Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

(TIỂU LUẬN) lý LUẬN về NHÀ nước và PHÁP LUẬT 2 đề bài tìm hiểu về quy trình làm luật ở nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.03 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TR

ƯỜ
NG Đ I Ạ
H CỌKINH TẾẾ QUỐẾC DÂN

LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 2

Đề bài: “Tìm hiểu về quy trình làm luật ở Nhật bản”

Thành viên nhóm 4: - Chu Hà Phương – MSV: 11218361
- Vương Hoàng Nga – MSV: 11218354
- Đoàn Yến Ngọc – MSV: 11218356
- Trần Thị Bích Ngọc – MSV: 11214407
- Nguyễn Hồng Nhung – MSV: 11218358
- Phạm Linh Phương – MSV: 11214870
- Phạm Thị Ngọc Quyết – MSV: 11218365


QUY TRÌNH LÀM LUẬT Ở NHẬT BẢN
I.

Giới thiệu chung về Quốc hội và Nội Các của Nhật Bản

Quốc hội là lập pháp lưỡng viện của Nhật Bản. Quốc hội bao gồm Tham
Nghị viện (tức Thượng viện) và Chúng Nghị viện (tức Hạ viện). Cả hai viện
được bầu cử trực tiếp theo hệ thống bầu cử song song. Ngồi việc thơng qua các
đạo luật, Quốc hội có quyền lựa chọn Thủ tướng điều hành chính phủ. Quốc hội
thành lập đầu tiên vào năm 1889, đó là kết quả của việc thơng qua Hiến pháp
thời Minh Trị. Được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực nhà nước cao


nhất.
Hạ nghị viện có nhiệm kì là bốn năm. Độ tuổi được ứng cử là 25 tuổi.
Hiến pháp quy định Hạ nghị viện có thể bị giải tán bởi Sắc lệnh của Thiên
hồng trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng còn Thượng nghị viện thì khơng. Hạ
nghị viện hiện nay gồm có 500 ghế. Hội đồng và các Uỷ ban của Hạ viện là các
cơ quan hoạt động thường xuyên, thực hiện chức năng thẩm định các dự án luật
trước khi trình để thông qua hai viện và giám sát hoạt động của Nội các như ra
các Nghị quyết khơng tín nhiệm Nội các và Thủ tướng.
Thượng nghị viện gồm 252 nghị sĩ được bầu chọn theo những cách
thức khác nhau. Độ tuổi được ứng cử là 30 tuổi. Nhiệm kỳ của Thượng Nghị
viện Nhật Bản là 6 năm và cứ 3 năm một lần lại bầu lại một nửa số Thượng
Nghị sĩ. Số thượng nghị sĩ này sẽ được Uỷ ban Kiểm tra tư cách của Thượng
Nghị viện kiểm tra tư cách trong khoá họp đầu tiên của mỗi 3 năm bầu bổ sung
đó. Cũng trong khố họp này, Thượng Nghị viện tiến hành việc xác định cơ cấu
tổ chức như: bầu ra Chủ tịch Thượng Nghị viện, Hội đồng và các cơ quan
chuyên môn, giúp việc của Thượng Nghị viện.
Nội các Nhật Bản là nhánh hành pháp của chính quyền ở Nhật Bản.
Đứng đầu nội các là Thủ tướng. Giúp việc cho Thủ tướng là các Bộ trưởng. Bổ
nhiệm và miễn nhiệm các bộ trưởng sẽ thuộc quyền của Thủ tướng Tập thể Nội
các chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải từ chức hoặc xin Thiên hoàng giải
tán Chúng Nghị viện nếu bị Chúng Nghị viện mất tín nhiệm. Nội các Nhật Bản
hiện đại được thành lập theo Hiến pháp năm 1946 của Nhật
II.

