của Đảng
và Nhà nước ta, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội của đất nước. Nhìn lại trước
những năm đổi mới ta có thể thấy, suốt một thời gian dài các nước xã hội chủ nghĩa
(trong đó có nước ta) đã khơng nhận thức đúng vai trị của sản xuất hàng hóa, của kinh
tế thị trường, coi nhẹ, thậm chí phủ nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật
cung - cầu, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của kinh tế hàng hóa, phủ nhận quan hệ hàng
hóa - tiền tệ. Bởi vậy chúng ta khơng tạo được động lực để phát triển sản xuất, vô tình
hạn chế những ứng dụng của khoa học - kĩ thuật vào sản xuất, năng suất sản xuất tăng
chậm, gây rối loạn và ắc tách trong quá trình phân phối, lưu thơng làm cho nền kinh tế
rơi vào tình trạng kém năng động, trì trệ.

Như vậy từ việc nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về kinh tế hàng hóa
chúng ta sẽ có cái nhìn tổng qt hơn về vai trị cũng như hạn chế của nền sản xuất
hàng hóa để từ đó soi rọi vào vấn đề cấp bách hiện nay của nước ta trong công cuộc
đổi mới của nước ta đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “Lý luận của Chủ nghĩa Mác
Lênin về sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam” để làm đề bài
nghiên cứu cho bài tiểu luận này. Do hạn chế về hiểu biết nên trong bài viết này của
em sẽ khó tránh được những sai sót. Kính mong được thầy chỉ bảo để bài viết thêm
phần sâu sắc.

1

Tieu luan


PHẦN 2. NỘI DUNG
1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác về Kinh tế hàng hóa
1.1.1. Kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản phẩm đều do
những sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một sản phẩm nhất định, thành thử muốn
thỏa mãn các nhu cầu của xã hội thì cần có mua bán sản phẩm. Vì vậy sản phẩm trở
thành hàng hóa trên thị trường. (Lênin tồn tập, tập 1, trang 106). Như vậy, kinh tế
hàng hóa là một nền kinh tế mở, các quan hệ hầu hết được thể hiện dưới hình thái giá
trị.
Kinh tế hàng hóa xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, tồn tại
trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, đó là sản xuất hàng hóa giản đơn. Đến
chủ nghĩa tư bản sản xuất hàng hóa trở thành phổ biến và thống trị trong nền kinh tế,
không những thế còn phát triển lên giai đoạn cao hơn là kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Đến chủ nghĩa xã hội vẫn cịn sản xuất hàng hóa. Đó là sản xuất hàng hóa lớn
xã hội chủ nghĩa hay còn gọi là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

1.1.2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn liền
với hai điều kiện tiền đề:
Một là, có sự phân công lao đông xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chun
mơn hóa sản xuất, mỗi người chỉ sản xuất một hay một số loại sản phẩm nhất định.
Song nhu cầu cuộc sống lại đòi hỏi nhiều loại sản phẩm khác nhau. Vì vậy người sản
xuất này phải dựa vào người sản xuất khác, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
Ví dụ: Người nơng dân thì sản xuất ra lúa gạo, còn người thợ dệt sản xuất ra vải
vóc. Nhưng người nơng dân cũng phải cần đến vải vóc và người thợ dệt cũng cần lúa
gạo. Để thỏa mãn nhu cầu của mình họ phải nương tựa vào nhau, trao đổi sản phẩm
cho nhau.
Như vậy phân công lao động xã hội là biểu hiện sự phát triển của lực lượng sản
xuất làm cho năng xuất lao động tăng lên và làm cho trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu. Tuy nhiên theo Các Mác đây mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để sản xuất
hàng hóa ra đời và tồn tại.
2

Tieu luan


Hai là, có chế độ tư hữu hoặc các hình thức khác nhau về tư liệu sản xuất hàng
hóa và sản phẩm, điều này làm cho người sản xuất hàng hóa độc lập với nhau và mỗi
người có quyền đem sản phẩm của mình trao đổi với người khác. Đây là điều kiện đủ
để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại.
Như vậy phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào nhau còn
chế độ tư hữu lại chia rẽ họ, làm họ độc lập với nhau, đây là một mâu thuẫn. Tuy nhiên
sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời cả hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong
hai điều kiện ấy thì khơng có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động khơng mang
hình thái hàng hóa.
1.2. Đặc trưng và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa

Đặc trưng: Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Lao động của
người sản xuất vừa mang tính chất tư nhân, vừa mang tính chất xã hội. Mục đích của
sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận.
Tính ưu việt: Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản
phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế, và là
một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cung tự cấp.
Nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã
hội. Nó thúc đẩy q trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng làm cho sự phân cơng
chun mơn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa chặt chẽ hình thành các mối
quan hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của những người sản xuất hình thành thị
trường trong nước và thế giới. Nó thúc đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản
xuất, đó là cơ sở để thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Bước chuyển từ kinh tế háng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường: Kinh tế hàng
hóa và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế thị trường là
hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển, điều đó
có nghĩa là phạm trù hàng hóa, tiền tệ và thị trường được phát triển, mở rộng. Hàng
hóa không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm các yếu
tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được hoàn thiện
và mở rộng. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hóa. Khi đó người ta
gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường.

3

Tieu luan


1.3. Các nhân tố và quy luật vận động của kinh tế hàng hóa
1.3.1. Các nhân tố của kinh tế hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thơng qua trao đổi mua bán.

Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng (đem tiêu dùng/ sử dụng) và giá trị
(đem trao đổi/ mua bán). Giá trị sử dụng là cơng dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người thể hiện ở việc sử dụng và tiêu dùng. Giá trị sử dụng
hay cơng dụng của hàng hóa trước hết là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa
quyết định.
Như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Một sản phẩm đã là hàng hóa
thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Nhưng khơng phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng
cũng là hàng hóa (vì hàng hóa phải là sản phẩm lao động của con người). Trong kinh
tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. Theo Các Mác muốn hiểu
được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Có thể nói trao đổi hàng hóa phải căn
cứ vào giá trị, có nghĩa là: hai hàng hóa trao đổi với nhau phải ngang nhau về mặt giá
trị.
Vậy giá trị của hàng hóa là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa
đó. Hay nói cách khác giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa. Khi giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi, giá trị trao đổi
chính là hình thức biểu hiện của giá trị. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì
giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây
là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ: Với tư cách là
giá trị sử dụng thì hàng hóa khác nhau về chất, còn với tư cách là giá trị thì với mọi
hàng hóa đều đồng nhất về chất. Q trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng khác
nhau về khơng gian và thời gian.
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa: Các Mác là người đầu tiên đã phát
hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là lao động cụ thể và lao
động trừu tượng.
Lao động cụ thể là lao động sản xuất vật chất của con người, nó tồn tại dưới hình
thức nghề nghiệp chun mơn nhất định, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của vật
phẩm, các lao động cụ thể khác nhau về chất, mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng,
4


