Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

(TIỂU LUẬN) lý LUẬN của CHỦ NGHĨA mác – LÊNIN về sản XUẤT HÀNG HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.11 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Khoa/viện …

BÀI TẬP LỚN

Học phần: …

ĐỀ: …

SV: (Họ tên, MSV, Lớp tín chỉ)

GD hướng dẫn:

HÀ NỘI - 4/2022


LỜI MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay như chúng ta đã biết, lịch sử của nền sản xuất xã hội đã
và đang trải qua 2 kiểu tổ chức kinh tế, đó là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng
hoá. Kinh tế hàng hố là một hình thái của nền sản xuất xã hội nối tiếp và cao
hơn nền sản xuất tự cung tự cấp, trong đó sản phẩm được sản xuất ra để trao
đổi thông qua mua bán trên thị trường. Việc sản xuất hàng hoá là một bước
ngoặt quan trọng và thiết yếu trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người,
đưa lồi người bước ra thời kì của nền kinh tế tự nhiên lạc hậu năng suất kém,
phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và ngày càng nâng cao hiệu quả
kinh tế của xã hội.
Nhìn lại bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế đất nước Việt nam khoảng
hơn 35 năm trước đây, Đảng và nhà nước ta đang đi theo con đường phát
triển nền kinh tế tự cung tự cấp và có những thành tựu nhất định. Tuy nhiên,
với tình hình định hướng chung của Việt Nam, nền kinh tế tự cung tự cấp đã
không còn là con đường phù hợp, bộc lộ những mặt cịn yếu kém và ngày


càng kìm hãm sự phát triển. Xuất hiện chế độ bao cấp cùng với những quyết
định cịn nơn nóng và một loạt bước đi sai lầm trong cải cách hành chính đã
khiến cho nền kinh tế nước nhà bước vào giai đoạn suy thoái trầm trọng, năng
suất lao động bị giảm sút, đời sống nhân dân cịn thấp. Trong giai đoạn cấp
thiết đó, Đảng và Nhà nước ta đã chọn ra đường lối phát triển đúng đắn và
những quyết định quan trọng trong sự đổi mới kinh tế: xây dựng kinh tế nước
nhà thành nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Bước ngoặt lớn đã đưa nền kinh tế
Việt Nam ngày càng phát triển, từng bước hội nhập với nền kinh tế thị trường
thế giới, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cùng với sự phát triển , nước
ta khơng ngừng nỗ lực hồn thiện con đường phát triển kinh tế nói chung và
sự phát triển hàng hố nói riêng, hướng đến những mục tiêu lớn hơn trong
tương lai, xác định vai trò quan trọng của sản xuất hàng hoá trong sự nghiệp
phát triển nền kinh tế nước nhà.

2


Và trong bài tập lớn bộ mơn Kinh tế Chính trị Mác – Lênin này, em sẽ
đi sâu vào tìm hiểu về sản xuất hàng hoá và thực tiễn phát triển kinh tế hàng
hoá ở việt nam hiện nay.
Do thời gian và kiến thức có hạn, bài tập lớn này khơng thể tránh khỏi
những sai sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp tới từ các thầy
cơ để bài tập lớn này trở nên hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

3


I.

LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SẢN


XUẤT HÀNG HỐ
1. Lý luận sản xuất hàng hố
a)
-

Sản xuất hàng hố

Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính

trị Marx-Lenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được
sản xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực
tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông
qua việc trao đổi, mua bán trên thị trường. Nói cách khác, tồn bộ q trình
sản xuất - phân phối - trao đổi- tiêu dùng; các câu hỏi sản xuất cái gì, như thế
nào, và cho ai đều thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.
-

Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế phân biệt với sản xuất tự

cung tự cấp ở thời kì đầu của lịch sử lồi người. Ở thời kì đó, sản phẩm của sự
lao động được tạo ra chỉ để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của chính người sản
xuất ra chúng. Đây là kiểu tổ chức sản xuất tự nhiên khép kín trong phạm vi
từng đơn vị nhỏ, không cho phép mở rộng quan hệ với các đơn vị khác. Vì
vậy nó có tích chất bảo thủ, trì trệ, bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp. Sản xuất tự
cung tự cấp thích ứng với thời kỳ lực lượng sản xuất còn chưa phát triển, khi
mà lao động thủ cơng chiếm địa vị thống trị. Nó có trong thời kỳ cơng xã
ngun thủy và tồn tại chủ yếu trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Trong thời kỳ
phong kiến, sản xuất tự cung tự cấp tồn tại dưới hình thái điền trang, thái ấp
của địa chủ và kinh tế nông dân gia trưởng. Khi lực lượng sản xuất phát triển

cao, phân công lao động được mở rộng thì dần dần xuất hiện trao đổi hàng
hóa. Khi trao đổi hàng hóa trở thành mục đích thường xun của sản xuất thì
sản xuất hàng hóa ra đời theo đúng quy luật tất yếu của nó.
-