Các cơ quan chịu trách nhiệm trong hoạt động xây dựng pháp luật ở
Nhật Bản


Theo điều 41 Hiến pháp của Nhật Bản quy định thì Quốc hội là cơ
quan độc hữu quyền lập pháp. Trong hoạt động lập pháp theo nghĩa thực chất,

Quốc hội phải quy định tất cả, trừ những ngoại lệ do HP quy định như Quy chế
nghị viện, Quy chế tòa án tối cao (khoản 2 Điều 58 và khoản 1 Điều 77 HP).
Tức là, chỉ có Quốc hội thực hiện hoạt động lập pháp và không cho phép các cơ
quan khác không phải Quốc hội tham dự vào. Và như vậy, nghị định do Nội các
ban hành phải là văn bản nhằm mục đích thi hành luật hoặc là dựa trên sự ủy
quyền cụ thể của luật. Trong Điều 5 Luật Nội các cũng có quy định: “Thủ tướng
Nội các thay mặt Nội các trình các dự án luật, ngân sách và các nội dung khác
theo đề xuất của Nội các lên Quốc hội...”
Trong hoạt động xây dựng pháp luật tại Nhật, các dự án luật sẽ do Nội
các và do nghị sĩ trình tùy vào chủ thể đề xuất và trình lên Quốc hội. Một dự
luật trở thành luật phải được cả hai Viện (thượng viện và hạ viện) thông qua.
Nếu một dự luật được Hạ viện thông qua và Thượng viện quyết định khác với
Hạ viện, dự luật trở thành luật khi được thông qua lần 2 tại Hạ viện theo đa số
(được 2/3 các thành viên có mặt trở lên bỏ phiếu thuận). Việc không thực hiện
hành động cuối cùng (nghĩa là trường hợp khơng có phản ứng gì đối với dự
luật) trong vịng 60 ngày của Thượng viện sau khi nhận được dự luật, Hạ viện
có thể quyết định bác bỏ dự luật trên.
Số lượng các dự án luật của Nội các trình được thơng qua nhiều hơn
hẳn so với các dự án luật do nghị sĩ trình vì phần lớn dự án luật quan trọng là do
Nội các trình.
Để thực hiện có hiệu quả hoạt động trình dự án luật do Chính phủ soạn
thảo trình Quốc hội, Chính phủ Nhật bản đã thành lập Tổng cục Pháp chế để
giúp Chính phủ thẩm định các dự án luật do Chính phủ trình Quốc hội. Tổ chức
bộ máy của Tổng cục Pháp chế Phủ Nội các gồm có Tổng cục trưởng, các Phó
Tổng cục trưởng và 5 cục. Tổng cục trưởng có hàm Bộ trưởng. Trong đó, Cục
1, 2, 3 và 4 của Tổng cục pháp chế có trách nhiệm thẩm định các dự án, văn bản
và tham mưu cho Thủ tướng, Nội các về các vấn đề pháp luật. Cục 5 của Tổng
cục Pháp chế thực hiện nhiệm vụ tổng hợp, hành chính và tài vụ v.. v..
Về hoạt động xây dựng Pháp luật, Tổng cục pháp chế Phủ Nội các
có nhiệm vụ: tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Nội các về

các vấn đề pháp luật; thẩm định các dự án luật, dự thảo nghị định và điều ước
quốc tế trước khi trình Chính phủ xem xét. Việc thẩm định được phân định một
cách rành mạch trong các cục của Tổng cục Pháp chế như sau:


