Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

LV ths luật học bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.04 KB, 79 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ

7

1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo trong tố tụng hình sự

7

1.2. Ý nghĩa của việc quy định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong
1.3

tố tụng hình sự

12

Nội dung bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự

15

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG



21

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo

21

2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự
trên địa bàn tỉnh Điện Biên

37

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

57

3.1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về
bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự

57

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự
nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự

60


3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo trên địa bàn tỉnh Điện Biên

63

KẾT LUẬN

67


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TTHS

: Tố tụng hình sự


VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Số liệu thống kê vụ án hình sự và bị cáo do Tịa án nhân dân hai
cấp trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã thụ lý giải quyết từ năm 2013
đến năm 2017

2.2

41

Tỷ lệ bị cáo có người bào chữa trên địa bàn tỉnh Điện Biên
từ năm 2013 đến năm 2015


2.3

45

Thống kê số luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Điện Biên và số vụ
việc bào chữa do luật sư thực hiện từ năm 2013 đến năm 2017
tại Điện Biên

2.4

48

Bảng tỷ lệ bị cáo được Trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Điện
Biên từ năm 2013 đến năm 2017

49

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

Tỷ lệ bị cáo có người bào chữa của 100 vụ án hình sự sơ thẩm

của Tịa án nhân dân tỉnh Điện Biên từ năm 2012 đến năm 2017

2.2

38

Tỷ lệ người bào chữa thực hiện bào chữa cho 98 bị cáo
trong 100 vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Điện
Biên từ năm 2012 đến năm 201

2.3

39

Diện người bào chữa trong 100 vụ án hình sự sơ thẩm
của Tịa án nhân dân tỉnh Điện Biên từ năm 2012 đến năm 2017

39


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người (nhân quyền) là một phạm trù chính trị - pháp lý. Quyền
con người là các quyền vốn có được trao cho mỗi cá nhân mà không dựa trên bất cứ
sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, chính kiến
hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc các
điều kiện khác. Liên hợp quốc khẳng định: "Quyền con người là những bảo đảm
pháp lý phổ quát bảo vệ các cá nhân và nhóm khỏi những hành động can thiệp vào

tự do cơ bản và phẩm giá con người. Luật nhân quyền quốc chỉ ra nghĩa vụ của
quốc gia và các chủ thể nghĩa vụ khác phải có trách nhiệm phải thực thi việc bảo
đảm và ngăn ngừa sự vi phạm"1.
Hoạt động xét xử được coi là trọng tâm trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, vì hoạt động xét xử biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền lực tư
pháp, là nơi mà trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và tranh luận - Tòa án nhân danh
Nhà nước đưa ra quyết định một người có tội hay vơ tội cũng như mức hình phạt
tương xứng với hành vi phạm tội. Do đó, để có một phán quyết chính xác, khách
quan, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, mức hình phạt phù hợp
với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân thì khơng chỉ phụ thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử
của các cơ quan tiến hành tố tụng dưới góc nhìn một chiều (buộc tội) mà còn phụ
thuộc vào sự phản biện, tranh luận, bào chữa của bị cáo và người bào chữa cho bị
cáo, vai trò bào chữa của bị cáo và của người bào chữa trong quá trình tố tụng sẽ
góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, góp phần bảo vệ cơng lý. Hơn
nữa, để bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền bào chữa của người bị buộc tội
thì rất cần có sự tham gia của người bào chữa để bảo vệ cho những đối tượng yếu
thế trong xã hội khi đối diện với sự buộc tội của Nhà nước.
1

. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình cao cấp lý luận chính trị: Đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 8, Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ
yếu của đời sống xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 192.


2

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:
"Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm, quyền bảo vệ lợi ích hợp
pháp của đương sự được bảo đảm"2

"Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền
tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa"3
"Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm"4
Như vậy, quyền con người đã trở thành nguyên tắc hiến định trong Hiến
pháp của Việt Nam qua các thời kỳ và ngày càng được bảo đảm, củng cố và phát
triển. Được thể chế hóa thành các quyền cơng dân trong các luật chuyên ngành, các
văn bản quy phạm pháp luật và được Nhà nước bảo đảm thực hiện thông qua hoạt
động của bộ máy nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp và bổ trợ tư pháp), các
đoàn thể và lực lượng xã hội.
Thực tiễn áp dụng pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự
(TTHS) thì việc bảo đảm quyền bào chữa vẫn chưa được áp dụng triệt để, đặc biệt
là ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, dẫn tới đa số các vụ án
hình sự chưa bảo đảm được quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và của
bị cáo nói riêng vì nhiều ngun nhân.
Chính vì vậy, đa số người bị buộc tội hiện chưa được bảo đảm quyền bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, quyền cơ bản của công dân, nên tôi lựa chọn đề tài: "Bảo đảm quyền
bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sư" làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành:
Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bào chữa là nội dung cơ bản bảo đảm quyền con người trong TTHS và hoạt
động xét xử là khâu mấu chốt để quyết định bị cáo có tội hay khơng có tội, quyết
định mức hình phạt khi bị cáo đã cấu thành tội phạm và để xử lý triệt để, toàn diện
2

. Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
. Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
4
. Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
3



3
vụ án. Nhằm hoàn thiện chế định về quyền bào chữa, đến nay đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về hoạt động bào chữa, bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS như:
* Về luận án, luận văn
- Luận án tiến sĩ luật học của Đỗ Thị Phượng, năm 2008: "Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam";
- Luận án tiến sĩ luật học của Ngô Thị Ngọc Vân, năm 2015: "Hoạt động
bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự";
- Luận án tiến sĩ luật học của Hoàng Thị Sơn, năm 2003: "Thực hiện quyền
bào chữa của bị can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam";
- Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Chí Linh, năm 2015: "Quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn thành phố Hà Nội";
- Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Minh Nguyệt, năm 2013: "Quyền
bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự";
- Luận văn thạc sĩ luật học của Võ Thị Khánh Hoài, năm 2015: "Nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam".
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Tú An, năm 2017: "Quyền bào chữa
của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tỉnh)".
- Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Thị Hoài, năm 2017 về "Vai trị của
người bào chữa trong các vụ án hình sự bắt buộc phải có người bào chữa (trên cơ
sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)".
* Về bài viết, giáo trình, tạp chí có các cơng trình nghiên cứu
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình cao cấp lý
luận chính trị: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 8, Đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội;

- Hồng Thị Sơn: Thực trạng thực hiện quyền tự bào chữa và quyền nhờ
người khác bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 04, năm 2002;


4
- Hoàng Thị Sơn: Về khái niệm quyền bào chữa và việc đảm bảo quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 05, năm 2000;
- Trần Văn Bảy: Người bào chữa và vấn đề đảm bảo quyền bào chữa của người
bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6, năm 2001.
Mặc dù các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã có những phân tích, nghiên
cứu chun sâu, đề cập đến rất nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau về việc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, như: Luận án tiến sĩ của Đỗ Thị Phượng
thì khai thác về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên; Luận án tiến sĩ của
tác giả Ngơ Thị Ngọc Vân thì nghiên cứu về hoạt động bào chữa của luật sư trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Thị Sơn thì
nghiên cứu trên cơ sở quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003;
các luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Thị Hoài và Nguyễn Thị Tú An mặc dù
nghiên cứu trên cơ sở của BLTTHS năm 2015 nhưng chỉ ở phạm vi bắt buộc phải
có người bào chữa hoặc là người dưới 18 tuổi,...
Các cơng trình, bài viết này đều nghiên cứu từ những năm trước đây với
Hiến pháp năm 1992 và BLTTHS năm 2003, chưa có cơng trình nghiên cứu, bài
viết nào về đề tài bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo trong TTHS và trên tinh thần
Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 và Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015,
đặc biệt là từ thực trạng của một tỉnh miền núi, biên giới, có điều kiện kinh tế - xã
hội thuộc diện khó khăn nhất trong cả nước như tỉnh Điện Biên với đại đa số là
người dân tộc thiểu số nghèo dân trí thấp, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, số
lượng bị cáo liên tục gia tăng với nhiều tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng, nhưng số lượng người bào chữa lại rất hạn chế,...
3. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra và phân tích những vấn đề về lý luận và thực tiễn để đảm bảo quyền

được bào chữa của người bị buộc tội nói chung và của bị cáo nói riêng trong TTHS
Việt Nam. Đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo ở
nước ta và trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Xuất phát từ thực trạng trên địa bàn tỉnh


5
Điện Biên, nêu và phân tích những vướng mắc, hạn chế về việc bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trên cơ sở nghiên cứu để đưa ra những giải pháp, kiến nghị, đề xuất cụ thể
nhằm đảm bảo quyền được bào chữa của người bị buộc tội nói chung và của bị cáo
nói riêng, qua đó góp phần bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng trước pháp
luật của mọi cơng dân.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn,
những quy định của pháp luật hiện hành về việc áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa trong TTHS, hiệu quả của công tác bào chữa cho bị cáo trong vụ án hình
sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
- Luận văn nghiên cứu về quyền của người bị buộc tội là cá nhân trong
TTHS Việt Nam. Trong đó, tập trung nghiên cứu sâu về người bị buộc tội là bị cáo
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Số liệu thu thập để phân tích, đánh giá
trong 05 năm (từ năm 2013 đến năm 2017). Phân tích, đánh giá một số hạn chế,
vướng mắc của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS với đặc thù của địa bàn tỉnh Điện
Biên và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị
cáo trong hoạt động tố tụng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
- Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, nghị quyết của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước về phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền con người,
quyền cơng dân;

- Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê...để làm rõ vấn đề bảo đảm quyền tự bào chữa và nhờ người khác
bào chữa của bị cáo trong TTHS Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề
lý luận bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS; có thể sử dụng làm tài liệu


6
tham khảo để nghiên cứu về quyền bào chữa, quyền con người và xây dựng pháp
luật về quyền của người bị buộc tội nói chung và của bị cáo nói riêng.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc học tập, nghiên
cứu liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự.
Trên cơ sở thực trạng và những tồn tại ảnh hưởng đến quyền bào chữa của
người bị buộc tội, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS, góp phần bảo đảm
quyền con người trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
7. Những điểm mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ khái niệm quyền con người, quyền của bị cáo, quyền bào chữa và
bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS.
- Những quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền bào chữa và bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo.
- Thực tiễn việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trên địa bàn tỉnh Điện
Biên và nguyên nhân của những hạn chế.
- Chỉ ra những hạn chế, bất cập về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
trong giai đoạn xét xử và thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong
TTHS Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng
cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trên địa bàn tỉnh Điện Biên.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về quyền bào chữa
Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và khơng thể tách rời
của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hịa
bình trên thế giới... Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên hợp quốc,
phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của
con người5. Theo đó, tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới đều có nghĩa vụ,
trách nhiệm tơn trọng và bảo vệ quyền con người. Theo xu thế phát triển của nhân
loại, quyền con người ngày càng được đề cao, các quốc gia ngày càng chú trọng và
có những chính sách bảo đảm quyền con người.
Ở Việt Nam hiện nay, việc bảo đảm nhân quyền - quyền con người là một
trong những chính sách quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Quyền bào chữa luôn trở thành nguyên tắc Hiến định và ngày càng phát triển
hoàn thiện, bảo đảm hơn. Bảo đảm quyền bào chữa là một phần trong chính sách
bảo đảm quyền con người.

Từ điển tiếng Việt định nghĩa bào chữa như sau: "Bào chữa là dùng lời lẽ,
chứng cứ để bênh vực một việc"6. Như vậy, bào chữa là việc một người dùng lý lẽ,
chứng cứ để bênh vực cho ai đó đang bị coi là phạm pháp hoặc bị lên án. Hay bào
chữa là gạt bỏ lý lẽ khác để chữa tội cho mình hoặc chữa cho người khác.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm bào chữa, quyền bào
chữa và người bào chữa, như:
PGS.TS. Phạm Hồng Hải cho rằng:
5

. Liên hợp quốc (1948), Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người, Lời nói đầu.
. Viện Ngơn ngữ học (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 133.

6


8
Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hòa các hành vi tố
tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ
sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn
bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ
trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự7.
PGS, TS. Hồng Thị Sơn đưa ra quan điểm: "Quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm
bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ"8.
Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam:
Quyền bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự là tổng hòa các
hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực
hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một
phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm
nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự 9.

Theo BLTTHS năm 2003 thì quyền bào chữa chỉ dành cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo chứ không dành cho những đối tượng tham gia TTHS khác và
quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội của các
cơ quan THTT hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đối
với việc bảo vệ các quyền và lợi ích khác của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không
trực tiếp liên quan tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án thì khơng thuộc về giới hạn của quyền bào
chữa. Tuy nhiên, khi thực hiện bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
vụ án thì người bào chữa cũng đồng thời giúp họ trong việc bảo vệ các quyền đó của
mình.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng là chịu sự buộc tội của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc buộc tội này thường gắn liền với việc áp
7

. Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 29-30.
8
.Hoàng Thị Sơn (2000), Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
Tạp chí Luật học, số 05.
9
. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.


9
dụng các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan có thẩm quyền. Việc phải chịu trách
nhiệm hình sự mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy không phải mọi trường
hợp buộc tội đến với người bị buộc tội đều chính xác mà vẫn cịn có những trường
hợp buộc tội oan, sai, mức hình phạt chưa phù hợp. Do vậy, quyền bào chữa thuộc về
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là yêu cầu khách quan, tất yếu trong hoạt động TTHS

nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn, khách quan, công bằng.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng thời điểm được tham gia bào
chữa của người bào chữa vào hoạt động tố tụng (tham gia sớm hơn so với BLTTHS
năm 2003), bảo đảm hơn về quyền bào chữa ngay từ khi bị giữ, bị bắt 10, ghi nhận
quyền bào chữa đầy đủ cho các đối tượng có khả năng bị hạn chế quyền và lợi ích,
đối mặt với sự nghi ngờ, khả năng bị buộc tội bởi các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, "Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa"11.
Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định các trường hợp bắt buộc phải chỉ
định người bào chữa đối với người bị buộc tội về tội mà BLHS quy định mức cao
nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình hoặc trong trường
hợp người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà khơng thể tự bào chữa, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi12.
Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, tồn
diện và đầy đủ, tránh để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội thì Hội đồng
xét xử (HĐXX) cũng cần có nhiều góc nhìn, hướng nhìn từ phía người buộc tội,
người gỡ tội,... thì việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội và đặc biệt là
bị cáo là hết sức cần thiết để có được một phán quyết khách quan, tồn diện, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật và khơng oan sai.
Như vậy, theo tôi, quyền bào chữa là tổng hợp các quyền năng TTHS của
người bị buộc tội, nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ

10

. Điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015.
. Điều 16 BLTTHS năm 2015.
12
. Khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm 2015.
11



10
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với họ, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của họ trong vụ án hình sự.
Qua sự phân tích trên cho thấy, quyền bào chữa trong TTHS Việt Nam ln
mang tính kế thừa và phát triển, tính kế thừa là nó luôn được ghi nhận là nguyên tắc
Hiến định và được cụ thể hóa trong pháp luật TTHS qua các thời kỳ, tính phát triển
là sau mỗi lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và pháp luật TTHS thì quyền bào chữa
luôn được ghi nhận và bảo đảm hơn.
Quyền bào chữa có những đặc điểm sau:
- Quyền bào chữa là nguyên tắc đặc thù, chỉ có trong pháp luật TTHS.
- Bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS Việt Nam, nó
chi phối tồn bộ q trình giải quyết vụ án từ bắt, giữ người có dấu hiệu tội phạm,
đến điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Nếu vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa ở bất kỳ giai đoạn nào đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng TTHS.
- Bảo đảm quyền bào chữa xác định trách nhiệm của các cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong phạm vi,
quyền hạn, trách nhiệm của mình phải tạo các điều kiện để người bị buộc tội thực
hiện các quyền của mình theo quy định của BLTTHS, ở mỗi giai đoạn, mỗi tư cách
thì người bị buộc tội đều có những quyền nhất định.
- Quyền bào chữa của người bị buộc tội bao gồm quyền tự bào chữa và
quyền nhờ người khác bào chữa cho mình.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong
tố tụng hình sư.
Theo quan điểm của tác giả thì "bảo đảm" nghĩa là "chắc chắn", là "khẳng
định thực hiện được", là việc tạo điều kiện để chắc chắn để thực hiện được một
việc, một vấn đề nào đó. Quyền là những việc mà một người được làm mà không bị
ai ngăn cản, hạn chế. Dưới góc độ pháp lý thì quyền là những việc mà một người
được thực hiện theo quy định của pháp luật trao cho, việc pháp luật trao những
quyền năng cho một chủ thể nhất định thì chủ thể đó được thực hiện và các chủ thể

khác không được phép ngăn cản, cản trở hay hạn chế.


11
Trong khoa học luật TTHS có nhiều quan điểm về chia ra các giai đoạn tố
tụng như: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; có nhiều quan điểm cho rằng các giai
đoạn tố tụng bao gồm cả giai đoạn thi hành án hình sự. BLTTHS năm 2015 quy
định: "Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo" 13.
Chính vì vậy theo quan điểm của cá nhân tác giả thì căn cứ vào các quy định của
BLTTHS năm 2015 và đứng trên quan điểm bảo đảm quyền bào chữa thì có thể chia
các giai đoạn tố tụng là: Khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Các giai đoạn này tương
ứng với từng tên gọi riêng của người bị buộc tội như:
Các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố thì người bị buộc tội được gọi là bị
can (khi có quyết định khởi tố bị can).
Giai đoạn xét xử người bị buộc tội được gọi là bị cáo (có quyết định đưa vụ
án ra xét xử).
Như vậy, bị cáo là ở trong giai đoạn cuối cùng của hoạt động TTHS tại mỗi
cấp tố tụng.
BLTTHS định nghĩa bị cáo như sau: "Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử" 14. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này thì
chỉ nghiên cứu bị cáo ở khía cạnh cá nhân, khơng đề cập đến pháp nhân. Như vậy
có thể khái niệm về bị cáo như sau: Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra
xét xử. Từ khi quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với một người bị buộc tội của Tịa
án có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội đó trở thành bị cáo - đây là giai đoạn
cuối cùng của một cấp tố tụng để quyết định một người có tội hay khơng có tội, nếu
có tội thì bị xử lý như thế nào.
Quyền bào chữa của bị cáo được thực hiện ở giai đoạn xét xử của vụ án
hình sự, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình từ khi có quyết định đưa vụ án
ra xét xử của Tịa án có thẩm quyền với quyền tự bào chữa và quyền nhờ luật sư
hoặc người khác bào chữa cho mình. Ở giai đoạn này, bị cáo và người bào chữa cho

họ có những quyền năng nhất định được quy định trong BLTTHS. Mọi quyền năng,
13
14

. Điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015.
. Khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015.


