Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật liên h v i th c ti i m i kinh t t nam hi n nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.21 KB, 16 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
…...0O0…..

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 4:
Phân tích quan điểm tồn diện của Phép biện chứng duy vật
Liên hệ với thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Họ và tên SV: Nguyễn Thị Bích Hằng
Mã SV: 11210946
Lớp: Kinh doanh thương mại 63B
Khóa 63 GĐ:

Hà Nội – 12/2021

TIEU LUAN MOI download :


Ănghen đã từng nói: “Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự
nhiên, lịch sử loài người, hay hoạt động tinh thần của bản thân thì trước nhất,
chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và
những sự tác động qua lại”. Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong giới tự nhiên
luôn nằm trong nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với nhau vì vậy Ngun
tắc tồn diện đã được đề ra dựa trên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến sẽ giúp
chúng ta có những nhìn sâu sắc và tồn diện hơn để từ đó nhận định đúng bản

chất của mỗi sự vật, hiện tượng.
1. TÌM HIỂU NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN CỦA PHÉP DUY
VẬT BIỆN CHỨNG


1.1. Nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của
phép biện chứng duy vật. “Nguyên tắc này xuất phát từ mối liên hệ phổ biến của
các sự vật, hiện tượng và các hình thái tri thức” [GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS,
TS. Nguyễn Hữu Vui “Giáo trình Triết học Mác - Lênin”; PGS. TS Đồn Quang
Thọ. “Giáo trình Triết học. Nhà xuất bản Lý luận chính trị. Hà Nội năm 2007”].
Ngun tắc tồn diện địi hỏi nếu muốn nhận thức được bản chất sự vật,
hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ của
chính nó, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện
tượng và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật hiện
tượng khác để tìm ra những mối liên hệ bản chất, mặt cơ bản, chủ yếu để
nhận thức đúng đắn sự vật và tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.
Ngun tắc tồn diện địi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng mối liên
hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ bản chất mà quy định sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng; tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô
nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật nguy biện, coi cái cơ bản
thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn
đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.

Lê Nin viết: “Muốn thực sự hiểu biết được sự vật, cần phải nhìn
bao quát và nghiên cứ tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ
gián tiếp” của sự vật đó. Chúng ta khơng thể làm được điều đó một
cách hồn hảo, đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xét tất cả mọi mặt sẽ
đề phòng cho chúng ta khởi phạm sai lầm và sự cứng nhắc”. Nguyên
tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ biến nên
cũng có những tính chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
1.2.

Nội dung của quan điểm toàn diện phép duy vật biện chứng


Các sự vật và hiện tượng mà chúng ta quan sát được trong thế giới này
luôn tồn tại ở nhiều mặt, mn hình vạn trạng đầy phong phú và phức tạp và
khơng có bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào đang tồn tại một cách cô độc, riêng rẽ
và tách biệt khỏi các mối quan hệ với chính bản thân và cả các sự vật xung
quanh. Chúng là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các sự vật, hiện tượng tồn

1

TIEU LUAN MOI download :


tại bằng cách tác động, ràng buộc là tiền đề, quy định và chuyển hóa, phát
triển lẫn nhau. Mọi sự vật, hiện tượng đều có các yếu tố của nó. Và giữa các
yếu tố này cũng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Chính mối liên hệ biện
chứng đã quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ trên đây chính là khách quan nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật
chất của thế giới biểu tượng trong các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy.

Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng không chỉ diễn ra về mặt khơng
gian, mà cịn diễn ra về mặt thời gian, tức sẽ có mối liên hệ giữa hiện tại và
quá khứ, hiện tại với chính hiện tại và hiện tại với tương lai. Và cũng cần phải
xem xét mọi thứ trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người ứng
với mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ
cũng chỉ phản ánh được một lượng hữu hạn những mối liên hệ. Có ý thức
được điều này, chúng ta mới tránh việc tuyệt đối hóa những tri thức hiện tại,
xem nó là chân lý và bất biến, không thể bổ sung hay hồn thiện thêm vì vậy
mà “cần thiết phải xem xét trên tất cả mọi mặt”
Bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng có mối liên hệ bên trong và
bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và phức tạp, chủ yếu và thứ yếu,