+ Cục 1 chịu trách nhiệm thẩm định các dự án luật, dự thảo nghị định liên quan
đến cải cách hệ thống tư pháp.
+ Cục 2 chịu trách nhiệm thẩm định các dự án luật, dự thảo nghị định liên quan
đến tổ chức và hoạt động của Nội các, Văn phịng Nội các, Bộ Tư pháp, Bộ
Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ, Bộ Điền địa, Hạ tầng cơ
sở và Giao thông.
+ Cục 3 chịu trách nhiệm thẩm định các dự án luật, dự thảo nghị định liên quan
đến cơ quan dịch vụ tài chính, Bộ Quản lý cơng, Nội vụ, Bưu chính, Viễn
thơng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê.
+ Cục 4 chịu trách nhiệm thẩm định các dự án luật, dự thảo nghị định liên quan
đến Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Y tế, Lao động và Bảo
hiểm, Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản, Bộ Kinh tế và Công nghiệp...
Như vậy, căn cứ vào từng lĩnh vực phụ trách Tổng cục pháp chế Phủ
Nội các quy định cho mỗi cục nhiệm vụ thẩm định cụ thể, khắc phục được sự
chồng chéo về chức năng nhiệm vụ và đảm bảo đượctính chun mơn cao. Quy
trình thẩm định của Tổng cục Pháp chế Phủ Nội các được thực hiện theo
nguyên tắc chỉ thẩm định dự án văn bản khi dự án đó được gửi tới Thủ tướng
Chính phủ và q trình thẩm định có sự tham khảo ý kiến của các cơ quan soạn
thảo, các cơ quan khác có liên quan, các đảng phái chính trị, các hiệp hội về dự
án văn bản.
Với cấu tạo như vậy, Ban Pháp chế của mỗi viện và Tổng cục Pháp
chế của Văn phịng Chính phủ được coi là bộ phận giúp việc hữu hiệu cho Quốc
hội Nhật Bản thực hiện tốt chức năng lập pháp của mình.
III.


Quy trình lập pháp ở Nhật Bản

Dự luật là bản thảo về một đạo luật được chuẩn bị, xem xét trước để
bàn bạc. Dự luật do cơ quan, tổ chức cá nhân có quyền trình dự án luật mà mình
đã chuẩn bị theo các giai đoạn của quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp
luật chặt chẽ được pháp luật quy định để trình Quốc hội xem xét, quyết định
việc thơng qua, ban hành thành Luật.
Dự luật là kết quả của tổng hợp của nhiều quy trình pháp lý, mỗi
một quy trình pháp lý địi hỏi có một kết quả, văn bản pháp lý tổng kết quy trình
đó.Vì vậy mà dự luật là sự tổng hợp của nhiều văn bản pháp lý, các văn bản
pháp lý đó tuy ở các quy trình giai đoạn khác nhau nhưng đều nhằm một mục


tiêu chung là tạo một luật chung thống nhất.Vì vậy các văn bản pháp lý trên đều
mang tính thống nhất về mục tiêu xây dựng,dự luật là một văn bản cốt lõi cơ
bản mang nội dung hoàn chỉnh của một luật, được các văn bản khác của dự án
xoay quanh làm rõ.
1. Dự án luật do Nội các trình và dự án luật do nghị sĩ trình:
- Các dự án luật được chia thành dự án luật do Nội các trình và dự án luật do
nghị sĩ trình tùy vào chủ thể đề xuất và trình lên Quốc hội. Quy trình lập pháp
đối với dự án luật có sự khác nhau tùy vào dự án luật đó là do Nội các hay nghị
sĩ trình, tuy nhiên thủ tục xem xét, thẩm tra tại Quốc hội thì về cơ bản là giống
nhau.
- Về số lượng các dự án luật thông qua thì các dự án luật do Nội các trình
nhiều hơn hẳn các dự án luật do nghị sĩ trình; các dự án luật quan trọng cũng
phần lớn do Nội các trình.
Bảng dưới đây tổng hợp số lượng trình và số lượng thông qua của từng loại dự
án luật do Nội các trình và dự án luật do nghị sĩ trình trong thời gian gần đây.
Quốc hội lần thứ 183 (28/1  26/6/2013)


Số lượng trình
Số lượng thơng qua

Dự án luật do Nội các
trình
75
63

Dự án luật do nghị sĩ
trình
81
10

Quốc hội lần thứ 186 (24/1  22/6/2014)

Số lượng trình
Số lượng thơng qua

Dự án luật do Nội các
trình
81
79

Dự án luật do nghị sĩ
trình
75
21

Quốc hội lần thứ 189 (26/1  27/9/2015)


