Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

(TIỂU LUẬN) phân tích tác động của phát triển kinh tế xã hội đến môi trường theo anhchị, tại sao phát triển theo mô hình kinh tế tuần hoàn lại là xu hướng phát triển tất yếu của việt nam trong những năm tiếp the

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.25 KB, 13 trang )

41/LT1 - Vũ Minh Thư – 21.09
KIỂM TRA ĐIỀU KIỆN
Môn: Kinh tế mơi trường
Đề bài:
Phân tích tác động của phát triển kinh tế xã hội đến môi trường? Theo anh/chị, tại sao
phát triển theo mơ hình kinh tế tuần hồn lại là xu hướng phát triển tất yếu của Việt Nam
trong những năm tiếp theo?
Bài làm
A. Tác động của phát triển kinh tế xã hội đến môi trường
Môi trường của một sự vật, một hiện tượng nào đó là tổng hợp các điều kiện bên
ngồi có ảnh hưởng tới sự tồn tại và biến đổi của sự vật hay hiện tượng đó.
Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao về đời sống vật chất và tinh thần của
con người bằng phát triển sản xuất, tăng cường chất lượng các hoạt động văn hóa, xã hội.
Q trình phát triển thường tạo ra ba tác động cơ bản tới môi trường: Tác động khai
thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; tác động thải các chất thải vào môi trường và tác động
trực tiếp vào tổng thể môi trường.
1. Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Hoạt động sống và quá trình phát triển của con người chính là q trình liên tục khai
thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng các đòi hỏi của hoạt động sống
và thoả mãn các nhu cầu về nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, đất đai cho các đối tượng
sản xuất, với quy mô ngày càng rộng, hình thức ngày càng phong phú, mức độ ngày càng
mạnh và khối lượng ngày càng lớn.
Chẳng hạn, nhân loại đã phải khai thác, sử dụng một lượng lớn tài nguyên thiên
nhiên khổng lồ trong môi trường chỉ riêng để đáp ứng các đòi hỏi của hoạt động sống cho
số dân trên 7 tỷ người hiện nay. Riêng với sinh hoạt, với mức tiêu thụ bình qn 110
3
lít/người/ngày; mỗi ngày thế giới đã dùng xấp xỉ 800 tỷ lít nước, tương đương 800 tỷ m

nước để phục vụ nhu cầu sinh hoạt…

1




Bên cạnh đó, việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ
quá trình sản xuất cũng rất lớn. Hiện nay, sản lượng một vài loại tài nguyên thiên nhiên
chủ yếu là: than cần khoảng 5 tỷ tấn; quặng sắt cần khoảng 2,7 tỷ tấn.. Như vậy, mỗi ngày,
con người cần khai thác được khoảng 13,5 triệu tấn than; 8 triệu tấn quặng sắt; 85 triệu
thùng dầu... để phục vụ sản xuất.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là mức khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên để phục vụ
cho hoạt động sống, sinh hoạt, sản xuất với mức sống chưa cao, các nhu cầu còn khá đẹp
và đơn giản, nhất là ở các nước chậm phát triển… Nhưng cùng với thời gian, dân số tiếp
tục tăng lên, nhu cầu ngày càng đa dạng thì lúc đó, tác động khai thác sử dụng tài nguyên
thiên nhiên cũng sẽ tăng lên khơng ngừng… Thêm vào đó là các nguồn thiên nhiên đang
suy giảm và cạn kiệt, nhiều nguồn chất lượng đang kém đi… thì mới thấy việc khai thác
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng lại đầy đủ các địi hỏi q trình phát triển sẽ
ngày càng lớn.
Ngoài ra, bản chất của việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên là việc lấy
bớt đi các yếu tố tốt, hữu ích từ mơi trường, nên nếu mức độ phục hồi, tái tạo thiên nhiên
không đủ sức bù lại phần đã khai thác, sử dụng thì chất lượng mơi trường chắc chắn sẽ
xuống cấp, tất yếu sẽ dẫn đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, đe doạ nghiêm trọng chức
năng thứ hai của môi trường.
Như vậy, trong khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên cần chú ý:
Đối với tài nguyên có thể tái sinh: Lượng khai thác không vượt quá khả năng phục
hồi; Kết hợp khai thác với phục hồi tài nguyên;
Đối với tài nguyên không thể tái sinh: Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả; tìm kiếm tài
nguyên mới, tài nguyên thay thế;
Cần tăng cường khai thác năng lượng vô hạn.
2. Thải các loại chất thải vào môi trường
Trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất và trong sinh hoạt, con người luôn
thải vào môi trường nhiều loại chất thải khác nhau.
Loại chất thải thải vào môi trường vừa đa dạng vừa to lớn vừa độc hại... chính là