Tieu luan


phương pháp riêng, đối tượng và kết quả riêng. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh
viễn, nó gắn liền với lao động sản xuất vật chất của con người. Lao động trừu tượng là
lao động hao phí của người sản xuất hàng hóa nói chung về sức thần kinh, cơ bắp, thể
lực và trí lực, nếu như gạt bỏ tính mn màu mn vẻ của các hình thức cụ thể của lao
động. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa nên nó là một phạm trù lịch sử.
Tuy nhiên cần chú ý là không phải có 2 thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà
chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa có tính 2 mặt mà thơi. Trong nền sản xuất
hàng hóa giản đơn thì tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là sự biếu hiện của
mâu thuẫn lao động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hóa.
Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn.
1.3.2. Quy luật vận động của kinh tế hàng hóa là quy luật giá trị và quy luật
cạnh tranh
Trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào giá trị, đây chính là nội dung của quy luậtgiá
trị. Quy luật giá trị là quy luật của sản xuất hàng hóa, ở đâu có sản xuất hàng hóa ở đó
có quy luật giá trị tác động. Quy luật giá trị chi phối việc sản xuất và trao đổi trong nền
kinh tế hàng hóa. Nội dung của quy luật này được biểu hiện thông qua sản xuất và lưu
thông. Trong sản xuất, đối với thời gian hao phí cá biệt thì đại bộ phận là tương đương
với thời gian lao động cần thiết, một số ít nhỏ hơn thì lại có một số lớn hơn. Đối với
tồn xã hội thì tổng thời gian hao phí cá biệt bằng tổng thời gian lao động xã hội cần
thiết. Trong lưu thơng, đối với một loại hàng hóa giá cả có thể lên xuống nhưng phải
xoay quanh trục giá trị (nguyên nhân là do tác động của quan hệ cung – cầu). Đối với
tổng hàng hóa trên phạm vi xã hội thì giá trị của nó được biểu hiện là: tổng giá cả hàng
hóa bằng tổng giá trị hàng hóa.
Từ nội dung của quy luật giá trị, ta có thể thấy rõ được tác dụng của nó trong nền
kinh tế hàng hóa.
Thứ nhất, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết tự phát sản xuất (phân phối tư liệu
sản xuất và sức lao động) và lưu thông (nguồn hàng) qua sự biến động của giá cả thi

trường.
Thứ hai, quy luật giá trị kích thích sự phát triển tự phát koa học công nghệ, lực
lượng sản xuất, hiệu quả và năng suất lao động xã hội, làm cho giá trị cá biệt thấp hơn
giá tri xã hội.

5

Tieu luan


Ngồi ra quy luật giá trị cịn phân hóa người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo,
làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát sinh và phát triển.
Cạnh tranh là động lực, là nguyên tắc cơ bản và tất yếu của kinh tế hàng hóa. Nó
tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hóa độc lâp và khác nhau về lợi ích kinh
tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hóa đều phải sản
xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao đọng xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó,
các đơn vị kinh doanh phải ganh đua, đấu tranh nhằm giành được những điều kiện
thuận lợi và thu nhiều lợi ích cho mình. Đối tượng cạnh tranh của các chủ thể kinh tế
là giành nguồn nguyên liệu, thị trường, lực lượng khoa học kỹ thuật, chất lượng, giá cả
bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế.
Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh
tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: cạnh
tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hóa và dich vụ trên thị trường. Hình
thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích
cuối cùng của cạnh tranh là lợi nhuận.
Lợi nhuận là động lực mạnh nhất của nền kinh tế hàng hóa: Trong nền kinh tế
hàng hóa lợi nhuận ln được các nhà đầu tư kinh tế, các tổ chức kinh tế coi là động
lực mục tiêu của mình. Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi nhuận thu về nhiều nhất.
Điều này địi hỏi tính chun mơn cao, sự sắp xếp lại cách tổ chức quản lý. Tổ chức lại
các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để q trình hoạt động nhịp

nhàng thơng suốt tránh sự trì trệ khơng cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh
hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận cồng kềnh còn giúp các
nhà kinh tế giản bớt được chi phí, đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Ngồi ra cịn cải
tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Tóm lại lợi nhuận là
động lực cơ bản của sự vận động của nền kinh tế hàng hóa.
2.1. Liên hệ thực tế ở Việt Nam
Theo quan điểm của Các Mác kinh tế hàng hóa khơng phải là một phương thức
sản xuất độc lập mà là một hình thức tổ chức kinh tế tồn tại trong các phương thức xã
hội. Với phạm vi và mức độ khác nhau, tuy cùng là nền kinh tế hàng hóa nhưng bản
chất của xã hội quy định đặc điểm của kinh tế hàng hóa xã hội đó. Nhà nước ta là nhà
nước xã hội chủ nghĩa nên vai trò quản lý của nhà nước định hướng nền kinh tế hàng
hóa theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
6