Số lượng trình
Số lượng thơng qua

Dự án luật do Nội các
trình
75
66

Dự án luật do nghị sĩ
trình
72
12


2. Từ lúc lập dự thảo cho tới lúc dự án luật được thông qua
2.1.
Trường hợp dự án luật do Nội các trình
a) Động cơ soạn thảo dự án luật
Có những động cơ sau đây để Nội các soạn thảo và trình dự án luật:
- Soạn thảo dựa trên những quyết định chính sách của đảng nắm quyền trong
Chính phủ.
- Soạn thảo dựa trên những điều chỉnh trong lĩnh vực do các Bộ ngành phụ
trách.
- Soạn thảo dựa trên nhu cầu xã hội, yêu cầu của những đối tượng khác ngoài
các Bộ ngành.
- Soạn thảo nhằm hoàn thiện hệ thống luật trong nước phù hợp với các điều ước
quốc tế đã ký
kết.
- Soạn thảo dựa trên phúc trình của các hội đồng thẩm định
b) Xây dựng dự thảo ban đầu

Việc dự thảo các luật do Nội các trình được thực hiện tại từng Bộ ngành
chủ quản. Các Bộ sẽ xây dựng dự thảo sơ bộ sau khi phương hướng ban hành
luật mới hoặc sửa đổi/bãi bỏ luật hiện hành được quyết định nhằm thực hiện các
mục tiêu chính sách đã đề ra trong q trình triển khai cơng tác quản lý trong
lĩnh vực do mình phụ trách.
Dự thảo sơ bộ sẽ được đưa đi lấy ý kiến của các Bộ ngành liên quan.
Ngồi ra, nếu thấy cần thiết thì sẽ tham vấn hội đồng thẩm định hoặc nghe ý
kiến tại các phiên điều trần.
Tiếp theo, sau khi đã có lộ trình để trình dự án luật thì Bộ ngành chủ
quản sẽ cụ thể hóa thành văn bản và hồn thành dự thảo.
c) Thẩm tra tại Cục Pháp chế Nội các
Tất cả các dự án luật do Nội các đề xuất sẽ được thẩm tra tại Cục Pháp
chế Nội các trước khi trình ra phiên họp Nội các. Cơng tác thẩm tra tại Cục
Pháp chế Nội các về nguyên tắc sẽ được bắt đầu sau khi nhận được dự thảo
trình phiên họp Nội các do các Bộ ngành chủ quản gửi cho Thủ tướng Nội các,


tuy nhiên cách làm hiện nay là Cục Pháp chế Nội các sẽ tiến hành dưới hình
thức thẩm tra sơ bộ đối với những dự thảo về mặt thủ tục đã được thống nhất ý
kiến trong Bộ chủ quản. Theo đó, việc trình họp Nội các (thủ tục u cầu họp
Nội các) được tiến hành dựa trên dự thảo đã qua thẩm tra sơ bộ của Cục Pháp
chế Nội các.
Khi thẩm tra dự thảo do các Bộ ngành xây dựng, Cục Pháp chế Nội
các sẽ xem xét trên mọi góc độ pháp luật, kỹ thuật lập pháp đối với những vấn
đề như “Mối quan hệ với Hiến pháp và hệ thống pháp luật hiện hành, sự phù
hợp về mặt pháp lý của nội dung lập pháp”, “Ý đồ lập pháp có được thể hiện
chính xác trên phương diện văn bản hay không”, “Cách diễn đạt và bố cục đã
hợp lý chưa”, “Thuật ngữ, các từ chuyên ngành có bị sai khơng”. Về kỹ thuật
lập pháp, cho tới nay đã có rất nhiều các sách giải thích về cơng tác pháp chế,
sách giải thích về thuật ngữ dùng trong văn bản quy phạm pháp luật được xuất