bản chất hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình thức. Vì sự
vật, hiện tượng có mối quan hệ phổ biến đã nói ở trên nên muốn phản ánh
sự vật, hiện tượng đúng như bản chất để từ đó có thể cải biến sự vật đòi hỏi
chúng ta cần xem xét sự vật dưới góc độ tồn diện. Ví dụ, theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh
hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”[ Hồ
Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 8, tr. 346], nhưng phải độc lập, tự chủ, phải khơn
khéo, phải có những biện pháp của riêng mình, vì “muốn người ta giúp cho, thì
trước mình phải tự giúp lấy mình đã”[ Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 2, tr. 320].
Thực hiện những điều trên điều sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc
hạn chế được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức
cũng như trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn, nhờ đó tạo ra khả
năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý chính
xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn. Quan điểm tồn diện khơng chỉ
địi hỏi chúng ta nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn thấy
rõ khuynh hướng phát triển tương lai của chúng, thấy được những biến đổi
đi lên hay cả thụt lùi. Song điều cơ bản phải khái quát những biến đổi để
vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.

1.3. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện – nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến – một trong hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng.
Đây là một phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy
định, tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng
hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
2

TIEU LUAN MOI download :



Triết học Mác đã khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật
hiện tượng là thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện
tượng dù đa dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại
khác nhau của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức
vốn không phải là vật chất nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của
một thuộc tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người,
nội dung của ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài.

Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức
các sự vật, hiện tượng quan điểm tồn diện địi hỏi phải xem xét sự vật
như một chỉnh thể của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố thuộc tính..
cùng các mối liên hệ trong bản thân sự vật, mối liên hệ với sự vật khác và
với môi trường xung quanh kể cả mối liên hệ gián tiếp, trung gian.
Trong nhận thức, tính tồn diện địi hỏi phép tính tốn đến mọi khả
năng vận động có thể xảy ra; phải tính đến “tổng hịa những quan hệ muôn
vẻ của sự vật với những sự vật khác”. Tuy nhiên “chúng ta khơng thể làm
nó một cách hồn hảo” bởi sự vật trong q trình tồn tại phải trải qua rất
nhiều giai đoạn khác nhau trong mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển không
bao giờ sự vật bộc lộ tất cả những mối liên hệ của nó với bản thân và với
những sự vật, hiện tượng khác, hơn nữa tất cả những mối quan hệ và liên
hệ ấy chỉ được biểu hiện ra những điều kiện cụ thể.
Một là xét về mặt không gian, mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh
thể riêng biệt, song chúng tồn tại không phải trong trạng thái biệt lập tách
rời tuyệt đối với các sự vật hiện tượng khác. Ngược lại, trong sự tồn tại
của mình thì chúng tác động lẫn nhau và nhận sự tác động của các sự vật,
hiện tượng khác. Chúng vừa phụ thuộc nhau, chế ước nhau, làm tiền đề
cho nhau tồn tại và phát triển. Đó chính là hai mặt của q trình tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Ănghen đã khẳng định: “Tất cả thế
giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp

gồm các vật thể liên hệ khăng khít với nhau và việc các vật thể ấy có mối
liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động qua lại
lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động.”
Ví dụ, trong đời sống xã hội ngày nay khơng có một quốc gia, dân tộc
nào mà khơng có mối quan hệ , liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt
của đời sống xã hội . Đây chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân
tộc. Trên thế giới đã và đang xuất hiện q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa
mọi mặt tác động lẫn nhau trên con đường phát triển nhanh của mình.
Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sự
vật hiện tượng đều tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau và
các nhân tố bộ phận đó khơng tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp xếp
theo một logic nhất định, trật tự nhất định để tạo thành một chỉnh thể. Mỗi
biện pháp, yếu tố trong đó mà có vai trị vị trí riêng của mình, lại tạo điều kiện
cho các bộ phận, yếu tố khác. Nghĩa là giữa chúng có sự ảnh hưởng, ràng

3

TIEU LUAN MOI download :


buộc, tác động lẫn nhau, sự biến đổi bộ phận nào đó trong cấu trúc của
sự vật hiện tượng sẽ ảnh hưởng đến bộ phận khác và đối với cả chỉnh
thể sự vật hiện tượng.
Hai là, bản thân chúng ta những chủ thể nhận thức – những phẩm chất
và năng lực luôn bị hạn chế bởi bối cảnh lịch sử do đó khơng bao giờ có thể
bao q được hết những mối liên hệ và quan hệ với những sự vật khác.
Xét về mặt không gian, mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế giới
nói chung sự tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai đoạn, các
thời kỳ khác nhau và các giai đoạn đó khơng thể tách rời nhau, có liên hệ làm
tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này làm mở đầu cho giai đoạn khác

tiếp theo. Điều này thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa quá khứ - hiện tại