Ví dụ, với kiểu sản xuất tự cung tự cấp thì khi con người muốn có

lương thực thì họ phải tìm cách gieo trồng, săn bắt hoặc hái lượm. Khi muốn
có quần áo để mặc thì phải tìm cách trồng dâu, ni tằm, dệt vải hoặc may
quần áo. Khi muốn có mái nhà che mưa, che nắng thì phải tìm những hang đá,
hoặc đốn củi để dựng nên những túp lều đơn giản. Nói cách khác, tất cả mọi
4


việc đều tự thân để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, khơng có quan hệ trao
đổi giữa mọi người với nhau.
b) Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện và tồn tại trong
xã hội khi có những điều kiện nhất định. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin thì sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào hai điều kiện
cơ bản sau:
- Điều kiện thứ nhất là phân công lao động xã hội:
Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự phân chia trong xã hội thành
các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên mơn hóa của
những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. khi đó, mỗi người
sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của họ lại đòi
hỏi đòi hỏi nhiều loại sản phẩm. Để thỏa mãn nhu cầu của mình tất yếu sản xuất
và trao đổi sản phẩm với nhau.
Theo C.Mác: “Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền
sản xuất hàng hoá, mặc dù ngược lại, sản xuất hàng hố khơng phải là điều
kiện tồn tại của sự phân cơng lao động xã hội”. Do đó, sự phát triển của phân

công lao động xã hội sẽ kéo theo sự phát triển của nền sản xuất hàng hố. Phân
cơng lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất hàng hoá càng phát triển.
Xã hội sẽ chia thành nhiều các hình thức sản xuất khác nhau. Ví dụ như
có những người chun về sản xuất nơng nghiệp, có những người chuyên sản
xuất về thuỷ hải sản, có những người thiên về may mặc quần áo… và với kinh
nghiệm, cùng trình độ chun mơn cao kết hợp với cường độ lao động cao cho
nên năng suất cũng cao hơn. Xã hội phân chia ra thành những ngành nghề độc
lập với nhau đồng nghĩa với việc những người sản xuất như vậy không thể tồn
tại độc lập hoặc biệt lập như trước được nữa, mà có mối liên hệ gắn kết với
nhau. Giải thích cho điều này, ta có thể thấy những người trồng lúa chỉ tạo ra
một sản phẩm để đưa vào dây chuyền sản xuất trong và ngoài nước đó chính là
thóc lúa, tuy nhiên chỉ với thóc lúa thì khơng thể thoả mãn nhu cầu ăn uống mà
bên cạnh đó cịn phải kết hợp với một số sản phẩm khác như là: thịt, cá, rau...
5


Như vậy đối với cuộc sống thường ngày đã có thể dễ dàng nhận thấy mối quan
hệ gắn kết bền vững giữa việc trao đổi sản phẩm với người chuyên nuôi lợn,
chuyên nuôi cá, trồng rau… Nhu cầu sinh hoạt càng tăng cao hay nói cách khác
là thị hiếu của con người cũng dần trở nên hiện đại hơn, chạy theo xu hướng
thời về thời trang ăn mặc, cũng như phương tiện đi lại cần phải phù hợp. Chính
sự phân cơng lao động xã hội, mỗi người mỗi nghề đó làm cho họ phụ thuộc vào
nhau vì nhu cầu của cuộc sống cần rất nhiều loại sản phẩm thế mà mỗi người lại
chỉ tạo ra một hoặc một số sản phẩm nhất định.
Thực tế, ở cộng đồng xã hội thu nhỏ thời nguyên thuỷ là những thị tộc bộ
lạc, việc lao động đã được chia ra: thanh niên trai tráng đảm đương việc săn bắt
để đảm bảo nguồn thực phẩm cho các thành viên, những người phụ nữ chân yếu
tay mềm nhưng lại khéo tay thì đảm nhiệm việc hái lượm rồi trồng trọt, trồng
rau nuôi tằm, se tơ dệt vải may quần áo, những người già khi mà không đủ sức
khỏe để đảm đương những việc đó nữa thì thường giữ vai trị là trơng nhà, giữ

trẻ… Đã có sự phân chia nhất định, mỗi người đều cố gắng hồn thành tốt cơng
việc của bản thân nhưng lại khơng có quan hệ trao đổi sản phẩm với nhau, bởi vì
họ mặc định rằng một sản phẩm được tạo ra đều được phân chia đồng đều không
phải trao đổi.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng
chưa đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa
ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
Điều kiện thứ hai là sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những
người sản xuất.
Sự tách biệt này chính là nói đến quyền sở hữu của người sản xuất đối
với sản phẩm do họ tạo ra. Người tạo ra sản phẩm có quyền sở hữu, có quyền
sử dụng, có quyền khai thác và những người khác khơng thể tự do khai thác
hay đánh cắp bản quyền sản phẩm này được, nói cách khác đây là kết quả của
q trình trau dồi kĩ năng và khai thác trí tuệ của bản thân 1 cách triệt để.
Quyền sở hữu sản phẩm độc lập của từng chủ thể sản xuất này sẽ dẫn đến
hiện tượng những người sản xuất tồn tại độc lập với nhau trên thị trường.
6