bản, vì vậy các dự thảo luật hiện nay đều được xây dựng dựa trên những tiêu
chuẩn kỹ thuật lập pháp đã định hình. Hơn nữa, việc sử dụng chữ Hán trong các
văn bản quy phạm pháp luật cũng được thống nhất theo hướng dẫn “Sử dụng
chữ Hán trong các văn bản quy phạm pháp luật” theo Quyết định của Cục
trưởng Cục Pháp chế Nội các.
Sau khi công tác thẩm tra sơ bộ của Cục Pháp chế Nội các kết thúc
thì sẽ tiến hành thủ tục trình ra phiên họp Nội các, tuy nhiên theo thơng lệ thì
trước đó dự thảo cịn phải trải qua các bước thẩm tra và phê duyệt của đảng cầm
quyền. Dự án luật là do Nội các đề xuất, nhưng do Nhật Bản theo thể chế đại
nghị nên đòi hòi tính nhất thể của Nội các và đảng cầm quyền. Lấy ví dụ trong
Đảng Tự do dân chủ, các dự án luật cần phải có sự chấp thuận từ các cơ quan
của Đảng này là Ban Nghiên cứu chính sách, Ban Tổng hợp và Ủy ban các vấn
đề Quốc hội.
Sau khi kết thúc thẩm tra sơ bộ tại Cục Pháp chế Nội các và trong
đảng cầm quyền thì Bộ trưởng phụ trách sẽ tiến hành thủ tục đề nghị Thủ tướng
mở phiên họp Nội các để quyết định việc trình ra Quốc hội. Sau khi nhận được
đề nghị này, Văn phịng Nội các sẽ gửi dự thảo trình ra phiên họp Nội các sang
cho Cục Pháp chế Nội các, Cục Pháp chế Nội các sẽ vừa rà soát, đối chiếu với
kết quả thẩm tra sơ bộ trước đó vừa thực hiện khâu thẩm tra cuối cùng, nếu cần
thiết sẽ chỉnh lý và gửi lại Văn phòng Nội các.
d) Quyết định trình ra Quốc hội tại cuộc họp Nội các/ Trình ra Quốc hội


Dự án luật trình ra phiên họp Nội các nếu được thơng qua tại Nội các
mà khơng có ý kiến phản đối nào thì sẽ được Thủ tướng trình ra Quốc hội. Khi
đó, Nội các sẽ quyết định việc trình dự án luật lên Hạ viện hay Thượng viện.
Trên thực tế, việc quyết định được dựa trên tình hình của Quốc hội và có sự bàn
bạc trước với Ủy ban các vấn đề Quốc hội của đảng cầm quyền. Yêu cầu đối
với các dự án luật do Nội các đệ trình cũng tương tự như đối với các dự án luật
do các nghị sỹ đệ trình, trừ các yêu cầu về số lượng cần thiết các nghị sỹ ủng hộ

dự luật. Theo thơng lệ thì các dự án luật có kèm theo ngân sách sẽ được trình
lên Hạ viện. Lý do là, theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Hiến pháp thì vấn đề
ngân sách sẽ do Hạ viện xem xét trước, vì vậy việc trình những dự án luật có
kèm theo ngân sách để Hạ viện xem xét trước là phù hợp. Ngồi ra, Chính phủ
Nhật Bản hay nói cách khác là Nội các cũng là chủ thể duy nhất được phép
trình dự án ngân sách ra trước Hạ viện. Để phù hợp với thời điểm bắt đầu năm
ngân sách vào ngày 1 tháng 4 hàng năm, thời điểm trình dự án ngân sách
thường vào đầu kỳ họp của Nghị viện vào tháng Giêng.
Nhật Bản không xây dựng một chương trình lập pháp như ở Việt
Nam, tuy nhiên tại kỳ họp thông thường, đối với các dự án luật do Nội các đề
xuất, Nội các sẽ trình ra Quốc hội “Danh sách và đề cương các dự án luật dự
kiến trình của Nội các” để thơng báo trước về nội dung chính cũng như thời
điểm dự kiến trình... của các dự án luật theo từng Bộ ngành.
“Danh sách và đề cương các dự án luật dự kiến trình của Nội các” là
một quyển tài liệu trình bày những nội dung chính và thời điểm dự kiến trình
lên Quốc hội của các dự án luật do Nội các đề xuất và được phân theo từng Bộ
ngành. Việc xây dựng tài liệu này là hoạt động mang tính hình thức, vì vậy
khơng có sự phối hợp với Quốc hội trong quá trình xây dựng. Tuy nhiên, như đã
trình bày ở trên, các dự án luật do Nội các đề xuất, theo thông lệ, sẽ phải qua
bước thẩm tra và phê duyệt trong nội bộ đảng cầm quyền trước khi trình ra
phiên họp Nội các.
Ví dụ như trường hợp của Đảng Tự do dân chủ, thì dự án luật sẽ
phải được sự chấp thuận của Ban nghiên cứu chính sách, Ban Tổng hợp và Ủy
ban các vấn đề Quốc hội. Đứng trên khía cạnh này thì đây chính là sự phối hợp
giữa Nội các và Quốc hội (đảng cầm quyền).
Như vậy, Nhật Bản khơng xây dựng một chương trình lập pháp
mang tính dài hạn, mà theo thơng lệ, chỉ đưa ra định hướng của Nội các đối với