12
mọi hoạt động của người bị buộc tội và của người bào chữa ở các giai đoạn trước
khi xét xử đều để phục vụ ở giai đoạn xét xử, đây là giai đoạn có tính chất quyết
định mọi nỗ lực bào chữa nên nó đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS
là việc tạo những điều kiện theo quy định của pháp luật để người bị buộc tội thực
hiện được quyền bào chữa của mình, quyền nhờ người khác bào chữa và bảo đảm
quyền để người thân thích của người bị buộc tội yêu cầu hoặc nhờ người khác bào
chữa cho người bị buộc tội trong vụ án hình sự.
Và: Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS là việc tạo những
điều kiện theo quy định của pháp luật để bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa, quyền
nhờ người khác bào chữa của mình, quyền để người thân thích của bị cáo yêu cầu
nhờ người bào chữa cho bị cáo trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo
trong tố tụng hình sự
Việc quy định về bảo đảm quyền bảo chữa của bị cáo trong TTHS có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở pháp lý trong mọi hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan trong việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội nói
chung và của bị cáo nói riêng. Bởi pháp luật TTHS có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện
chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phịng ngừa, ngăn
chặn tội phạm, khơng để lọt tội phạm, khơng làm oan người vơ tội; góp phần bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo
dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm15. Chính vì vậy, để bảo đảm quyền được bào chữa của bị cáo trong vụ án hình
sự phải có căn cứ pháp luật, nên nhất thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật TTHS.

15

. Điều 2 BLTTHS năm 2015.


13

Quyền bào chữa là quyền cơ bản và đặc thù của người bị buộc tội, quyền
này luôn được ghi nhận và phát triển trong Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam qua các thời kỳ. Việc cụ thể hóa quyền bào chữa là nguyên tắc cơ
bản của pháp luật TTHS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mọi mặt. Cụ thể là: Việc
bảo đảm quyền bào chữa là điều kiện, là trách nhiệm của các cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng khi tiến hành các hoạt động tố tụng và là cơ chế để
cho bị cáo tự bảo vệ và được bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ án. Bảo đảm
quyền bảo chữa của bị cáo trong TTHS ln có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến thể
chế chính trị, chính sách pháp luật của Nhà nước ta, cụ thể là:
Thứ nhất, là cụ thể của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân
trong TTHS.
Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Đặc biệt, các thế lực phản động luôn lấy vấn đề nhân quyền để kích động nhân
dân, chống phá Đảng và Nhà nước. Hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển
mạnh mẽ về kinh tế - xã hội nhưng song song với đó Nhà nước ln chú ý tới việc
phát huy toàn diện quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo đảm quyền con người.

Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận quyền bào chữa của
người bị buộc tội và cơ chế bảo đảm thực hiện là nhiệm vụ, trách nhiệm của các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thể hiện sự tiến bộ, quan tâm của Nhà nước ta.
Thứ hai, quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo thể hiện tính
nhân đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tính nhân đạo được thể hiện trong những trường hợp theo quy định của
pháp luật. Ngoài việc bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
thì người thân thích của bị cáo cũng có quyền yêu cầu, nhờ người bào chữa cho bị
cáo. Nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng mời người bào
chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS) hoặc Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư
cử người bào chữa cho họ. Các trường hợp đó là: Người bị buộc tội về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình theo quy định


14

tại BLHS; bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất mà
khơng thể tự bào chữa hoặc là người có nhược điểm về tâm thần16.
Thứ ba, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo là biểu hiện của tính dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong hoạt động TTHS.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đã tạo điều kiện thuận lợi
cho người bị buộc tội có cơ hội đưa ra những chứng cứ minh oan hoặc làm giảm
nhẹ tội cho mình, cơ hội được tranh tụng bình đẳng trước Tồ án.
Việc ghi nhận nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam trong TTHS, việc ghi nhận nguyên tắc này đã tạo cơ sở pháp lý cho bị cáo
thực hiện việc phản biện, chứng minh hành vi của mình là vơ tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, tạo cơ sở pháp lý cho bị cáo thực hiện việc chứng minh, bào
chữa cho hành vi mình đã thực hiện, nhằm bác bỏ hoặc làm giảm nhẹ đi tính chất
mức độ của hành vi mà theo cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cho là
tội phạm.

Thứ tư, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo góp phần tích cực vào việc bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố lòng tin trong quần chúng nhân dân vào
hoạt động của hệ thống tư pháp.
Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật tố tụng ghi nhận nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa trong TTHS thể hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà
nước trong vấn đề bảo đảm quyền con người; góp phần bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của các cơ
quan tư pháp trong TTHS17.
Thứ năm, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo góp phần vào việc xác định
sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm trong q trình tố tụng khơng để lọt tội
phạm, khơng làm oan người vô tội, bảo đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.