– tương lai.
Và từ nghiên cứu cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện chứng
về tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng của các mối
liên hệ và sự phát triển của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội và tư duy - nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng chúng
ta rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật hiện
tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Về mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật hiện tượng phải đặt nó trong
mối liên hệ tác động qua lại với những sự vật hiện tượng khác và cần phải
phát hiện ra những mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, các
giai đoạn khác nhau mà bản thân sự vật. Lê Nin đã khẳng định: “Muốn thực
sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt của
mối liên hệ và quan hệ của sự vật đó". Để nhận thức đúng được sự vật, hiện
tượng cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn, ứng với
mỗi thời kỳ, giai đoạn, thế hệ thì con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được
số lượng hữu hạn các mối liên hệ. Vì vậy tri thức về các sự vật, hiện tượng chỉ
là tương đối, không đầy đủ và cần phải được hỏi chúng ta phải phát hiện ra
khơng chỉ là mối liên hệ của nó mà cịn phải biết xác định phân loại tính chất,
vai trị, vị trí của mỗi loại liên hệđối với sự phát triển của sự vật. Cần chống
cả lại khuynh hướng sai lầm phiến diện một chiều, cũng nhưđánh giá ngang
bằng vị trí của các loại quan hệ.
Về mặt thực tiễn, quan điểm tồn diện địi hỏi để cải tạo sự vật, hiện
tượng cần làm thay đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng như
mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy,
cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các phương pháp, các biện pháp, phương
tiện để giải quyết sự vật. Mặt khác, quan điểm tồn diện địi hỏi trong hoạt
động thực tiễn cần phải kết hợp chính sách dàn đều và chính sách có trọng
tâm, trọng điểm. Vừa chú ý giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọn

những vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải
quyết những vấn đề khác.

4

TIEU LUAN MOI download :


Có thể kết luận, cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật
chất của thế giới. Bởi lẽ, bản chất của thế giới là vật chất. Vật chất có
thuộc tính chung nhất là tồn tại khách quan. Các sự vật trong thế giới đa
dạng đến đâu thì cũng chỉ là những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất,
chúng đều chịu sự chi phối của quy luật vật chất, nên chúng có liên hệ chặt
chẽ với nhau. [PGS. TS Đồn Quang Thọ. “Giáo trình Triết học. Nhà xuất
bản Lý luận chính trị. Hà Nội năm 2007”].
Quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể là những quan điểm cơ
bản thuộc về phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Chúng được xây
dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện chứng về tính khách quan,
tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ và sự phát triển của
tất thảy các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

1.4.

Ý nghĩa phương pháp luận

Để cải tạo một sự vật, hiện tượng, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra
trong hoạt động thực tiễn, địi hỏi tn thủ những hệ thống biện pháp có
tính tồn diện. Song tồn diện đồng bộ khơng có nghĩa là đặt ra một cách
tràn lan, mà đòi hỏi ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phải có những chủ
trương, biện pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm, phải xác định những

khâu then chốt tập trung giải quyết để làm cơ sở cho những biện pháp
khác một cách đồng bộ. Tóm lai, thế giới khách quan của sự vật, hiện
tượng để có nhiều mối liên hệ cần xem xét mọi mặt để tránh các quan hệ
lợi ích trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài.
1.5.