các chất thải của quá trình sản xuất và nhất là các chất thải công nghiệp. Chỉ cần đơn cử
ngành sản xuất thép, với sản lượng gang thép bình quân mỗi năm trong giai đoạn hiện nay
2


là xấp xỉ 1,5 tỷ tấn con người phải dùng khoảng 2,6 tỷ tấn quặng sắt, 1 tỷ tấn đá vôi khoảng
1 tỷ tấn than cốc và gần 1,5 tỷ m3 nước để phục vụ cho quá trình luyện kim. Theo định luật
bảo toàn vật chất và năng lượng, với số lượng các loại nguyên liệu đầu vào như thế thì sau
quá trình sản xuất, nguyên ngành luyện kim đen mỗi năm đã đưa ra môi trường một khối
lượng chất thải khoảng 2,1 tỷ tấn và khoảng 1 tỷ m3 nước đã qua sản xuất, tức là riêng
ngành luyện kim đen mỗi ngày đã thải ra môi trường xấp xỉ 6 triệu tấn chất thải đoán và
xấp xỉ 3 km3 nước thải cơng nghiệp.
Bên cạnh đó, con người trong đời sống sinh hoạt và các hoạt động xã hội cũng thải
ra rất nhiều chất thải. Với mức chất thải bình quân 3,7 kg chất thải sinh hoạt mỗi người
mỗi ngày và thải ra 110 lít nước sau sinh hoạt. Như vậy, chỉ riêng chất thải sinh hoạt mỗi
ngày hiện đã là khoảng 23 triệu tấn/ngày và 0,8 km3 nước thải sinh hoạt. Và lượng chất
thải ngày càng tăng cao theo đà tăng của quy mô dân số và nâng cao đời sống. Đồng thời,
hàng ngày mơi trường cịn phải đón nhận rất nhiều chất thải khác trong đó đáng ngại nhất
là rác thải y tế chất thải từ hoạt động qn sự chiến tranh giao thơng, xây dựng,...
Ngồi ra, bản chất của việc thải các loại chất thải vào môi trường chính là đưa vào
mơi trường các loại chất xấu khơng cịn giá trị ảnh hưởng xấu đến các thành phần khác của
môi trường. Cho nên nếu tổng lượng chất thải thải ra môi trường vượt quá khả năng chịu
đựng của mơi trường thì lúc đó các loại chất thải sẽ tồn đọng lại, dẫn đến nguy cơ suy thối
mơi trường làm suy giảm thậm chí triệt tiêu chức năng thứ ba của mơi trường.
Như vậy, phải có biện pháp để giảm thiểu tác động vấn đề xả thải ra môi trường
như:
+

Nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi người.


+

Xử lí chất thải trước khi thải vào mơi trường.

+

Hạn chế xả thải ra môi trường, sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường.

+

Phân chia rõ các loại rác thải để dễ dàng xử lí.

+

Đẩy mạnh áp dụng khoa học cơng nghệ hiện đại để kiểm sốt chất thải tại nguồn,
xử lí chất thải, tái chế chất thải,...

+

Duy trì mức chất thải thải ra môi trường nhỏ hơn khả năng hấp thụ, trung hịa của
mơi trường.
3


3. Tác động trực tiếp vào tổng thể môi trường
Bên cạnh các tác động khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và thải các chất
thải vào môi trường - là các loại tác động theo hướng một chiều q trình phát triển của
con người có tác động đa chiều vào môi trường, thể hiện ở việc lấy bớt đi nhiều thành phần
mơi trường có cả đưa thêm vào môi trường các hoạt động cải tạo tái tạo thành phần mơi
trường... đó chính là tác động trực tiếp và tổng thể mơi trường.