Trên thị trường không được xảy ra trường hợp đạo nhái sản phẩm. việc đó
đồng nghĩa với việc bạn đang đánh cắp chất xám của chủ sở hữu sản phẩm
và họ có quyền lợi bảo vệ ý tưởng của bản thân. Nếu muốn sử dụng sản
phẩm hoặc dùng nó để lên kế hoạch riêng cho việc hoàn thiện sản phẩm của
bản thân thì cần phải trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
Điều kiện thứ hai kết hợp với điều kiện thứ nhất làm nảy sinh quan hệ
trao đổi sản phẩm giữa người sản xuất này với người sản xuất khác. Mọi
người sản xuất phải lấy sản phẩm thừa của mình ra để trao đổi lấy rất nhiều
sản phẩm khác do những người sản xuất khác tạo ra. Khi quan hệ trao
đổi này được diễn ra một cách phổ biến kiểu tổ chức kinh tế sản xuất hàng
hóa được xác lập.

Như vậy: phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào
nhau còn chế độ tư hữu lại chia rẽ làm họ độc lập với nhau. Đây là một mâu
thuẫn và mẫu thuẫn này chỉ được giải quyết thơng qua trao đổi, mua bán sản
phẩm của nhau. Chính vì thế, sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ u cầu của
cuộc sống.
c) Đặc trưng của sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hóa có hai đặc trưng cơ bản sau:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa là
kiểu tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kỳ đầu của
lịch sử loài người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa sản phẩm được tạo ra để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang
tỉnh xã hội. Tính chất tư nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết định
bởi cá nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên
danh nghĩa. Tính chất xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu
cầu của những người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp
hoặc khơng phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản
xuất hàng hóa.
d) Ưu thế của sản xuất hàng hoá
7


Đầu tiên, tác động mạnh mẽ vào sức sản xuất của xã hội, mở ra một con
đường mới thuận lợi cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển: nếu như
trong sản xuất tự cung tự cấp mỗi người tự sản xuất tự sử dụng và tự tiêu dùng,
thì nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của họ còn hạn hẹp và chỉ xoay quanh ở một
phạm vi nhỏ lẻ điều đó khiến cho sức sản xuất cịn hạn chế, chỉ làm đủ ăn đủ
dùng. Như vậy, nhu cầu hạn hẹp của từng chủ thể kinh tế hạn chế sức sản xuất
mặc dù nguồn lực vẫn cịn. Vì khơng có sự trao đổi trong sản xuất nên khi có
nhiều nhân lực hay cơng cụ máy móc thì cũng khơng có sự đa dạng trong ngành

nghề. Thế nhưng khi áp dụng kiểu tổ chức sản xuất hàng hóa chỉ cần có ý tưởng
sản xuất có sức lao động thì tất cả những nguồn lực khác có thể tìm kiếm hết
trên thị trường, không giới hạn nguồn lực để đổ vào sản xuất, cả nhu cầu tiêu thụ
sản phẩm cả nguồn lực đầu vào sản xuất đều không bị giới hạn, sản xuất của xã
hội được giải phóng dẫn tới lực lượng sản xuất khơng ngừng phát triển.
Đẩy mạnh q trình xã hội hóa sản xuất: sản xuất hàng hóa phá vỡ tính tự
cung tự cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cấp tự túc. Khai thác được lợi
thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa
phương, kích thích sự phát triển về kinh tế của cả quốc gia.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu
của con người ngày càng gia tăng cả về lượng và chất, sản xuất hàng hóa giúp
cho họ có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình. Góp phần cải
thiện đời sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.
2. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá
a)

Khái niệm

Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân cơng lao động và trao đổi
hàng hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh tế tự
cung tự cấp trong đó người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng.