Yêu cầu của nguyên tắc toàn diện

1.5.1. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tơn trọng ngun
tắc tồn diện
Khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong mối quan hệ với sự
vật hiện tượng khác, xem xét tất cả các mặt tất cả các yếu tố, các mối
liên hệ vốn có của nó. Thấy được từng mối quan hệ trong tổng thể của
nó. Càng tính tốn nhiều mối liên hệ bao nhiêu càng dự đoán được nhiều
khả năng bấy nhiêu và xây dựng phương án. Xây dựng như vậy mới hiểu
được hiện tượng và làm chủ được thực tiễn. Điêuù cầm chú ý là mối liên
hệ sự vật hiện tượng là vô hạn, đa dạng, phong phú, ta không nắm hết
được nhưng đạt ra có mối quan hệ tồn diện bao nhiêu tư duy bản thân
sẽ hạn chế nhiều hơn những sự phiên diện cá nhân.
Mối liên hệ của sự vật hiện tượng có nhiều loại khác nhau và vai trị của
chúng của khác nhau vi vậy khi xem xét mối quan hệ, thì phải xem xét mối quan
hệ bên trong, mối quan hệ cơ bản, bản chất mối quan hệ, bản chất quyết định
tính chất sự vật. Cần phải đánh giá đúng vị trí và vai trị của từng mối quan hệ,
từ đó xác định được vấn đề nào cần giải quyết trước, vấn đề nào là cấp thiết.
Nếu không có quan điểm tồn diện khi xem xét sự vật hiện tượng thì sẽ khơng
nắm được bản chất sự vật hiện tượng đó và sẽ có cái nhìn sai lệch và siêu hình

5

TIEU LUAN MOI download :



về sự vật hiện tượng, từ đó dẫn đến quan điểm siêu hình về thế giới
vật chất. VI. Lê Nin: “Chúng ta khơng thể làm được điều đó một cách
hồn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi vật sẽ đề
phịng cho chúng ta khơng phạm sai lầm và cứng nhắc”. Cụ thể:
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ đang chi phối sự tồn tại của bản
thân sự vật. Điều đó sẽ giúp chúng ta xem xét được sự vật từ nhiều góc độ,
từ nhiều phương diện. Đặc biệt xác định được những mối liên hệ, quan hệ
nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan
hệ nào là bên ngồi, khơng cơ bản, ngẫu nhiên, khơng ổn định…

Từ những mối liên hệ, quan hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn
định…sẽ lý giải được những mối liên hệ, quan hệ cịn lại. Qua đó, xây
dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối quan hệ, liên
hệ, phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó và đánh giá đúng vai trị của
từng mối liên hệ, quan hệ nào chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ,
phương tiện, biện pháp thích hợp(mà trước hết là những công cụ, phương
tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những
đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những
mối liên hệ, quan hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của nó.

Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ của bản thân
sự vật, kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung
để phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật
vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán
triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc
phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy
biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.

Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này, mối liên hệ này mà
không thấy mặt khác, mối liên hệ khác; nhận thức sự vật trong trạng thái cô lập,
giải quyết công việc không đảm bảo tính đồng bộ. [PGS. TS Đồn Quang Thọ.
“Giáo trình Triết học. Nhà xuất bản Lý luận chính trị. Hà Nội năm 2007”]
1.5.2. Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện sẽ dễ mắc phải ba sai
lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện cụ thể:

Một là, Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt,
một mối quan hệ, tính chất nào đó mà khơng thấy được nhiều mặt,
nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật; chỉ xem xét sự vật ở
một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thơi.
Hai là, Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều
mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản
chất, không thấy được mội liên hệ cơ bản của sự vật; mà coi chúng
như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
6

TIEU LUAN MOI download :


Ba là, Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái
cơ bản với cái khơng cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược
lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.

Ngồi ra nếu khơng tơn trọng ngun tắc tồn diện ta sẽ dễ sa
vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được
trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cũng phức tạp.
2. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1. Nền Kinh tế Việt Nam trước khi đổi mới


giai đoạn trước, nền kinh tế Việt Nam với Định hướng của
Đảng và
Nhà nước: xây dựng nền kinh tế theo mơ hình kế hoạch hóa tập trung mà
hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam gọi là mơ hình “quan liêu bao cấp’’ đã
vi phạm quy luật khách quan, tồn tại những đánh giá chủ quan duy ý chí
dẫn đến đã hạn chế sự phát triển của đất nước.
Mặc dù tại chế độ kinh tế tập trung cũng đã có những ưu điểm đóng
góp nhất định cho đất nước. Trong những năm 70, thời kì kinh tế của nước
ta đã có sự tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào tăng đầu tư khai
thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một số lợi ích khác, cơ chế kinh tế
tập trung có tác dụng nhất định nhờ việc cho phép tập trung tối đa các nguồn
lực kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước vào các mục tiêu chủ
yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, nhất là trong quá trình cơng
nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng. Cơ chế này đã
tạo nên sự thống nhất, đồng bộ trong việc thực hiện các mục tiêu của cả nước.