Điển hình cho tác động này là việc con người phá rừng, lấp ao hồ... để xây dựng các
thành phố, khu dân cư các trung tâm công nghiệp, vui chơi giải trí, trường học...Trong các
hoạt động này, con người lấy bớt từ môi trường nhưng gần như là lấy đi toàn bộ các thành
phần vật chất - đất để lấy về mặt không gian cho các mục đích sử dụng mới. Đồng thời có
đưa vào mơi trường nhưng đưa vào các thành tạo vật chất cần thiết cho các quá trình hoạt
động sắp tới của con người và cải tạo các thành phần khác của môi trường theo mục đích
trên. Đây cũng là một tác động phổ biến của con người và là tác động mạnh mẽ tới mơi
trường theo q trình đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như các nước đang phát
triển hoặc các vùng đang đẩy mạnh quá trình phát triển.
Điều đáng lưu ý là tác động này có xu hướng mở rộng rất mạnh. Trong khi tác động
khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên có thể ổn định hoặc giảm bớt nhờ cuộc cách mạng
nguyên liệu tác động thải các loại chất thải vào mơi trường có thể được cải thiện nhờ các
công nghệ thu gom xử lý chất thải hiện đại và việc thực hiện các chu trình sản xuất kín...
thì tác động này rất có thể lại ngày càng tăng cao cho mức tăng quy mô dân số, theo việc
thực hiện quyền lao động, cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống...
Như vậy, con người cần phải phát huy các tác động tích cực; ngăn ngừa, giảm thiểu
các tác dộng tiêu cực đến môi trường.
B. Phát triển theo mơ hình kinh tế tuần hồn là xu hướng phát triển tất yếu của Việt
Nam trong những năm tiếp theo
Môi trường sinh thái toàn cầu hiện nay đang phải đối mặt với sự phát triển kinh tế xã hội thiếu bền vững và thiếu quan tâm đến việc quản lý tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh
thái. Cách thức phát triển kinh tế truyền thống thường đặt ra bài toán phải đánh đổi giữa
lợi ích kinh tế và mơi trường. Vì đó là cách thức của mơ hình kinh tế tuyến tính, dựa vào
khai thác tài nguyên làm đầu vào cho quá trình sản xuất, phục vụ tiêu dùng và cuối cùng
4


là thải loại, dẫn đến suy giảm tài nguyên thiên nhiên và gia tăng chất thải gây ô nhiễm môi
trường. Trước những thách thức đó, kinh tế tuần hồn là sự thay đổi về triết lý phát triển,
hướng tới phục hồi và tái tạo, từ đó giảm phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và hạn chế
rác thải, trong khi không hề xem nhẹ phát triển kinh tế.

1. Kinh tế tuyến tính và kinh tế tuần hồn
Kinh tế tuyến tính (KTTT – Linear Economy) bắt đầu từ Khai thác tài nguyên làm
đầu vào cho hệ thống kinh tế, rồi Sản xuất, Phân phối, Tiêu dùng và cuối cùng là Thải loại.
Một cách ngắn gọn, có thể nói đây chính là q trình biến tài ngun thành chất thải, do đó
tất yếu sẽ dẫn tới cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm mơi trường.
Kinh tế tuần hồn (KTTH – Circular Economy) là cách tiếp cận phát triển kinh tế
mới hơn, hướng tới việc kết nối điểm cuối của quá trình ấy trở lại với điểm đầu, thậm chí
khơi phục và tái tạo các vật chất ở cuối mỗi vòng khai thác, sản xuất, phân phối và tiêu
dùng, giữ cho vật chất được sử dụng lâu nhất có thể.
Tới nay, khái niệm kinh tế tuần hoàn được thừa nhận rộng rãi nhất là do tổ chức
Ellen MacArthur Foundation đưa ra tại Hội nghị Kinh tế toàn cầu năm 2012:
“Kinh tế tuần hoàn là một hệ thống có tính khơi phục và tái tạo thông qua các kế
hoạch và thiết kế chủ động. Nó thay thế khải niệm “kết thúc vịng đời” của vật liệu bằng
khái niệm khôi phục, chuyển dịch theo hướng sử dụng năng lượng tái tạo, khơng dùng các
hóa chất độc hại gây tổn hại tới việc tái sử dụng và hướng tới giảm thiểu chất thải thông
qua việc thiết kế vật liệu, sản phẩm, hệ thống kỹ thuật và cả các mơ hình kinh doanh trong
phạm vi của hệ thống đó.”
Theo đó, kinh tế tuần hồn bao gồm 3 nội hàm cơ bản:
-