các dự án luật trước khi khai mạc kỳ họp. Và thứ tự ưu tiên sẽ được xác định

trong quá trình quyết định định hướng.
Ví dụ, dự án Luật Cải cách bưu điện dưới thời Nội các của Thủ
tướng Koizumi hay dự án Luật Đảm bảo an ninh dưới thời Nội các của Thủ
tướng Abe là những dự án luật được trình và xem xét tại Quốc hội với mức độ
ưu tiên cao.
Dự án luật sau khi được trình ra Quốc hội thì người phụ trách của
Bộ ngành chủ quản sẽ phải giải trình về nội dung dự án luật với Chủ nhiệm và
các Phó Chủ nhiệm các Ủy ban dự kiến được giao thẩm tra, Phòng nghiên cứu
thuộc Cục Điều tra nghiên cứu Hạ viện, Phòng nghiên cứu ủy ban thuộc
Thượng viện... Phòng nghiên cứu thuộc Cục Điều tra nghiên cứu Hạ viện và
Phòng nghiên cứu thuộc Thượng viện dựa trên những giải trình của người phụ
trách từ phía Bộ ngành chủ quản, các tài liệu liên quan... để biên soạn các tài
liệu tham khảo bao gồm khái quát chung và nhưng luận điểm trong dự án luật
do Nội các đề xuất lên. Tài liệu tham khảo này sẽ được phát cho các thành viên
ủy ban được giao phụ trách dự án luật.
Pháp luật ghi nhận quyền trình các dự án luật của các chủ thể và cũng
quy định cho các chủ thể này quyền rút lại các dự án luật đã được trình. Tuy
nhiên, việc rút lại các dự án luật đã được trình cũng có những hạn chế nhất
định, đối với các dự án luật do Nội các trình để rút lại dự án do mình trình trước
đây, Nội các cần được sự đồng ý của Viện đang xem xét dự án. Việc rút lại dự
án sẽ không được chấp thuận khi dự án đã được một trong hai viện nhất trí
thơng qua.
2.2.

Trường hợp dự án luật do nghị sĩ trình:

a) Động cơ soạn thảo dự án luật:
Có những động cơ sau đây để nghị sĩ soạn thảo và trình dự án luật:
1. Soạn thảo nhằm đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
2. Soạn thảo dựa trên những nắm bắt về ý kiến và nguyện vọng của cử tri và các

tổ chức, đoàn thể tại đơn vị bầu cử.
3. Soạn thảo dựa trên những quyết định chính sách của chính đảng.
4. Soạn thảo dựa trên nguyện vọng của các tổ chức ủng hộ ví dụ như các hiệp
hội ngành nghề.