Tuy nhiên, mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế
kế hoạch hóa tập trung đã dần bộc lộ rõ ràng hơn những hạn chế hết sức
to lớn mà trước đấy nó được chiến tranh che lấp thì bây giờ đã gây ra
hiệu quả trầm trọng mà đất nước phải gánh chịu. Nền kinh tế thiếu năng
động, kém hiệu quả, đất nước rơi vào tình trạng lạc hậu, đời sống nhân
dân ngày càng trở nên khó khăn, các căng thẳng xã hội cũng vì thế mà gia
tăng; dẫn đến một hệ quả tất yếu là ta phải tiến hành cải cách kinh tế năm
1986 đưa đất nước sang giai đoạn phát triển mới.
Thứ nhất, khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo
chiều sâu dựa trên việc áp dụng các thành tựu của nền khoa học và cơng nghệ
hiện đại thì cơ chế này thủ tiêu sự cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học cơng
nghệ. Điều đó làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng
Thứ hai, nhà nước quản lí kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa

trên hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Hệ thống chỉ
tiêu được thể hiện ở chỗ: nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi đơn
vị cấp dưới và doanh nghiệp nhà nước kể cả hợp tác xã. Cơ quan hành chính
can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, từ cấp
vốn, sản xuất đến khâu phân phối sản phẩm nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì
về vật chất và pháp lí với các quyết định của mình. Ở giai

7


TIEU LUAN MOI download :


đoạn này, kinh tế quốc doanh và kinh tế t ậ p thể được coi trọng đặc biệt.
Từ đó hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản
xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, triệt tiêu động lực kinh tế, lao động
sáng tạo đối với người lao động, khơng kích thích tính năng động, sáng
tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Hơn nữa khi Nhà nước quản lý
kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, xây dựng các chỉ tiêu một cách
chủ quan, áp đặt từ trên xuống dưới khiến cho các doanh nghiệp chỉ quan
tâm duy nhất đến việc hoàn thành chỉ tiêu, hạn chế sáng tạo.
Thứ ba, bộ máy quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian. Bộ máy quản
lí này vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ kém năng lực, phong cách
cửa quyền, quan liêu, nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người
lao động. Hoạt động kinh tế kém hiệu quả.
Thứ tư, các hoạt động giao dịch thương mại còn nhiều hạn chế:
bán như cho, mua như cướp. Giá bán thấp hơn nhiều so với số vốn bỏ ra
nên mới có chuyện nhiều người dân tìm cách giấu lúa. Ai mua thứ gì cũng
phải đến hợp tác xã mua bán hay cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Để mua
được thì rất khó khăn vì khơng đủ để cung cấp, mọi người phải xếp hàng

chầu chực để được mua với đặc trưng là chế độ tem phiếu: vật phẩm tiêu
dùng được phân phối theo định mức chứ khơng theo khả năng lao động.
Vì thế chế độ này thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ
nguyên tắc phân phối theo lao động.
Thứ năm, trong thời kì này lạm phát bùng nổ. Tiền phát hành nhiều mà vẫn
khơng đủ, lương cơng nhân khơng có, vật tư hàng hóa khan hiếm. Giá bán
lương thực dù tăng mười lần vẫn không đủ để bù đắp chi phí. Sản xuất nơng
nghiệp sa sút, đầu tư trong cơng nghiệp giảm. Chỉ số giá bán lẻ của thị trường
xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Do đồng tiền mất giá, người
ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt, còn nhanh hơn cả
tăng giá hàng hóa. Tình trạng khan hiếm hàng hóa khiến cuộc sống chật vật không
những về số lượng mà cả về phẩm chất của nhiều mặt hang

Thứ sáu, trong xu thế hội nhập và phát triển quốc tế, các nước phát
triển đang sử dụng những ưu thế của mình gây ảnh hưởng, tạo sức ép, làm
tổn hại nền độc lập dân tộc của những nước chậm phát triển, trong đó có
Việt Nam. Nếu như trước đây, chúng ta vì Độc lập mà buộc phải hy sinh “No
cơm, ấm áo”, thì nay “No cơm, ấm áo” đang trở thành “mồi nhử” của
những nước lớn, nhằm làm méo mó nội dung độc lập dân tộc của nhiều nước
nghèo và nhỏ. Trong bối cảnh tình hình này, khơng cho phép chúng ta tách mình
biệt lập với cộng đồng thế giới, mà phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới, chủ động khai thác những thuận lợi từ bên ngồi, dựa vào
những tập hợp lực lượng có lợi, hạn chế những tác động tiêu cực.
Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bên cạnh một số ưu điểm thì cịn
tồn đọng rất nhiều những hạn chế bởi Nhà nước đã không chú trọng quy luật