Tieu luan


Thực trạng kinh tế Việt Nam để chúng ta phải chuyển sang phát triển kinh tế
hàng hóa là tất yếu khách quan. Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm sản
xuất của các nước xã hội chủ nghĩa, đất nước ta bắt đầu xây dựng mơ hình kế hoạch
hóa tập trung dựa trên hình thức sở hữu cơng cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực
của nhân dân ta cộng thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa khác, mơ
hình kế hoạch hóa đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế
hàng hóa lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch Nhà nước đã tập trung vào tay
mình một lực lượng quan trong về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển
kinh tế.
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng
hóa. Chỉ thị 1000 của ban Bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của Chính phủ
năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất nhỏ lên

sản xuất lởn nước ta là quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế
hàng hóa. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không chỉ thừa nhận từng khâu, từng
phần sản phẩm là sản xuất hàng hóa mà là cả một nền kinh tế hàng hóa, coi đó là một
q trình có tính quy luật đi lên sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tại hội nghị TW
6 (khóa VI, 3/1989) và Đại hội VII (6/1991) trên cơ sở nhận thức sâu hơn về tình hình
đất nước, Đảng ta mới có điều kiện nói rõ và nhấn mạnh “Nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn
cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất của xã hội”.
Trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ trương đúng đắn về việc sử dụng kinh
tế hàng hóa do các đại hội trước đề ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế
hàng hóa – mà phát triển cao hơn chính là kinh tế thị trường “Cơ chế thị trường đã
phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những
khơng đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát
triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa”.
Đây là bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta. Quan
điểm này xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội ở nước ta, từ nguyện vọng chính đáng
của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mơ hình của Mác-Lênin về một chủ nghĩa xã hội
có nền kinh tế hàng hóa. Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật
kinh tế và với xu thế của thời đại. Bởi vì:
7

Tieu luan


Thứ nhất, nếu chúng ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn giữ nguyên cơ chế
kinh tế cũ thì khơng thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích
lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỉ 80 đã chỉ rõ việc
thực hiện cơ chế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh
tế cũ, nhưng hiệu quả của nền kinh tế xã hội đạt đến mức rất thấp, sản xuất không đáp
ứng nổi tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như khơng có, đơi khi cịn ăn lạm cả vào

vốn vay của nước ngoài.
Thứ hai, do nền kinh tế đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do nó
chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng
phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại q dài do
đó mó khơng những khơng cịn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát
triển mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và
hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hội
nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, nước ta còn tồn tại kinh tế đối ngoại, còn tham
gia vào sự phân công hiệp tác quốc tế. Mặt khác nếu nền kinh tế nước ta hội nhập với
nền kinh tế thị trường thế giới,giao lưu về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của
nước ngoài sẽ làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh
tế thị trường thế giới, tương quan giá cả các loại hàng hóa trong nước sẽ gần gũi hơn
với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.
Thứ 4, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của
mỗi nước không thể tách rời phát triển và hội nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữa các
quốc gia đã thay đổi hẳn về chất khơng cịn là dân số đơng, vũ khí nhiều, quân đội
mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích chính sách của các quốc gia là tạo ra được
nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời
sống nhân dân được ổn định, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã thành thước đo chủ
yếu, vai trò sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì
sức mạnh của Đảng cầm quyền.

8

Tieu luan


2.1.1. Tiềm năng và hạn chế của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta
Tiềm năng: Có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, vị trí địa lí