16

. Khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm 2015.
. Bùi Bảo Trâm (2008), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người tạm giữ, bị can, bị cáo, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17


15
Việc ghi nhận nguyên tắc này còn là điều kiện để bảo đảm cho hoạt động
TTHS được khách quan, công bằng, dân chủ, giúp cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật, góp phần
hạn chế tình trạng làm oan người vô tội cũng như tránh bỏ lọt tội phạm. Sự tham gia
có hiệu quả của hoạt động bào chữa là cơ sở để nâng cao trách nhiệm của các cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xuyên suốt quá trình tố tụng, tác động
đến tinh thần trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

1.3. Nội dung bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự
Quyền bào chữa trong Hiến pháp năm 2013 được quy định trong nhóm
quyền cơ bản của cơng dân, quyền con người. Hiến pháp đã xác định rõ quyền bào
chữa là quyền con người, quyền công dân nên không chỉ cơ quan xét xử mà tất cả
các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có trách nhiệm tôn trọng và được
Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS cần có sự vào cuộc của
rất nhiều các chủ thể, các chính sách, các biện pháp. Cụ thể là:
Thứ nhất, về chủ thể bảo đảm quyền bào chữa và được bảo đảm quyền bào chữa.
- Chủ thể được bảo đảm quyền bào chữa đó là bị cáo. Ở bất kỳ giai đoạn tố
tụng nào, người bị buộc tội đều có quyền bào chữa, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử, bị
cáo được sử dụng quyền bào chữa bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người
khác bào chữa. Việc tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa là quyền đặc thù
của bị cáo, kể cả trong trường hợp người đại diện, người thân thích của bị cáo nhờ
người bào chữa cho họ, hoặc trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa thì
bị cáo vẫn có quyền chấp nhận, thay đổi hoặc từ chối người khác bào chữa cho
mình. Việc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trước hết và đầu tiên chính là do bị
cáo quyết định, đây là quyền mà không phải là trách nhiệm hay nghĩa vụ phải thực
hiện. Trong giai đoạn xét xử, bị cáo có thể sử dụng quyền bào chữa bất kỳ thời điểm
nào kể từ khi nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, tức là khi người bị buộc tội trở
thành bị cáo đến khi mở phiên tòa, tại thủ tục bắt đầu phiên tòa, bị cáo vẫn có quyền


16
đề nghị có người bào chữa, thay đổi hay từ chối người bào chữa. Khi bị cáo yêu cầu
có người bào chữa thì Tịa án phải tạo điều kiện để bị cáo có người bào chữa, nếu
Tịa án khơng chấp nhận và vẫn mở phiên tịa xét xử mà khơng có người bào chữa
là vi phạm nghiêm trọng tố tụng, bị cáo có quyền kháng cáo, khiếu nại đến cấp có
thẩm quyền và bản án sẽ bị hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Quyền
bào chữa là quyền tự quyết của bị cáo.

- Chủ thể có trách nhiệm phải bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo:
+ Tịa án, ở giai đoạn xét xử Tịa án có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo như: Thành phần những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật, phải thực sự vơ tư,
khách quan; đảm bảo phiên tịa được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo luật định;
đảm bảo nguyên tắc tranh tụng khi xét xử; đảm bảo cho bị cáo được thực hiện các
quyền của mình được pháp luật ghi nhận, trong đó có quyền bào chữa. Tịa án có trách
nhiệm giải thích về quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền được trợ
giúp pháp lý để bị cáo biết và sử dụng, khi bị cáo có nhu cầu nhờ người bào chữa thì
Tịa án có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ về thủ tục và tạo điều kiện cho người bào
chữa tham gia tố tụng để bào chữa cho bị cáo. Việc giải thích này được thực hiện
ngay khi Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, nghĩa là ngay khi người bị
buộc tội trở thành bị cáo. Trong thủ tục bắt đầu phiên tịa, Thẩm phán chủ tọa phiên
tịa có trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ cùa bị cáo theo quy định của pháp
luật TTHS, trong đó có quyền bào chữa. Nếu hồ sơ vụ án không thể hiện việc giải
thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo, không thể hiện việc bảo đảm quyền bào chữa
cho bị cáo là vi phạm về thủ tục tố tụng. Tòa án có trách nhiệm hồn thành thủ tục
đăng ký bào chữa cho người bào chữa và tạo điều kiện cho người bào chữa thực
hiện các quyền của mình theo quy định của pháp luật, như đọc, sao chép hồ sơ vụ
án, tiếp xúc với bị cáo, giao nộp chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa,...
+ Trại tạm giam, nhà tạm giữ: Đối với bị cáo bị tạm giam thì các cơ sở tạm
giữ, tạm giam bị cáo có trách nhiệm: Tư vấn cho bị cáo về quyền bào chữa của
mình, khi bị cáo có nhu cầu nhờ người bào chữa thì hướng dẫn về trình tự, thủ tục