8

TIEU LUAN MOI download :



khách quan, đề cao những chủ quan duy ý chí dẫn đến việc vi phạm quan
điểm toàn diện.
2.2. Nền Kinh tế Việt Nam sau khi đổi mới
“Đổi mới kinh tế” là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập
trung, bao cấp, chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN); là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang
nền kinh tế “mở”, hội nhập, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Việc đổi mới phải gắn liền với hoạt động thực tiễn phù hợp với những
chủ chương, chính sách của Đảng từ đó giúp cho việc nhận thức việc đổi
mới một cách đúng đắn hơn. Chúng ta phải đổi mới để tranh thủ cơ hội,
thách thức, biết tận dụng khai thác sử dụng có hiệu quả những thành tựu đã
đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc đổi mới còn
phù hợp với xu thế tồn cầu hố, quốc tế hố sản xuất và phù hợp với sự phát
triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Đổi mới để phù hợp với xu
thế của thời đại đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do
cho dân tộc mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh. Điều quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay là để đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng sự
lãnh đạo của Đảng phải kiên trì, kiên định và phát triển trên nền tảng thị
trường, lý luận cách mạng và khoa học. Phải xem xét quá trình đổi mới trên
quan điểm toàn diện của tất cả các mặt của xã hội.

Vận dụng quan điểm toàn diện vào trong hoạt động thực tiễn giúp
chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa chính sách dàn đều và chính sách có trọng
điểm. Trong khi khẳng định tính tồn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt,
các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đảng ta cũng đồng thời coi đổi mới tư duy

lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn
mạnh sự cần thiết phải đổi mới tồn diện thì đổi mới kinh tế là trọng tâm. Vận
dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc xem xét và giải quyết các vấn đề do
thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ
thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh
hiện thực cả khách quan lẫn chủ quan [Trang 3 văn bản: “Những nội dung cốt

lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và giải pháp, trách
nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai

trái, thù địch trong tình hình” (Tài liệu kèm theo Kế hoạch số 46-KH/BTGTU
của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)]
2.2.1. Xây dựng nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam gồm:

9

TIEU LUAN MOI download :


Trong nề n kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở
hữu tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn
tại chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế hàng hóa chỉ có
thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa tiền tệ. Phân công lao động là cơ sở
chung của sản xuất hàng hóa giúp phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.
Phân cơng lao động thể hiện được tính phong phú, đa dạng và chất
lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi thị trường. Quan hệ
hàng hóa, tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại đặc biệt
trong điều kiện giao dịch quốc tế ngày càng sâu sắc bởi mỗi quốc gia là một

chủ sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới.
Mặt khác xây dựng nền kinh tế thị trường có nhiều tác động to lớn đối
với kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế nước ta bước vào thời kì q độ lên CNXH
mang tính tự cung tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hóa sẽ phá vở dần kinh tế tự
nhiên mà chuyển sang kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất. Do
cạnh tranh giữa người sản xuất buộc mỗi chủ thể sản xuất phải áp dụng công
nghệ, cải tiến kĩ thuật từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất đồng thời nâng cao
lao động sản xuất. Kinh tế hàng hóa cũng kích thích sự sáng tạo năng động
làm tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ. Từ đó phát huy được tiềm năng,
lợi thế của từng vùng, của đất nước để mở rộng quan hệ kinh tế với nước
ngoài. Và sự phát triển đó cũng là điều kiện để ra đời của sản xuất lớn có xã
hội hóa cao, đồng thời lọc ra đội ngủ lao động giỏi.