Bảo tồn và phát triển vốn tự nhiên thơng qua việc kiểm sốt, nhằm sử dụng hợp lý

các tài nguyên và tái tạo các hệ thống tự nhiên; đặc biệt, đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái
tạo;
-

Tối ưu hoá lợi tức của tài nguyên bằng cách tuần hồn các sản phẩm và vật liệu

nhiều nhất có thể trong các chu trình kỹ thuật và sinh học;
-


Nâng cao hiệu suất chung của toàn hệ thống bằng cách tối thiểu hố các ngoại ứng

tiêu cực, thơng qua thiết kế chất thải, thiết kế mơ hình ngay từ đầu của quá trình sản xuất.
5


2. Tính tất yếu của chuyển dịch mơ hình kinh tế tuần hồn ở Việt Nam
2.1. Mặt trái của mơ hình kinh tế tuyến tính
Kinh tế tuyến tính đã và đang gây ra những áp lực về suy giảm tài nguyên và gia
tăng lượng thải. Thật vậy, so với 50 năm trước, tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên của thế giới
đã tăng 190%. Vì thế, nếu khơng thay đổi cách thức phát triển, việc cạn kiệt tài nguyên,
ngay cả với các tài ngun có thể tái tạo, là khơng thể tránh khỏi.
Về rác thải của thế giới, chỉ tính riêng rác thải nhựa đổ ra biển của năm 2014 đã là
150 triệu tấn trên tồn cầu. Dự đốn đến năm 2050, tổng khối lượng rác thải nhựa thậm chí
sẽ nhiều hơn tổng khối lượng cá trong các đại dương. Ngoài ra, cần kể tới các vấn đề như
ô nhiễm không khí, ơ nhiễm nguồn nước, suy thối đất, mất rừng, suy giảm đa dạng sinh
học, gia tăng phát thải khí nhà kính và biến đổi khí hậu diễn ra với quy mơ tồn cầu.
Bên cạnh đó, bản thân các nền kinh tế cũng đang có những thách thức mới như: rủi
ro của chuỗi cung ứng, sự xuất hiện của các thị trường phi quy định, chiến tranh thương
mại và những bất ổn kinh tế khác. Những vấn đề trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết của sự
thay đổi.
Đối với Việt Nam, bản thân nước ta cũng đang phải đối mặt với những vấn đề của
kinh tế tuyến tính và đứng trước yêu cầu thay đổi. Một số vấn đề tiêu biểu có thể kể đến:
Tiêu thụ năng lượng tăng nhanh và suy giảm tài nguyên: Tiêu thụ năng lượng của
Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây tăng gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng GDP khiến
kể từ năm 2015, Việt Nam đã trở thành nước nhập khẩu ròng năng lượng. Từ một nước
vẫn tự hào về xuất khẩu than, Việt Nam bắt đầu phải nhập than từ năm 2001 và đến năm
2015 đã trở thành nước nhập khẩu rịng than. Ngồi than đá thì Việt Nam cịn phải liên tục
tăng nhập khẩu dầu thơ, thậm chí sắt thép các loại, các kim loại thường, chất dẻo nguyên

liệu, nguyên phụ liệu cho dệt may và da giày. Rõ ràng, các tài nguyên đang suy giảm
nghiêm trọng, không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
Phát thải tăng nhanh: Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, chi phí ngun liệu và
mức thải bỏ bình qn của các doanh nghiệp Việt Nam cao hơn nhiều so với mức bình
quân của khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, mỗi ngày các đơ thị ở Việt Nam thải ra
gần 32.000 tấn rác sinh hoạt, trong khi ở khu vực nông thôn là 12.000 tấn (QĐND, 2016).
Dự báo đến năm 2025, lượng rác ở Việt Nam khoảng 100 triệu tấn / năm, bao gồm rác sinh
6