5. Soạn thảo do khơng thể trình dưới dạng dự án luật do Nội các đề xuất vì hạn
chế về mặt thời gian.
6. Soạn thảo do có sự ban hành mới, sửa đổi, bãi bỏ các luật có liên quan tới
Quốc hội.
b) Quyết định nội dung dự án luật:
Nghị sĩ soạn thảo dự án luật với những động cơ như đã nêu ở a), tuy nhiên trước
tiên cần phải nghiên cứu xem dự thảo luật cần có nội dung như thế nào và quyết
định nội dung đó. Thơng thường, dự thảo sẽ được biên soạn thành văn bản dưới
dạng đề cương dự án luật hoặc tóm tắt dự án luật. Cũng có trường hợp nghị sĩ
tự mình soạn thảo các đề cương hoặc tóm tắt dự án luật này, nhưng thường thì
sẽ có bộ máy giúp việc hỗ trợ. Bộ máy giúp việc bao gồm những loại như sau.
Các tổ chức này có thể thực hiện đơn lẻ hoặc phối hợp với nhau để soạn thảo đề
cương dự án luật.
• Văn phịng của chính đảng Thơng thường các chính đảng sẽ thành lập bộ phận
văn phòng để nghiên cứu và xây dựng chính sách của chính đảng đó. Thường
văn phịng sẽ có tên là Văn phịng Ban thẩm nghị chính sách. Văn phịng của
chính đảng sẽ thu thập tài liệu, soạn thảo để cương dự án luật theo yêu cầu của
nghị sĩ. Đặc biệt là đối với những dự án luật dựa trên quyết định chính sách của
chính đảng thì phần lớn là có sự tham gia của Văn phịng chính đảng.
• Thư ký của nghị sĩ Quốc hội Các nghị sĩ được bố trí 3 thư ký bằng nguồn ngân
sách nhà nước. Trong đó có 1 người chủ yếu làm nhiệm vụ hỗ trợ xây dựng
chính sách và hoạt động lập pháp cho nghị sĩ, thường được gọi là thư ký chính
sách.
Khơng ít nghị sĩ Quốc hội tuyển dụng thêm các thư ký khác bằng kinh phí cá

nhân bên cạnh các thư ký công vụ kể trên. Những thư ký này được gọi là thư ký
riêng.
• Cục Điều tra nghiên cứu Hạ viện và các Phòng Điều tra nghiên cứu thuộc Ủy
ban Thượng viện:
Cục Điều tra nghiên cứu Hạ viện và các Phòng Điều tra nghiên cứu thuộc Ủy
ban Thượng viện chủ yếu làm các công việc như soạn thảo đề cương dự án luật,
soạn thảo tài liệu tham khảo cho dự án luật, xử lý các yêu cầu nghiên cứu liên
quan đến lĩnh vực phụ trách để phục vụ công tác thẩm tra dự án luật tại hai


viện. Cũng có trường hợp hỗ trợ soạn thảo đề cương dự án luật là giai đoạn
trước khi xây dựng dự thảo khi nhận được yêu cầu của nghị sĩ.
• Thư viện Quốc hội Quốc gia:
Điều 130 Luật Quốc hội quy định: “Thành lập Thư viện Quốc hội Quốc gia
thuộc Quốc hội theo một luật riêng nhằm phục vụ việc điều tra, nghiên cứu của
nghị sĩ.” Một luật riêng ở đây là Luật Thư viện Quốc hội Quốc gia. Điều 2 Luật
Thư viện Quốc hội Quốc gia quy định: “Thư viện Quốc hội Quốc gia sưu tầm
các sách và tài liệu thư viện khác nhằm mục đích phục vụ cho việc thực hiện
nhiệm vụ của nghị sĩ Quốc hội, đồng thời cung cấp các dịch vụ thư viện quy
định trong Luật này cho hệ thống hành pháp và tư pháp, cũng như cho người
dân Nhật Bản.” Cục Nghiên cứu và tra cứu lập pháp thuộc Thư viện Quốc hội
Quốc gia có nhiệm vụ chính là làm cơng tác nghiên cứu lập pháp cho Quốc hội,
vì vậy cơng việc của Cục là nghiên cứu về các vấn đề chính sách quốc gia liên
quan tới tồn bộ các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và tình hình, chế độ pháp
luật trong và ngồi nước; phân tích, đánh giá các dự án luật và các nội dung
khác; hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ về khởi thảo nội dung cho hai viện, các ủy
ban và nghị sĩ trong quá trình chuẩn bị lập pháp (Điều 15 Luật Thư viện Quốc
hội Quốc gia).
• Cơ quan khác:
Cục Pháp chế nghị viện như đã nêu tại mục c) là bộ máy giúp việc có nhiệm vụ

chính là xây dựng dự thảo luật, tuy nhiên đơi khi cơ quan này cịn hỗ trợ soạn
thảo đề cương dự án luật, là bước trước khi xây dựng dự thảo. Ngồi ra, tùy
từng trường hợp, cũng có thể yêu cầu cơ quan hành chính cung cấp những tài
liệu cần thiết trong qua trình xây dựng đề cương dự án luật.



×