giai đoạn sơ khai, trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là

hàng đổi hàng. Khi tiền xuất hiện, các cá nhân có thể sử dụng tiền làm phương
tiện trao đổi. Lúc này, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế tiền tệ. Khi cơ
chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường, kinh tế hàng hóa cũng là kinh tế thị
8



trường. Khi cơ chế trao đổi dựa trên những sắp xếp quy hoạch từ một trung tâm,
kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế kế hoạch.
Kinh tế hàng hóa là một giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử phát
triển của xã hội theo trình tự: kinh tế tự nhiên- kinh tế hàng hóa- kinh tế sản
phẩm. Trong bất kì chế độ xã hội nào, sự tồn tại hình thái giá trị và thị trường
ln là đặc trưng chung của kinh tế hàng hóa.
b) Ưu điểm
So với kinh tế tự nhiên, một loại hình kinh tế cịn để lại dấu ấn ở đất nước
Việt Nam, thì kinh tế hàng hóa có những ưu thế sau:
Một là, thúc đẩy q trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng, làm cho sự
phân cơng lao động, chun mơn hóa sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối
liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản
xuất, tạo tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
Hai là, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, buộc người sản xuất
phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động,
cải tiến chất lượngvà hình thức mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Ba là, thúc đẩy q trình tích tụ và tập trung sản xuất. Mở rộng giao lưu
kinh tế trong nước và hội nhập thế giới. Có tác dụng lớn trong việc tuyển chọn
doanh nghiệp và cá nhân quản lý giỏi.
Bốn là, giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền
sản xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo
điều kiện cần thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình
độ cao dưới hình thức quan hệ hàng hóa, tiền tệ.
c) Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế hàng hóa cũng chứa đựng những khuyết
điểm của nó. Thị trường chứa đựng nhiều yếu tố tự phát, bất ổn dẫn đến mất cân
đơi. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu
quả xấu:
Một là, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, có lãi thì làm nên khơng giải

quyết được cái gọi là “hàng hóa công cộng”.
9


Hai là, các vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm, sự phân hóa
xã hội cao, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng.
Ba là, suy đồi đạo đức, muốn làm giàu bằng mọi giá, khơng cịn lương
tâm mà làm hàng giả, kém chất lượng. Bên cạnh đó, mơi trường sống con người
cũng bị hủy hoại trầm trọng: ảnh hưởng nặng nề tới thiên nhiên, từ ô nhiễm môi
trường, ô nhiễm tiếng ồn… Phải kể đến một số những ví dụ về việc con người
đang chạy theo lợi nhuận mà thực hiện những hành vi gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới môi trường.
-

Năm 2004, 5 doanh nghiệp tư nhân đã nhập khẩu 230 tấn phế liệu

không đúng với thực tế khai báo về cảng sài gòn đã vi phạm về quy định
bảo vệ mơi trường.
-

Đặc biệt phải kể đến đó là vụ Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã dội lên

một làn sóng phẫn nộ của người dân trên cả nước. Nước thải công
nghiệp của công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formusa Hà Tĩnh
thải trái phép chưa qua xử lý ra môi trường biển đã làm cho hải sản chết
hàng loạt ven biển bốn tỉnh miền Trung, gây thiệt hại nặng nề về tài sản
và môi trường sinh thái dưới biển, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh,
du lịch và đời sống cũng như sức khỏe của người dân. Ở Việt Nam, các
“làng ung thư” xuất hiện ngày càng nhiều.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế hàng hóa có thể mang lại khơng chỉ tiến bộ

mà cịn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần thiết phải có sự
can thiệp, quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Nhờ đó sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự
vận động của thị trường ổn định, tối đa hóa hiệu quả kinh tế, đảm bảo định
hướng chính trị của sự phát triển nền kinh tế, sữa chữa khắc phục những khuyết
điểm vốn có, tạo ra cơng cụ quan trọng điều tiết thị trường. Bằng cách đó, Nhà
nước mới có thể kiềm chế tính tự phát, đồng thời kích thích đối với sản xuất
thơng qua trao đổi hàng hóa dưới hình thức thương mại.
II. THỰC TRẠNG NỀN SẢN XUẤT HÀNG HỐ Ở VIỆT NAM
Sau một q trình cả nước cố gắng phấn đấu để hội nhập quốc tế và kết
nối thương mại thì đã xảy ra một khủng hoảng nghiêm trọng và tàn dư của nó
10