hoạt, cơng nghiệp và y tế. Tình trạng rác thải không được xử lý trước khi thải ra môi trường
đã trở thành vấn đề cấp bách trong công tác bảo vệ mơi trường của chính phủ Việt Nam.
Ơ nhiễm mơi trường gây thiệt hại nghiêm trọng: Theo World Bank, chỉ riêng ơ
nhiễm khơng khí đã khiến Việt Nam mất đi 5,18% GDP của năm 2013. Ơ nhiễm nước
cũng có thể gây thiệt hại cho Việt Nam tới 3,5% GDP vào năm 2035. Đó là cịn chưa kể
đến ơ nhiễm đất và suy thoái đất đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Đặc biệt, các sự cố môi trường từ việc xả thải của các nhà máy, như các vụ việc
của nhà máy Vedan, công ty Formosa Vũng Áng, cơng ty cổ phần mía đường Hịa Bình,…
cũng đã gây thiệt hại lớn tới các hệ sinh thái.
2.2. Lợi ích của mơ hình kinh tế tuần hồn - xu hướng tất yếu trên toàn cầu
Kinh tế tuần hoàn không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà
còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính tốn từ trước, tạo thành các
vịng tuần hồn trong nền kinh tế. Kinh tế tuần hồn có thể giữ cho dịng vật chất được sử
dụng lâu nhất có thể, khơi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vịng sản xuất
hay tiêu dùng.
So với mơ hình kinh tế tuyến tính truyền thống, kinh tế tuần hồn mang lại nhiều
lợi ích. Việc phát triển kinh tế tuần hồn là thể hiện trách nhiệm của quốc gia trong giải
quyết những thách thức tồn cầu do ơ nhiễm mơi trường, biến đổi khí hậu đồng thời nâng
cao năng lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh tế tuần hoàn giúp tận dụng được nguồn
nguyên vật liệu đã qua sử dụng thay vì tiêu tốn chi phí xử lý; giảm thiểu khai thác tài

nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa giá trị tài nguyên; hạn chế tối đa chất thải, khí thải ra
mơi trường.
Đồng thời, kinh tế tuần hồn giúp giảm chi phí xã hội trong quản lý, bảo vệ mơi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tạo ra thị trường mới, cơ hội việc làm mới, nâng
cao sức khoẻ người dân...Cùng với đó, kinh tế tuần hồn góp phần giảm rủi ro về khủng
hoảng thừa sản phẩm, khan hiếm tài nguyên; tạo động lực để đầu tư, đổi mới cơng nghệ,
giảm chi phí sản xuất, tăng chuỗi cung ứng...
Trên thực tế, các chính sách liên quan đến kinh tế tuần hồn đã xuất hiện từ trước
đó rất lâu ở các quốc gia, với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ngay tại Châu Âu, Hà Lan đã
có bước đi đầu tiên từ những năm 1970, với “thang Lansink”, ưu tiên ngăn ngừa và hạn
7


chế phát sinh chất thải, thúc đẩy tái sử dụng và tái chế, sau đó là việc xử lý rác bằng phương
pháp đốt trước khi áp dụng biện pháp cuối cùng là chôn lấp; tại Đức là Luật về Quản lý
chất thải và Chu trình khép kín năm 1996. Tại Châu Mỹ là Hoa Kỳ với các cách tiếp cận
dựa vào thị trường đối với rác thải từ năm 1677. Tại Châu Á, Nhật Bản khởi xướng với
Luật Cơ bản cho việc thành lập một xã hội dựa trên tái chế từ năm 2002. Năm 2009, Trung
Quốc cũng có Luật Xúc tiến Kinh tế tuần hoàn.
Đặc biệt, đại dịch COVID-19 đã và đang tác động đến mọi mặt của đời sống kinh
tế - xã hội toàn cầu, càng làm sâu sắc thêm u cầu về thay đổi mơ hình tăng trưởng. Trong
bối cảnh đó, nhiều quốc gia trên thế giới, như Liên minh châu Âu (đi đầu là Hà Lan, Đức,
Phần Lan và Đan Mạch), Canada, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore
đang chuyển đổi mạnh mẽ sang kinh tế tuần hồn. Bài học thành cơng của các quốc gia
này là kinh nghiệm để Việt Nam phát triển mơ hình kinh tế tuần hồn, cũng như thúc đẩy
hợp tác nhằm tiếp nhận chuyển giao các công nghệ về thiết kế, chế tạo, chuyển đổi số.
2.3. Khái quát về kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
Khái niệm liên quan đến mơ hình kinh tế tuần hồn đã có ở Việt Nam từ cách đây
20 năm với những định danh khác. Việt Nam cũng đã có một số mơ hình tiếp cận của kinh
tế tuần hồn điển hình thành cơng, như mơ hình Vườn-Ao-Chuồng và các biến thể như