17
nhờ người bào chữa và giúp đỡ họ chuyển yêu cầu nhờ người bào chữa đến cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc,
gặp gỡ, làm việc với bị cáo theo quy định.
+ Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan như: Đoàn Luật sư, tổ chức

hành nghề luật sư, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận, người đại diện, người thân thích của bị cáo
phải có trách nhiệm cử, phân cơng người bào chữa, nhờ người bào chữa cho bị cáo;
luật sư được bị cáo hoặc người đại diện, người thân thích của bị cáo nhờ bào chữa,
trợ giúp viên pháp lý hoặc bào chữa viên nhân dân được tổ chức cử để bào chữa cho
bị cáo có trách nhiệm thực hiện bào chữa cho bị cáo theo đúng quy định của pháp
luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp, sử dụng kiến thức, kỹ năng và mọi quyền năng
được pháp luật quy định để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo.
Khi bị cáo có nhu cầu nhờ người bào chữa mà chưa tìm được người bào chữa thì
Tịa án phải tạo điều kiện về thời gian, tư vấn, hướng dẫn bị cáo, người đại diện,
người thân thích của họ nhờ luật sư hay người khác bào chữa cho bị cáo.
Thứ hai, về cách thức bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo bằng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
Muốn vậy, xây dựng pháp luật cần đặc biệt chú trọng, quan tâm khi xây dựng chế định
về quyền bào chữa của người bị buộc tội. Các biện pháp cụ thể để bảo đảm quyền này
cần được quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật và chế tài
nghiêm khắc để xử lý đối với các cá nhân, tổ chức không thực hiện, cũng như hậu quả
của việc không bảo đảm quyền bào chữa (như vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng
mà không khắc phục được thì phải trả tự do cho người bị buộc tội). Ngoài việc xây
dựng hệ thống pháp luật thì cần chú trọng hồn thiện các văn bản hướng dẫn một
cách thống nhất để đảm bảo thi hành, tránh việc áp dụng tùy tiện, thiếu thống nhất.
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo bằng các hoạt động bào chữa hiệu quả.
Quyền bào chữa là một quyền đặc biệt quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến cuộc
sống, sự tự do, sinh mạng của người bị buộc tội, nên cần phải được bảo đảm. Khi
người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng biết được quyền này thì họ cần sử dụng


18
triệt để, hiệu quả để có thể tránh khỏi sự trừng phạt khơng đáng có của Nhà nước hoặc
giảm nhẹ được mức hình phạt theo luật định. Muốn vậy, cần đẩy mạnh các hoạt động

tư vấn pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật
trong nhân dân, đặc biệt là pháp luật TTHS. Cần có những quy định về điều kiện
tiêu chuẩn của người bào chữa nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
phát huy được hiệu quả thiết thực. Để bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa của
bị cáo thì nhất thiết phải chú trọng phát triển cả về số lượng và chất lượng người
bào chữa. Để làm được điều đó cần nâng cao tiêu chuẩn về chun mơn, nghiệp vụ,
quy tắc nghề nghiệp của người bào chữa và có chính sách để nâng cao thu nhập cho
người bào chữa, đặc biệt là ở những vùng lực lượng này còn mỏng, còn thiếu, còn yếu
nhằm thú hút lực lượng xã hội tham gia vào hoạt động bào chữa và nâng cao trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm đủ số lượng và chất lượng người bào chữa.
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo bằng sự khách quan, độc lập và trách
nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong tổ chức và
hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải đảm bảo
tính độc lập về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của từng cơ quan, từng người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đảm bảo hoạt động của họ không bị chi phối, sự tác
động của cấp trên, của các cơ quan, người có thẩm quyền khác điều chỉnh, can
thiệp, qua đó mới đảm bảo được sự công bằng trước pháp luật của mọi cơng dân,
trong đó có quyền bào chữa và kết quả giải quyết vụ án hình sự. Về phía các cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tịa án có trách nhiệm bảo
đảm cho người buộc tội biết và thực hiện các quyền của mình, trong đó có quyền
bào chữa. Ngay từ khi tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và các văn bản tố
tụng, Tịa án có trách nhiệm giải thích các quyền của bị cáo, đặc biệt là quyền bào
chữa; và khi bị cáo có nhu cầu nhờ người khác bào chữa thì Tịa án có trách nhiệm
hướng dẫn, giúp đỡ về thủ tục nhờ người khác bào chữa, đặc biệt là đối với bị cáo
đang bị tạm giam; Tòa án có trách nhiệm xem xét, chấp nhận hay khơng chấp nhận
đăng ký bào chữa theo quy định, sau khi chấp nhận đăng ký bào chữa thì Tịa án có
trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện các quyền của mình theo