thuận lợi. Có sức lao động dồi dào, trình độ văn hóa, trình độ về chun mơn so với
nhiều nước đang phát triển thì nước ta ở mức trung bình. Chúng ta có đường lối, chính
sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Hạn chế: Tuy là nước nông nghiệp nhưng bình quân ruộng đất canh tác theo đầu
người thấp. Nền kinh tế kém phát triển, mang nặng dấu ấn của kinh tế tự nhiên, còn
chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thi trường chưa phát triển
và chưa đồng bộ, thu nhập quốc dân theo đầu người thấp, sức mua còn hạn chế. Kết
cấu hạ tầng cơ sở cịn kém phát triển, trình độ khoa học kĩ thuật chưa cao, hệ thống
pháp luật còn nhiều bất cập Đảng và Nhà nước ta đang có những chính sách, giải pháp
để khắc phục những hạn chế trên.
2.1.2. Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới
đến nay
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó khăn,
đến hôm nay, sau gần 45 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta
đã có những bước tiến vững vàng , tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước.
Chúng ta có thể tự hào khẳng định kinh tế Việt Nam 45 năm qua đạt được nhiều thành
tựu to lớn.
Một là, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, kinh tế tăng trưởng
nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân
không ngừng được cải thiện.
Các công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Khi
bước vào thực hiện chiến lược 10 năm 2010-2020, đất nước ta vẫn chưa thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế xã hội, những ảnh hưởng di chứng còn lại sau chiến tranh. Nhờ
triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đến năm 2020, hầu hết các
chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 2010 – 2020 được hoàn thành vượt mức, tạo được tiền
đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và lên tiến trình hội nhập quốc tế.


9

Tieu luan


Từ năm 2016 đến năm 2020 đất nước ta đạt được nhịp độ tăng trưởng cao. Tốc
độ tăng trưởng bình quân GDP của 10 năm (2000 - 2020) đạt 7,5%; Năm 2020 so với
năm 2019, GDP tăng hơn 2 lần. Trong 5 năm (2015 - 2020) của nhiệm kỳ Đại hội
XXII, GDP bình quân tăng gần 7,5%, riêng năm 2015 đạt 8,4%. GDP bình quân đầu
người khoảng 10 - 15 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các
nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm
phải nhập khẩu 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005 - 2010, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất
khẩu hạt tiêu, đứng thứ hai về gạo, cà phê, hạt điều, thứ tư về cao su.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mơ được duy trì, bảo đảm
sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi
thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành, cải cách thể chế kinh tế, từng bước
hồn thiện các chính sách cơ chế quản lý và hệ thóng điều hành, cải cách và nâng cao
hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ, phát triển nguồn và chất lượng lao động,
khoa học và công nghệ.
Giai đoạn 2016-2020, nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và
quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm
nước có thu nhập thấp trở thành nước có thu nhập trung bình. GDB bình qn 5 năm
đạt 7%. GDP năm 2020 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với
năm 2010. Mặc dù bị tác động của Đại dịch Covid - 19 làm cho kinh tế tồn cầu suy
thối, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao đó là nhờ vào
cơng tác đấu tranh với dịch bệnh quá tốt làm cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước
ngoài đẩy nhà máy và các cơ sở về Việt Nam.
Trong năm 2021, sau một năm bị ảnh hưởng nặng nề của Đại dịch và sự tàn phá
của thiên tai, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7% năm, tuy thấp hơn kế

hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu
vực. Như vậy, trong vòng 20 năm (2000 - 2020), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34% năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới
nói chung. Quy mô kinh tế năm 2021 gấp trên 4,4 lần năm 2000, gấp trên 2,1 lần năm
2010.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
10

Tieu luan


bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa
dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả
năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và
mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp
mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và
đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5
năm (2020 - 2025) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn sản xuất với thị trường. Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nơng nghiệp trong GDP giảm dần, cơ
cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản
phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng
cơng nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, cơng nghệ ngày càng hiện
đại. Nơng nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp
và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối
lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế, xuất khẩu
cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên
thế giới.

Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thơng phát triển với tốc độ
nhanh, các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển.
Ba là, thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ
chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng
xóa bao cấp, thực hiện mơ hình cơng ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của
doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng
tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2015, khu vực kinh tế tư nhân đóng
góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
11

Tieu luan


quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao cơng nghệ, giao thơng
quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Bốn là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình
thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng
bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và
bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ theo hướng
tiến bộ, hiệu quả, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu

vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương CPTPP (TPP11). Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương
mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương
với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng
và hoàn thiện, chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành
luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn, môi trường đầu tư, kinh
doanh được cải thiện, các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành,
phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh. 
2.1.3. Điều kiện và giải pháp để phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
Thứ nhất, đa dạng hóa các loại hình sở hữu, hình thành ra sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp và sở hữu cá thể phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Thứ hai, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.
Thứ ba, phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường sức lao động, thị
trường tư liệu sản xuất, thị trường tiêu dùng và dịch vụ.
Thứ tư, xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường về pháp lý.
Thứ năm, phát triển kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại.