Rừng-Vườn-Ao-Chuồng, hệ thống trồng cây-ni cá kết hợp (giúp thu hồi khí thải hoặc
tận dụng thức ăn, dinh dưỡng).
Không chỉ vậy, hiện nay, vấn đề quản lý, sử dụng bền vững tài ngun, bảo vệ mơi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu đã được tồn xã hội nhận thức đầy đủ hơn. Chính
vì vậy, các chiến dịch về bảo vệ môi trường như chống rác thải nhựa đã được cộng đồng
doanh nghiệp và người dân trên cả nước tích cực hưởng ứng, tham gia. Vì vậy, đã hình
thành một số mơ hình mới hướng đến gần hơn với kinh tế tuần hồn như: sáng kiến Khơng
xả thải ra thiên nhiên (Zero Waste to Nature) do Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt
Nam VCCI khởi xướng, sáng kiến tái chế nắp bia Tiger thành sắt làm cầu tại Tiền Giang
(giúp thu hồi sắt), ống hút làm từ cỏ và gạo thay thế cho ống hút nhựa (giúp giảm phát thải
nhựa), mô hình khu cơng nghiệp sinh thái tại một số địa phương; mơ hình chế biến phụ
phẩm thủy sản; Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam; Đối tác tồn cầu về nhựa của Việt
Nam; cộng đồng doanh nghiệp cũng đang rất tích cực hưởng ứng mơ hình kinh tế tuần
8


hồn… Mặc dù cịn nhiều hạn chế, như cịn gây ô nhiễm môi trường, nhưng các mô hình
này cũng đã bước đầu tiếp cận với kinh tế tuần hoàn.
Việc áp dụng mơ hình kinh tế tuần hồn tạo ra một số thay đổi cơ bản cho Việt Nam:
Trước hết là thay đổi chất lượng mơi trường sống. Do đặc tính của kinh tế tuần hoàn
là biến rác thải của ngành này thành nguồn tài nguyên của ngành kia dẫn đến “zero waste”
hay nền kinh tế không rác thải, giảm nguồn ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng sống,
một cách gián tiếp cải thiện sức khỏe cho cộng đồng. Đồng thời nền kinh tế tuần hồn cũng
góp phần làm giảm phát thải nhà kính và biến đổi khí hậu.
Tiếp đến, mơ hình kinh tế này giúp tìm kiếm và phát triển công nghệ mới để sử dụng
các nguồn tài nguyên thay thế cho ngun liệu thơ và năng lượng hóa thạch, đặc biệt là
than đá và dầu khí. Các loại tài nguyên này của Việt Nam đang cạn kiệt dần và phần lớn
phải nhập khẩu từ nước ngồi.
Bên cạnh đó, kinh tế tuần hoàn giúp Việt Nam tránh lệ thuộc vào nền kinh tế bên
ngoài, nhất là về nguyên liệu và nhiên liệu phục vụ cho sản xuất. Sự phụ thuộc này có thể

dẫn đến căng thẳng về chính trị tồn cầu. Giá ngun liệu thơ tăng thường kéo theo những
hệ quả tiêu cực cho sự ổn định của nền kinh tế, nhất là đối với các nước nghèo.
Sau cùng, mơ hình kinh tế tuần hồn sẽ giúp nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh
tế. Mơ hình này tạo ra các cơ hội kinh tế, đặc biệt đối với doanh nghiệp và nhà khoa học
trong hoạt động thiết kế, tái chế và sáng tạo. Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tình
trạng khan hiếm nguyên liệu, sử dụng năng lượng bền vững, hạn chế rác thải tối đa trong
từng cơng đoạn của vịng đời sản phẩm, tái sử dụng ngun vật liệu có sẵn… địi hỏi sự
đầu tư đáng kể về nguồn nhân lực khoa học có trình độ, góp phần làm tăng tính cạnh tranh
cho nền kinh tế.
Ngồi ra, nền kinh tế tuần hồn cịn tạo nên sự thay đổi về nhận thức của từng cá
nhân khi chất lượng sống được cải thiện. Mỗi cá nhân khi nhận thức được tác động tích
cực mà nền kinh tế tuần hồn mang lại, họ sẽ góp phần khơng nhỏ trong việc hoàn thiện
nền kinh tế này.
2.4. Những giải pháp phát triển mơ hình kinh tế tuần hồn tại Việt Nam
Theo kinh nghiệm quốc tế, kinh tế tuần hoàn hiện nay đã phát triển và không chỉ
dừng lại ở việc tận dụng vật liệu, mà cần được xem xét toàn diện theo 4 giai đoạn:
9