2.2.2. Đặc điểm của đổi mới kinh tế
Đại hội VI đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo XHCN
và đưa ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành phần: "Đi đôi với
việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích
luỹ tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài cần có chính sách
sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác" và điều đó đã
được cụ thể qua những biểu hiện dưới đây:
Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành
phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi), nhiều hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu hồn hợp). Tuy nhiên, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước - là thành phần nắm giữ một khối
lượng lớn tài sản cố định và vốn lưu động. Và đặc biệt trong nhiều ngành
cơng nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh chiếm khoảng từ 70 - 100% sản
lượng. Tuy nhiên các xí nghiệp quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều

cơ sở kinh doanh yếu kém và khơng có hiệu quả thua lỗ hoặc khơng có lãi.
Vì vậy đổi mới các xí nghiệp quốc doanh (giờ đây gọi là doanh nghiệp Nhà
nước) là một trong những nội dung quan trọng trong quá trình đổi mới và
được thực hiện từng bước với các biện pháp:
10

TIEU LUAN MOI download :


Đổi mớ i kinh tế hợp tác Giải thể các tập đoàn sản xuất hoặc các hợp tác
xã làm ăn kém, thua lỗ kéo dài hoặc chỉ tồn tại trên hình thức, giao khốn hoặc
nhượng bán tư liệu sản xuất cho xã viên để họ trực tiếp quản lý, sản xuất kinh
doanh theo hộ gia đình. Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành các
hợp tác xã cổ phần, hoạt động theo luật hợp tác xã (ban hành năm 1997).
Phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp hiến
pháp năm 1992 quy định mọi công dân được tự do kinh doanh theo pháp luật
không hạn chế qui mô vốn là số lao động sử dụng. Sau đó hệ thống luật pháp tiếp
tục được hồn chỉnh và nhiều chính sách mới được ban hành nhằm khuýến khích
phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể. Các hình thức sở hữu, kinh doanh hỗn
hợp mới ra đời. Đặc biệt từ năm 1988, khi Nhà nước ban hành Luật đầu tư
nước ngồi thì các liên doanh với nước ngồi phát triển dưới nhiều dạng khác
nhau, như là: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp hợp đồng hợp tác kinh
doanh doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi... riêng năm 2000 đã có 1063 doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi 2787 doanh nghiệp hỗn hợp.
Đặc điểm của cơng nghiệp hố - hiện đại hố ở nước ta hiện nay. Thứ
nhất, cơng nghiệp hố - hiện đại hoá phải gắn liền với hiện đại hoá sở dĩ như vậy
là vì trên thế giới đang diễn ra được cách mạng và khoa học công nghệ hiện đại,
một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri
thức nên phải tranh thủứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hố những ngành, những khâu,

những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt. Cơng nghiệp hố nhằm mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hoá là tất yếu với tất cả các nước chậm
phát triển nhưng với mỗi nước, mục tiêu và tính chất của cơng nghiệp hố có thể
khác nhau ở nước ta, cơng nghiệp hố nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Hơn
nữa, công nghiệp hố trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước. Điều này làm cho công nghiệp hố trong giai đoạn hiện nay có sự khác
biệt, nó khơng xuất phát từ chủ quan của Nhà nước mà nó địi hỏi phải vận dụng
các qui luật khách quan mà trước hết là các qui luật thị trường. Khơng những thế
cơng nghiệp hố trong điều kiện "chiến lược" kinh tế mở có thể đi nhanh nếu
chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ của
quốc tế. Tuy nhiên nó cũng gây khơng ít trở ngại do những tác động tiêu cực
của nền kinh tế thế giới, mà các nước tư bản phát triển thiết lập khơng có lợi
cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, cơng nghiệp hố - hiện đại hoá phải đảm
bảo xây dựng nước ta một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Đại hội VI đã chỉ rõ:
"Cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần
vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại". Thực hiện chủ
trương đó, Nhà nước đã ban hành chính sách"mở cửa" để thu hút vốn và kỹ
thuật nước ngoài, từng bước gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị
trường trong nước với thị trường quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có
lợi, đảm bảo độc lập, chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia.Về ngoại

11

TIEU LUAN MOI download :


thương, cải cách ngoại thương được thực hiện theo hướng từng bước mở
cửa và hội nhập quốc tế. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Xố bỏ

triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chếquản lý kinh tế
của Nhà nước. Trên cơ sở đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới
cơ chế quản lý ở nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ Đại hội Đảng ta
tiếp tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo
hướng "xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN". Điều đó thực
chất là q trình đổi mới cả hệ thống các cơng cụ, chính sách quản lý và tăng
cường chức năng quản lý của Nhà nước. Tóm lại, đổi mới kinh tế Việt Nam
hiện nay là một quy luật tất yếu được xây dựng dựa trên quan điểm tồn diện
đã thế hiện sự tơn trọng quy luật khách quan đã thể hiện được hướng đi
đúng đắn của Đảng và Nhà nước áp dụng để xây dựng và phát triển kinh tế.