vẫn còn để lại những mối đe doạ đầy đáng sợ về cả tinh thần, lẫn vật chất: Đại
dịch COVID-19. Chắc hẳn chưa ai có thể tưởng tượng được rằng có một khoảng
thời gian dài cả thế giới như chìm vào sự im lặng và cơ lập. COVID-19 đã gióng
lên một hồi chuông cảnh báo với một nền kinh tế quá mở, và kêu gọi trở về
khoảng thời gian tự cung tự cấp. Một thế giới bị ngăn cách cũng là một thế giới
nghèo khổ về cả tinh thần lẫn vật chất. Trong quá khứ, thế chiến thứ hai đã gieo
rắc biết bao nhiêu đau thương và càng chứng minh cho một điều rằng một thế
giới bị ngăn cách là một thế giới đầy rẫy sự xung đột. Khơng có giao lưu nền
văn hoá, nền kinh tế giữa các nước đồng nghĩa với việc những nguồn lực khó có
được sẽ trở thành mồi lửa gây cháy cho sự xung đột. Lịch sử đã và đang chứng
minh rằng nỗ lực theo đuổi nền kinh tế tự cung tự cấp sẽ dẫn đến một thế giới
khơng có sự gắn kết, khơng có sự phát triển.
Việt Nam là một đất nước có khoảng thời gian áp dụng nền kinh tế tự
cung tự cấp (trước 1986). Mặc dù, đã có những bước phát triển nhất định trên
con đường lựa chọn nền kinh tế tự cung tự cấp, nhưng so với tình hình định
hướng chung của Việt Nam thì đã khơng cịn phù hợp và dần dần bộc lộ các mặt
yếu kém, kìm hãm sự phát triển. Một đất nước với nền kinh tế còn yếu kém, nay

lại cịn có nguy cơ suy thối đã khiến cho ưu thế của Việt Nam trên thế giới
ngày càng giảm sút: chính sách bao cấp, … Nhận thấy tình hình cấp thiết tại đại
hội VI, Đảng và Nhà Nước ta đã mở ra một con đường mới là nền kinh tế sản
xuất hàng hố và đưa nó trở thành nền tảng, động lực thúc đẩy phát triển nền
kinh tế đất nước.
1. Sơ lược về lịch sử phát triển của nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
Sản xuất hàng hoá ra đời từ sản xuất tự cấp tự túc và thay thế nó trong q
trình lịch sử lâu dài
Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến tới nền kinh tế hàng
hóa sau này, nền sản xuất hàng hóa của nước ta đã khơng ngừng biến đổi và phát
triển.
Thời kì phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động nước ta chưa
cao, chính sách bế quan ở một số triều đại kìm hãm sự lưu thơng hàng hóa. Sở
11


hữu về tư liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp trên. Tóm lại, ở
thời kì này, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta mới chỉ xuất hiện, chưa phát triển.

Trong thời kì bao cấp trước đổi mới, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là
nền kinh tế kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp kìm hãm
sự phá triển của nền sản xuất hàng hóa. Biến hình thức tiền lương thành lương
hiện vật, thủ tiêu động lực sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường.
Sự nhận thức sai lầm của nước ta thời kì này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức
sản xuất hàng hóa xuống dốc khơng phanh. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập
quốc dân tăng rất chậm, có năm cịn giảm: Năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng
2,3%, năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%, bình quân 1977-1980 chỉ tăng
0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng trưởng dân số, thu nhập quốc dân bình
quân đầu người bị sụt giảm 14%.
Từ năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước đã kịp thời chuyển đổi nền kinh

tế sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế sản xuất
hàng hóa nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ. Thời kì này chia thành 3 giai
đoạn:
Giai đoạn 1986 – 2000: giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận và
bước đầu phát triển. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trên cơ sở đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp
tồn diện. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Tuy nhiên, thời kì này nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều
tồn tại chưa giải quyết được. Điều này khiến nền kinh tế chậm phát triển
chiều sâu.
Giai đoạn 2000 – 2007: đây là giai đoạn nền kinh tế nước ta phát triển
mạnh mẽ. GDP liên tục tăng mạnh. Tốc độ tăng trưởng năm 2007 là
8,5%, cao nhất kể từ năm 1997 đến nay. Việc gia nhập WTO giúp Việt
12


Nam phát triển nền kinh tế hàng hóa dễ dàng hơn khi có cơ hội mở rộng
thị trường ra thế giới.
Giai đoạn 2007 – nay: kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. Tăng
trưởng GDP giảm tốc với mức tăng trưởng bình quân là 6,2% trong khi
mức tăng trưởng bình quân của CPI là 11,8%. Lạm phát kéo dài và mới
được kiềm chế trong 2 năm 2012 và 2013. Các chính sách đưa ra dường
như khơng đem lại hiệu quả mong muốn.
2. Đặc điểm nền sản xuất hàng hoá Việt Nam
Khi mở ra con đường tiến lên CNXH với những bước đầu cịn khó khăn
thì từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa phát triển, thêm
vào đó thiếu sót rất lớn trong việc bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền sản xuất hàng

hóa của nước ta không giống như nền sản xuất hàng hóa của nước khác trên thế
giới, thiếu cái cốt vật chất của một “nền kinh tế phát triển” với những đặc trưng
tiêu biểu:
a) Nền kinh tế đang trong quá trình chuyển biến từ kém phát triển,
mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập

trung sang nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường
Nền kinh tế nước ta sau nhiều năm chiến tranh có thể nói là tiêu điều, yếu
kém, mang nặng những hậu quả khôn lường: kết cấu hạ tầng và xã hội kém,
trình độ cơ sở vật chất và công nghệ lạc hậu, chưa áp dụng nhiều những sự đổi
mới trong khoa học, cịn mang nặng tính thủ cơng, thu nhập bình qn cả nước
cịn thấp khiến dung lượng hàng hóa trên thị trường thay đổi rất chậm chạp, khả
năng cạnh tranh thấp. Rút ra từ những điều đó ta có thể đi đến một kết luận, kinh
tế thị trường là điều kiện tiên quyết và là động lực thúc đẩy đưa nền kinh tế nước
ta ra khỏi khủng hoảng, phục hồi sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp
thời đại.
Thực tế những năm gần đây cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đang thực
hiện đúng đắn con đường khi đem nền kinh tế nước ta áp dụng nền kinh tế thị
trường phù hợp với tình hình định hướng chung của Việt Nam, phù hợp lòng
dân, đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống. Nhờ chuyển sang kinh tế thị trường
13


mà kinh tế được thay đổi căn bản, nhờ cơ chế thị trường mà phân bổ các nguồn
lực một cách hiệu quả hơn. Các động lực lợi ích đã phát huy tác dụng, cơ chế
quản lý mới được vận hành và ngày càng tham gia tốt hơn vào phân công lao
động quốc tế.
Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn
cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc
gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ

trong vịng một thế hệ. Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 3,6 lần, đạt
gần 3.700 USD. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 1,9 USD/ngày) giảm mạnh từ hơn 32%
năm 2011 xuống còn dưới 2%.
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống
chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch COVID19. Tăng trưởng GDP giảm xuống 2,58% vào năm 2021 do sự xuất hiện của
biến thể Delta nhưng dự kiến sẽ phục hồi lên 5,5% vào năm 2022.
b) Nền kinh tế hàng hoá dựa trên nền kinh tế cơ sở nhiều thành
phần
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần là do cịn nhiều hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu ản xuất. Đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định các
thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với trình độ của lực lượng
sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiên nay là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tư bản Nhà
nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ.

Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt
có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế
hàng hóa phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách hạn hẹp. Đồng thời, nó vừa
phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội lại vừa phản
ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng XHCN.
Nhận thức được tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là tất yếu
khách quan, từđó có thái độ đúng đắn trong việc khuyên khích sự phát triển theo
nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho việc đi lên XHCN ở nước ta.
c) Nền kinh tế hàng hố phát triển theo định hướng XHCN với vai
trị chủ đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
14


Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường, không phải thị trường
bất kỳ mà là thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Về bản
chất, đó là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng XHCN, vừa kế thừa những

thành tựu của loài người, vừa gắn liền với đặc điểm và mục tiêu chính trị là sự
kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Trước đây, có những lúc ta
chưa hiểu đúng, đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa mà
cho là thị trường là bản chất. Giờ đây, ta đã hiểu rằng thị trường khơng mang
bản chất chế độ, mà chỉ có chế độ xã hội biết hay không biết tận dụng những lợi
thế đó để phục vụ chế độ mình.
Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo do
bản chất vốn có và lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên
đảm bảo cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN.

Tuy nhiên vai trị của nó chỉ được khẳng định khi phát huy sức mạnh tổng hợp
của các thành phần kinh tế khác, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng
năng suất, chất lượng và hiệu quả để đứng vững và chiến thắng trong môi trường
hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế.
Mặt khác, sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường
khơng thể nào giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân
đời sống kinh tế - xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng
hoảng, phân hóa bất bình đẳng, ơ nhiễm mơi trường,… Những hiện tượng và
tình trạng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác
động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển “bình thường” của xã hội nói chung
và nền kinh tế hàng hóa nói riêng. Vì vậy, sự quản lý vĩ mơ của Nhà nước là
không thể thiếu.
Sau gần ba mươi năm đổi mới, ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể
làm vai trò quản lý của Nhà nước được tăng cường. Bằng các công cụ rất riêng:
pháp luật kế hoạch, thiết chế về tài chinh, tiền tệ và những điều kiện vật chất
khác, Nhà nước ta đã tạo điều kiện tốt nhất để khuyến khích, phát huy những
mặt tích cực của kinh tế hàng hóa, ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và khuyết
thiếu của cơ chế thị trường
15