(1) Sản xuất (bao gồm thiết kế và thực hiện sản xuất);
(2) Tiêu dùng;
(3) Quản lý chất thải;
(4) Chuyển từ chất thải thành tài nguyên.
Như vậy, để thực hiện kinh tế tuần hoàn phù hợp với xu hướng chung của thế giới,
Việt Nam sẽ cần có những chính sách tồn diện và hệ thống như sau:
Thứ nhất là thể chế hố kinh tế tuần hồn và hướng tới thực hiện kinh tế tuần hoàn
trong mọi hoạt động.
Trong kinh tế tuần hồn, nhà nước đóng vai trị kiến tạo và doanh nghiệp là động
lực trung tâm. Để có thể thúc đẩy được động lực trung tâm đó, kinh nghiệm quốc tế cho
thấy việc thể chế hóa kinh tế tuần hồn là giải pháp được nhiều quốc gia lựa chọn, tiêu biểu

là tại Đức, Nhật Bản và Trung Quốc. Trước hết, luật và các chính sách rõ ràng sẽ giúp việc
thực hiện kinh tế tuần hoàn được hệ thống và đồng bộ, cùng với các hình thức khuyến
khích (ưu đãi về cơ chế và thủ tục hành chính, về tài chính, về tiếp cận các nguồn lực) và
chế tài rõ ràng, minh bạch. Từ đó, các mơ hình kinh tế tuần hồn tốt được khuyến khích và
tạo hiệu ứng thực hiện kinh tế tuần hoàn trong mọi hoạt động kinh tế và xã hội. Việt Nam
có thể xem xét việc xây dựng luật riêng về kinh tế tuần hoàn hoặc hoàn thiện, bổ sung các
luật đã có theo hướng hệ thống và cụ thể hơn.
Thứ hai là xây dựng lộ trình kinh tế tuần hoàn
Từ kinh nghiệm của các nước Pháp, Hà Lan, Mỹ và gần đây là Malaysia cho thấy
cần có lộ trình để thực hiện kinh tế tuần hồn. Các lộ trình này thường dài từ 15-20 năm,
nêu rõ các mục tiêu và các quy định cụ thể cho từng giai đoạn nhỏ, gắn với vai trò của các
bên liên quan. Lộ trình kinh tế tuần hồn cũng cần gắn với các cơ chế tài chính để thực
hiện các mục tiêu đặt ra, như cơ chế hợp tác công tư, các cơ chế tài chính xanh,…
Thứ ba là đẩy mạnh thu hồi vật liệu và hạn chế rác thải khó tái chế
Thu hồi vật liệu đóng vai trị quan trọng trong kinh tế tuần hồn. Có 3 nhóm giải
pháp chính để thúc đẩy việc này, đó là: phân loại rác tại nguồn, mở rộng trách nghiệm của
nhà sản xuất (EPR) và thúc đẩy các thị trường mới phát triển (gồm thị trường thu hồi và tái
chế nhựa, giấy, kim loại,… và thị trường cung cấp các sản phẩm tái chế). Đối với việc phát
10


triển các thị trường, vai trị của chi tiêu cơng xanh thường có tác động rất lớn, thậm chí tiêu
dùng của chính phủ trong nhiều trường hợp có thể định hướng sản xuất và tiêu dung của
thị trường.
Ngoài việc đẩy mạnh thu hồi vật liệu, việc hạn chế sử dụng vật liệu khó tái chế cũng
rất quan trọng để thúc đẩy kinh tế tuần hồn. Vật liệu khó tái chế có thể hiểu là khó tái chế
về mặt kỹ thuật hay kinh tế (như các loại hóa chất,…), hoặc khó thu hồi để tái chế (như túi
nhựa mỏng, bọc bảo vệ nắp chai, các hạt vi nhựa,…). Điều này lý giải vì sao hầu hết các
nước tại Châu Âu và Mỹ, Canada, Nhật Bản,… đều coi việc hạn chế sản phẩm nhựa dùng
một lần là một nội dung quan trọng khi thực hiện kinh tế tuần hoàn.