3.KẾT LUẬN
Áp dụng quan điểm toàn diện về cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt
Nam đã cho ta cái nhìn sâu, rộng, đúng đắn về vấn đề này. Mặc dù còn bộc lộ
rất nhiều hạn chế nhưng ta khơng thể phủ nhận vai trị và ưu điểm của cơ chế
này. Khi nhìn nhận nó cần xem xét trên mọi mặt, mọi mối quan hệ thì mới xác định
được đâu là những mặt nổi bật, những mối quan hệ quan trọng nhất. Từ đó ta sẽ
thấy được bản chất cơ chế kế hoạch hóa tập trung khơng phải là tiêu cực mà chỉ
là không được vận dụng sáng tạo, đúng đắn vào tình hình đất nước cũng như
bối cảnh lịch sử nước ta bấy giờ ,chính vì vậy mới dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng. Nhận thức được điều đó Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển
kinh tế mới và khắc phục những hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà
vẫn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì thế trong giai đoạn mới, chúng ta
cần phải cải tổ mạnh mẽ hơn nữa trong cơ chế quản lý. Đổi mới nền kinh tế với
những kết quả thực tiễn đã và đang đạt được là những minh chứng cụ thể cho
tầm quan trọng của triết học với mọi mặt của cuộc sống. Đặc biệt điều đó càng
có ý nghĩa hơn khi chúng ta nhìn lại nền kinh tế Việt Nam trong 2 năm gần
đây khi đối diện với đại dịch Covid 19 như thế nào sau khi nền kinh tế đã có
những sự thay đổi phù hợp để sự đánh giá toàn diện luôn là nền tảng cho mọi sự

phát triển hiện tại. Đảng và Nhà nước ta đã tuân thủ chặt chẽ ngun tắc tồn
diện xem xét từ cả góc độ trực tiếp lẫn gián tiếp, trong nước lẫn ngoài nước để
có những giải pháp ổn định kinh tế nội địa từ sản xuất, xuất nhập khẩu, mua bán;
hạn chế tối đa rủi ro những gì nền kinh tế có thể gặp phải. Không chỉ làm tốt việc
những công việc trong nước, mà bản thân Việt Nam đã có những chủ động hơn
trong việc tham gia hội nhập và giúp đỡ kinh tế khu vực và thế giới, tích cực khai
thác những thuận lợi đồng thời nhìn nhận rõ những tiêu cực để cùng với các
nước khu vực ASEAN và trên thế giới đề ra những khắc phục phục hồi nền kinh
tế đã bị ảnh hưởng và suy thoái bởi đại dịch.

Từ vấn đề nêu trên ta càng nhận thức rõ hơn về vai trị quan trọng
của quan điểm tồn diện khi nhìn nhận một vấn đề trong cuộc sống:
12

TIEU LUAN MOI download :


Quan điểm này đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn đúng đắn và
khách quan về sự vật, hiện tượng để từ đó mới có thể rút ra được bản chất.
Phải đặt nó giữa các yếu tố bộ phận, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật
đó và mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác, và đồng thời luôn đặt trong
mối quan hệ phù hợp với nhu cầu thực tiễn của con người.

Vận dụng quan điểm tồn diện vào hoạt động thực tiễn địi hỏi
chúng ta phải có những biện pháp, phương tiện khác nhau để hiểu cho
rộng nhưng cũng cần xác định đâu là cái cơ bản, cái quan trọng để hiểu
sâu sắc vấn đề. Theo như Lênin đấy chính là sự kết hợp chặt chẽ giữa
“chính sách dân chủ” và chính sách “có trọng điểm”.

13


TIEU LUAN MOI download :


TƯ LIỆU KHAM KHẢO:
1. Giáo trình Triết học Mác-Lê Nin
2. Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI
3. Văn bản Đảng cộng sản Việt nam
4. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
5. Tạp chí Tuyên giáo Trung ương
6. Văn bản Tư vấn pháp luật

14

TIEU LUAN MOI download :



×