Lực lượng lao động của Việt Nam đang không ngừng tăng lên cùng với sự
gia tăng của dân số. Tính đến năm 2018, lực lượng này là 55 triệu người, chiếm
khoảng 60% dân số. Trung bình mỗi năm, khoảng 500 - 700 nghìn người gia nhập
lực lượng lao động. Báo cáo của Tổng cục Thống kê nêu rõ, lực lượng lao động từ
15 tuổi trở lên trong quý I năm 2022 là 51,2 triệu người, tăng hơn

0,4 triệu ngươi so với quý IV/2021 và tăng khoảng 0,2 triệu người so với cùng
kỳ 2021. Cùng với sự phát triển kinh tế, ngày càng nhiều việc làm được tạo ra
và duy trì được tỷ lệ lao động có việc làm ở mức cao.
Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm liên tục từ 6,4% (năm 2000) xuống 5,3% (năm
2005), 2,24% (năm 2008) và 2,34% (năm 2017), trong khi tỷ lệ thất nghiệp toàn
cầu hiện nay lên tới 13%. Riêng khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tỷ lệ thất
nghiệp là 11%.
Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước là sự vận hành được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ
chế thị trường -“bàn tay vơ hình” và sự quản lý của Nhà nước - “bàn tay hữu
hình”.
d) Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu kinh tế mở với các nước
trên thế giới
Trước kia, với đường lối suy nghĩ còn hạn hẹp chưa thực sự đổi mới với
cơ cấu kinh tế “khép kín”, với tình trạng “bế quan tỏa cảng”, luẩn quẩn trong
vòng tròn của nền kinh tế tự cung tự cấp, tự sản xuất tự tiêu thụ khiến cho nền
kinh tế nước ta lâm vào bế tắc thậm chí có thể xếp vào một trong những nước
lạc hậu bậc nhất thế giới. Sự ra đời và phát triển kịp thời của nền kinh tế sản
xuất hàng hóa đã phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống, đặc biệt đến giai
đoạn TBCN đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó mật thiết với thị trường thế
giới.
Nếu chỉ chăm chăm vào việc phát triển kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến sự đói
nghèo. Chính vì vậy, việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều

hình thức khác nhau như giao lưu văn hố với phương châm: “Hoà nhập nhưng
16


khơng hồ tan”. Đã khiến cho nước ta tiếp thu những công nghệ mới mẻ cùng
với lối tư duy đổi mới, tạo điều kiện cho quá trình phát triển được rút ngắn.
Có rất nhiều hình thức mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài đã được
áp dụng ở nước ta như áp dụng ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu
hút vốn đầu tư; gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới; tranh thủ nắm
bắt những ngành, mặt hàng mũi nhọn có tương lai gắn liền với cơng nghệ mới,
tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới,… dã và đang nhanh
chóng đưa nền kinh tế nước nhà hội nhập vào nhịp điệu của kinh tế thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, “Trong cơng cuộc kiến thiết nước
nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và phải coi là quan trọng ngang nhau:
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa". Người ln nhắc nhở, “Văn hóa nghệ thuật
cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy", chính vì vậy, mỗi
cán bộ làm cơng tác văn hóa phải hết sức quan tâm và dành nhiều thời gian, tâm
huyết để xây dựng nền văn hóa của dân tộc.
Kế thừa và phát huy những tư tưởng đó, từ trong kháng chiến đến thời kỳ
đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong q trình lãnh đạo chỉ đạo Đảng ta
ln quan tâm, chú trọng, đề cao vai trò và sức mạnh to lớn của văn hóa, coi đây
là nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực và nguồn lực cho đất nước phát triển
bền vững.
Gần đây nhất, do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, phát huy vai trị tiên
phong trong thích ứng, đổi mới sáng tạo, Vụ Ngoại giao Văn hoá và UNESCO
(Bộ Ngoại giao) phối hợp với các cơ quan đại diện Việt Nam tại Thụy Sỹ, Đại
sứ quán Thụy Sỹ tại Việt Nam cùng các đơn vị liên quan tổ chức chương trình
Ngày Việt Nam tại Thụy Sỹ 2021, vào chiều 9/10.
Đây là sự kiện Ngày Việt Nam ở nước ngoài lần thứ 16 được tổ chức
trong bối cảnh hết sức đặc biệt, khi lần đầu tiên được tổ chức trực tuyến. Thụy

Sỹ cũng là quốc gia lần thứ hai tổ chức Ngày Việt Nam ở nước ngoài (lần đầu
tiên là vào năm 2016).
Nhân dịp này, Báo Thế giới và Việt Nam điểm lại 16 lần Ngày Việt Nam ở
nước ngồi đã được tổ chức thành cơng tại 15 quốc gia trong 10 năm qua.
17