Thứ tư là chuẩn bị cho việc chuyển dịch nhu cầu với các tài nguyên khi thực hiện
kinh tế tuần hoàn trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu
Sự chuyển dịch từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hồn sẽ có thể dẫn tới các
chuyển dịch nhu cầu với các tài nguyên. Ví dụ, muốn giảm phát thải khí nhà kính, cần giảm
sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ,…) và tăng sử dụng năng
lượng tái tạo (năng lượng mặt trời, năng lượng gió,…). Như vậy, sẽ tới một điểm mà nền
kinh tế giảm nhu cầu với than đá, tăng nhu cầu với đất hiếm (dùng cho chế tạo các turbine
gió). Những tác động của thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp cần được tính đến trong
lĩnh vực tài nguyên.
Thứ năm là xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kinh tế tuần hồn
Các dữ liệu về kinh tế tuần hồn khơng chỉ là tập hợp thơng tin về các điển hình
hoặc sáng kiến tuần hoàn tốt để xem xét và nhân rộng, mà còn bao gồm cả các dữ liệu quan
trọng, giúp theo dõi mức độ tuần hoàn của nền kinh tế (như tỉ lệ tái chế chất thải rắn, tỉ lệ
tái sử dụng chất thải, hiệu suất tuần hoàn tài nguyên,… ). Đây là các dữ liệu quan trọng để
phục vụ cho việc quản lý và điều chỉnh việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.
Thực tế là tất cả các nước hàng đầu về kinh tế tuần hoàn trên thế giới đều có hệ
thống cơ sở dữ liệu rất tốt về kinh tế tuần hồn, trong khi đó ngay cả những dữ liệu cơ bản
như tỉ lệ tái chế chất thải rắn qua các năm thì Việt Nam vẫn chưa thống kê được.
Thứ sáu là thực hiện kinh tế tuần hồn gắn liền với phát triển cơng nghệ, kinh tế số
và cách mạng công nghiệp 4.0

11


Trên thực tế, nhiều sáng kiến tuần hồn mới có thể xuất hiện từ sự phát triển của
cơng nghệ. Ví dụ, tại Mỹ, Nhật Bản và Đài Loan, phần mềm cài trên điện thoại cho phép
người dùng tích điểm khi thực hiện thu gom các chất thải tái chế. Sau đó, họ có thể sử dụng
các điểm này để mua hàng tại nhiều siêu thị và cửa hàng thay cho tiền mặt. Điều này khơng
những khuyến khích người dân tham gia thu gom và tái chế, mà còn giúp nâng cao nhận
thức của người dân.

C. Kết luận
Có thể nói, mơi trường ln đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển, ngược lại,
sự phát triển kinh tế xã hội của con người ln có những tác động trở lại với môi trường,
làm cho môi trường biến đổi theo nhiều hướng khác nhau, tích cực hoặc tiêu cực. Như vậy,
ta cần phải hiểu về mối quan hệ giữa môi trường và phát triển để từ đó, trong phát triển
kinh tế xã hội của con người, cần có giải pháp để vừa đảm bảo các mục tiêu phát triển, vừa
đảm bảo bảo vệ mơi trường thì mới đạt được sự phát triển ổn định, lâu dài, bền vững.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng
trong khu vực và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nền kinh tế không chỉ
tăng trưởng về quy mô mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng cao. Tuy nhiên, nước ta đang phải đối mặt với nhiều
thách thức về cạn kiệt tài nguyên, ơ nhiễm, suy thối mơi trường và biến đổi khí hậu. Thực
tiễn đó cho thấy việc tiếp cận và chuyển đổi mơ hình phát triển sang phát triển kinh tế tuần
hoàn là một xu hướng tất yếu.

12


D. Tài liệu tham khảo
[1]

Đồng chủ biên: TS. Nguyễn Đức Lợi và TS. Phạm Văn Nhật (2013), Giáo trình Kinh
tế mơi trường, NXB Tài chính, Hà Nội.

[2]

Thu Trang (2020), bài viết “Phát triển kinh tế tuần hoàn là yêu cầu tất yếu của phát
triển bền vững”, TTXVN

[3]


Nguyen Hoang Nam, Hoang Thi Hue, Nguyen Thi Bich Phuong (2019), The
Circular Economy and the Inevitable Transition, VNU Journal of Science: Policy
and Management Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 21-28.

[4]

Nguyen Hoang Nam, Nguyen Trong Hanh (2019), Implementing Circular
Economy: International Experience and Policy Implications for Vietnam, VNU
Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 68-81.

13



×