19

quy định, tạo điều kiện cho việc tiếp cận hồ sơ vụ án để đọc, ghi chép, sao chụp;
gặp bị cáo đang bị tạm giam; tham gia phiên tòa... và các quyền năng khác theo quy
định của pháp luật. HĐXX có trách nhiệm theo dõi và phân tích, đánh giá kết quả
tranh luận tại phiên tòa giữa Kiểm sát viên và người bào chữa, xét hỏi, đối chiếu với
các chứng cứ khác để xem xét, đánh giá, giải quyết vụ án một cách chính xác, khách
quan, cơng bằng. Để xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự, cần thiết đầy
đủ các yếu tố, chứng cứ được đánh giá ở nhiều khía cạnh khác nhau, trên cơ sở đó
mới đánh giá, nhìn nhận tồn diện các tình tiết, chứng cứ của vụ án. Việc xác định
sự thật khách quan của vụ án sẽ không thể thực hiện được chính xác nếu chỉ nghe ý
kiến từ một phía buộc tội, bởi ý kiến mang tính chủ quan, nhìn nhận sự việc, hiện
tượng theo một hướng duy nhất nên sẽ dẫn đến cách nhìn nhận, đánh giá thiếu
khách quan, phiến diện, một chiều. Chính vì vậy, trong TTHS chức năng bào chữa
luôn tồn tại song hành cùng chức năng buộc tội và chức năng kiểm sát việc tuân
thủ, áp dụng và thi hành pháp luật. Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công
tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến tình trạng oan
sai trong hoạt động tố tụng, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bào chữa của người bị
buộc tội.
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo bằng các hoạt động nâng cao nhận
thức pháp luật của người tham gia tố tụng.
+ Cần quy định cụ thể và có chế tài nghiêm khắc đối với người tham gia tố
tụng, đặc biệt là đối với người làm chứng, người chứng kiến, người giám định,
người phiên dịch, đặc biệt chú trọng đến việc chuẩn hóa người phiên dịch tiếng dân
tộc thiểu số, vì các hoạt động của những người này có thể quyết định đến việc giải
quyết vụ án. Chính vì vậy, cần phải có quy định cụ thể về tiêu chuẩn, trách nhiệm và
chế tài khi tham gia tố tụng.
+ Cần nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, việc phổ biến và giáo
dục pháp luật trong nhân dân là việc làm hết sức cần thiết nhằm nâng cao nhận thức
và ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp



20
luật. Trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo thì cần đặc biệt quan tâm đến
việc nâng cao kiến thức pháp luật về TTHS, để khi người dân hay người thân thích
của họ trở thành người bị tình nghi, người bị buộc tội hay là bị cáo thì đã biết được
các quy định của pháp luật TTHS, biết được mình có những quyền và nghĩa vụ gì
để tự bảo vệ và nhờ người khác bảo vệ mình, cho người thân thích của mình. Hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật về TTHS cần đặc biệt quan tâm đến các đối
tượng như người dưới 18 tuổi, người đại diện, người thân thích của họ và người dân
tộc thiểu số thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, dân trí thấp - đây là những đối tượng dễ bị tổn thương, dễ bị lợi dụng
cũng như khả năng tự bảo vệ mình có phần hạn chế.
Như vậy, xuất phát từ u cầu bảo đảm quyền con người, quyền công dân
và thực tiễn thi hành pháp luật TTHS cho thấy tính cấp thiết của việc áp dụng triệt
để các quy định về bảo đảm quyền bào chữa trong hoạt động tố tụng.
Kết luận chương 1
Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS là nguyên tắc cơ bản nhằm
bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng trước pháp luật của cơng dân. Quyền
bào chữa là quyền cơ bản và đặc thù của người bị buộc tội, để bảo đảm quyền bào
chữa, cần có một hệ thống pháp luật TTHS hồn thiện và rất nhiều các điều kiện
mới có thể bảo đảm. Bên cạnh việc đưa ra các khái niệm về quyền bào chữa, bảo
đảm quyền bào chữa cho bị cáo thì nội dung Chương 1 cịn đi sâu phân tích các vấn
đề lý luận, thực tiễn trong việc bảo đảm quyền bảo chữa và đặc biệt là nội dung của
việc bảo đảm quyền bảo chữa. Trong đó tập trung nêu và phân tích các cơ chế, chủ
thể, phương pháp để bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo để góp phần bảo đảm tốt
nhất quyền bào chữa cho bị cáo nói riêng và cho người bị buộc tội nói chung.
Qua việc nghiên cứu hệ thống pháp luật về TTHS, đặc biệt là BLTTHS năm
2015 về các quy định nhằm bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo cho thấy sự quan
tâm, nỗ lực của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân và
chính sách nhân đạo của Nhà nước. Tuy nhiên, ngồi những điểm tiến bộ thì q

trình áp dụng pháp luật TTHS cũng gặp phải khơng ít những bất cập, vướng mắc


21
cần sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn cụ thể. Việc nghiên cứu mang tính lý luận và
thực tiễn sẽ là tiền đề cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS nói chung và
các chế định nhằm bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo nói riêng để hồn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.


×