Các chương trình này khong chi gop phân quang ba rọng rai ve đep va sưc sông
cua đât nuơc, con nguơi va van hoa Viẹt Nam tơi cong chung quôc tê, mà con
đong gop vao viẹc tang cuơng sư hiêu biêt, tin cạy lân nhau, đua quan hẹ giưa
Viẹt Nam vơi cac quốc gia cùng phối hợp tô chưc hoat đọng đi vao chiêu sau va
phat triên bên vưng.
Nhận xét:
Các đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở trên có quan hệ chặt chẽ với
nhau phán ánh kết quả của sự phân tích thực trạng và xu hướng vận động nội tại
của quá trình hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hóa Việt Nam hiện tại
và tương lai.
Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế (quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thơng tiền
tệ) bắt nguồn từ vai trị định hướng và quản lý kinh tế của Nhà nước – một
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG HỐ Ở VIỆT
NAM
Trong tình hình hiện nay, khi mà chiến lược ổn định về kinh tế chính trị,
xã hội đã được xác định rõ, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội được xây dựng
ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, đồng thời hệ thống pháp
luật và bộ máy nhà nước được củng cố và trong sạch hoá, số lượng các nhà quản
lý, nhà kinh doanh thích nghi với cơ chế thị trường ngày càng đông đảo. Đảng
đã xác định hướng đi của nền kinh tế cho phù hợp với các điều kiện, tiền đề hiện
có:

Trước hết, phải thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN với hình thức sở hữu đa dạng.
Tiếp theo, cần sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước theo hướng nắm
khâu mặt hàng trọng yếu, chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về
mọi mặt
Ba là, sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế, tư bản nhà nước để phát
huy sực mạnh hỗn hợp của tư bản trong và ngoài nước.
18


Bốn là, đẩy mạnh phân công lao động và hợp tác lao động theo hướng
chun mơn hố kết hợp đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, tăng cường và
phát triển ngành sản xuất phi vật chất, coi trong lao động trí tuệ.
Năm là, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, coi trong
việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ.
Sáu là, xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại đồng thời lấy thị
trường trong nước làm cơ sở, phải có mặt hàng mũi nhọn có khả năng cạnh
tranh.
Bảy là, thực hiện chính sách đối ngoại: mở rộng quan hệ theo hướng đa
dạng hoá về hình thức, đa phương hố về nguồn, hai bên cùng có lợi, khơng can
thiệp vào cơng việc nội bộ và khơng phân biệt chế độ chính trị.

19


KẾT LUẬN
Việc xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hóa ở nước ta là một
đường lối đúng đắn vừa có tính cấp bách lại vừa mang tính chiến lược lâu
dài. Trong thời kỳ chuyển biến của nền kinh tế nước ta, bên cạnh những
thành tựu to lớn, chúng ta còn phải đối mặt với nhiều thách thức, cản trở.

Quá trình đổi mới để hội nhập với quốc tế cịn khó khăn, bởi nước ta xây
dựng nền kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế còn tồn tại nhiều yếu
kém, năng suất lao động thấp. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, ta có thể khẳng định kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển
theo hướng XHCN. Đó là sự định hướng của xã hội mà sự đúng đắn của nó
thể hiện ở kết quả dân giàu nước mạnh. Xã hội không cịn chế độ người bóc
lột người. Nền kinh tế phát triển ngày càng cao trên cơ sở nền khoa học
công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại, sự phân công lao động hợp lý,
xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng với kế hoạch phát triển lâu dài.
Định hướng XHCN nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lý tưởng
của Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta mà còn phản ánh xu thế phát triển khách
quan của thời đạicũng như quy luật tiến hóa của lịch sử. Việc chuyển biến theo
xu thế phát triển chungcủa thế giới với sự bắt kịp thời đại là bước ngoặt lớn tạo
đà phát triển kinh tế nước ta. Tuy nhiên, trên con đường phát triển này chúng ta
còn phải nỗ lực mới có thể đạt nhiều thành tựu lớn hơn. Có như thế nền kinh tế
mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Tác động và các loại hình hội nhập
kinh tế quốc tế - Công ty luật TNHH Minh Khuê
3.

Sản xuất hàng hóa là gì ? Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất

hàng hóa – Cơng ty luật TNHH Minh Khuê
4. Ngày Việt Nam ở nước ngoài - 'Cây cầu' tăng cường giao lưu văn

hóa – baoquocte
5. Tạp chí tài chính: Một số giải pháp phát triển thị trường hàng hóa
trong nước
6. Kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học
7. Thị trường lao động, việc làm khởi sắc trong quý I/2022 – BÁO
ĐIỆN TỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
8. Cơ cấu lao động theo trình độ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế đến năm 2025 - Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã
hội Quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

21



×