12

Tieu luan


Thứ sáu, đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, cải
cách thủ tục hành chính quốc gia. Đổi mới cơng cụ quản lý vĩ mơ của Nhà nước, đặc
biệt là thơng qua chính sách phân phối thu nhập để đạt được tiến bộ và công bằng xã
hội, chuyển dịch cơ chế nhanh sang cơ chế thị trường và đổi mới chính sách kinh tế

cho thích hợp.

13

Tieu luan


KẾT LUẬN
Như vậy trong bài tiểu luận này em đã trình bày “Lý luận của chủ nghĩa
Mác Lênin về sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam”. Đất nước
ta hiện nay trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là một thời kì phức
tạp và đầy biến động, một thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho chủ nghĩa
xã hội để hoàn thành cách mạng dân chủ. Với điểm xuất phát thấp, điều kiện
kinh tế khó khăn và có nhiều trở ngại, muốn phát triển nền kinh tế bền vững ta
thực hiện nền kinh tế hàng hóa là một bước ngoặt quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội là yếu và cần thiết.
Tuy nhiên trong q trình thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
đã xuất hiện nhiều khó khăn phức tạp và đã tác động đến mặt xã hội nói chung.
Để hạn chế những tác động này ta cần định hướng cho nền kinh tế phát triển,
buộc nó phải đi theo con đường mà chúng ta lựa chọn là xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Chính vì vậy chính sách phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần có sự định hướng xã hộii chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết và hợp lý của
quy luật phát triển, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ sáng suốt của Đảng. Trong khi
thực hiện từng bước sự chuyển đổi này chúng ta phải giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, đứng ngang tầm với mục tiêu phát triển kinh tế. Muốn vậy cần
phải ngày càng hoàn chỉnh bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật,
đảm bảo đưa nước ta theo con đường chủ nghĩa như đã chọn.
Bản thân em – là một sinh viên lớp Tài chính Doanh nghiệp – Chất lượng
cao thì qua việc làm bài tiểu luận này giúp em hiểu biết sâu hơn về đường lối đổi
mới kinh tế, tài chính của Đảng và điều đó cũng thơi thúc em phải ln học hỏi,

tìm tịi, rèn đức luyện tài để có đủ kiến thức sau này ra trường trở thành một nhà
kinh tế đủ trình độ, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp hơn, văn
minh hơn.
Cuối cùng em xin cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Hiếu đã cung cấp
phần lớn kiến thức và phương pháp luận để em hoàn thành bài tiểu luận này.

14

Tieu luan


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
NXB Đại học Kinh tế quốc dân;
2. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần VI, VII, VIII và các Nghị quyết TW có liên quan;
3. PGS. TS Trần Thị Minh Châu (2020), Vận dụng sáng tạo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế sản xuất hàng hố, Hồ Chí Minh
2020;
4. Ths. Nguyễn Thị Phương Dung – Khoa lý luận chính trị, trường
Đại học Bách khoa (2020), Vận dụng chủ nghĩa lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin về sản xuất, sở hữu hàng hoá trong phát triển nền kinh tế
Việt Nam, Tạp chí tài chính, Hà Nội 2020;
5. Bùi Phụ - Trưởng phòng Quản lý đào tạo và Nghiên cứu khoa
học (2019), Những vấn đề lý luận về tái sản xuất của C. Mác và sự
phát triển của V.I.Lê-nin – Vận dụng ở Việt Nam, Trường chính trị
tỉnh Kom Tum;
6.

Ths. Ngơ Quang Thịnh (2021), Giá trị và sức sống của lý thuyết


hàng hóa - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tạp chí Cơng thương, Hà Nội 2021;

15

Tieu luan



×