Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Luận văn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 124 trang )




1




Luận văn
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn ở tỉnh Vĩnh Long



2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân từ trước đến nay luôn là vấn đề có tầm
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Như trong diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ
Bảy Ban chấp hành Trung ương (khóa X) của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh có
đoạn: “Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là nhiệm vụ chiến
lược của Đảng ta".
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác
định phát triển triển nông nghiệp và KTNT là nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu
để ổn định đời sống nhân dân, tạo điều kiện, cơ sở cho việc phát triển triển KT-XH và
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chính vì tầm quan trọng của nông nghiệp, nông thôn
nước ta như vậy, nên Đảng ta xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá,
hiện đại hóa đất nước” [15, tr.94].
Kinh tế nông thôn nước ta có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là
khu vực chiếm 72% dân số và 56,8% lao động của cả nước. Vì vậy, CDCCKTNT


để đẩy mạnh phát triển KTHH, xây dựng nông thôn mới là phù hợp với mục tiêu
vận động tiến tới một nền công nghiệp hiện đại; phù hợp với yêu cầu của thị trường
cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu sản phẩm, nâng cao hiệu quả của một nền
nông nghiệp hàng hoá lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Là một bộ phận hữu cơ của nông nghiệp cả nước, nông thôn tỉnh Vĩnh Long
chịu sự tác động và chi phối của quy luật chung trong quá trình CDCCKT. Kinh tế
nông thôn tỉnh Vĩnh Long, chủ yếu vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, với tiềm năng
phong phú, đa dạng của vùng sông nước ĐBSCL. Mặc dù trong những năm qua địa
phương đã đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế, văn hóa, xây dựng kết cấu
hạ tầng nông thôn…, góp phần ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, đặc
biệt là cư dân nông thôn. Tuy nhiên, nếu so với khu vực ĐBSCL và cả nước thì quá
trình CDCCKT của tỉnh còn chậm; nhiều tiềm năng, thế mạnh về kinh tế nông nghiệp
của địa phương chưa được khai thác đầy đủ và có hiệu quả. Do vậy, chuyển dịch cơ
cấu nông thôn theo hướng phát triển vững chắc, có hiệu quả; đẩy mạnh phát triển các
vùng sản xuất nông sản tập trung gắn với công nghiệp chế biến nông, thủy sản, khai



3
thác lợi thế sinh thái đặc thù của tỉnh sông nước đồng bằng để tạo ra khối lượng ngày
càng lớn, chất lượng ngày càng cao; gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn
mới văn minh hiện đại, là yêu cầu cấp bách của tỉnh Vĩnh Long hiện nay.
Tôi chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở tỉnh Vĩnh Long” để
viết luận văn thạc sỹ, là mong muốn góp phần luận giải vấn đề cấp thiết đang đặt ra nói
trên, mà trọng tâm là phân tích thực trạng CDCCKTNT ở tỉnh Vĩnh Long, từ đó đề
xuất phương hướng và giải pháp phù hợp để khai thác tối đa mọi nguồn lực, tiềm năng
và lợi thế so sánh của địa phương cho sự phát triển nhanh và bền vững trên con đường
CNH, HĐH đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, luận án TS, các bài

viết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn:
- Đề tài KX08 “Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn”.
- Hội thảo khoa học về “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam”
vào 2 ngày 22 và 23/11/1994, do Ủy ban kế hoạch Nhà nước và trường Đại học
kinh tế Quốc dân phối hợp tổ chức. Có 38 bài viết gửi đến hội nghị và được biên
soạn thành kỹ yếu khoa học: “Những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn Việt Nam” năm 1995.
- “Mấy vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vùng đồng
bằng sông Hồng” của Bạch Hồng Việt, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 4/1995.
- “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Lý luận và thực tiễn” do PGS.TS
Lê Đình Thắng chủ biên, Nxb nông nghiệp, Hà Nội 1998.
- Chuyển dịch cơ cấu sản xuất và lao động ở nông thôn miền Đông Nam Bộ
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh -
Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh (1997). Do TS. Hồ Trọng Viện chủ nhiệm đề tài.
- Nguyễn Thị Hiền (1996): Những yêu cầu đặt ra cho việc tiếp tục chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tạp chí Thông tin lý luận. Số 2, Hà Nội.
- Trần Ngọc Hiên (1998): Đặc điểm kinh tế - xã hội nông thôn nước ta trên
con đường phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạp chí Nghiên
cứu lý luận. Số 4, Hà Nội.
- Lê Quốc Khách (2000): Các giải pháp phát triển công nghiệp, thủ công
nghiệp nông thôn, Báo Nhân dân số 29 - 2.



4
- Vũ Xuân Kiều (1996): Những vấn đề có tính quy luật trong việc xác lập và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam, Kỷ yếu khoa học, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Long (1995): Thị trường - yếu tố quyết định tới quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 5, Hà Nội.
- Phạm Xuân Nam (chủ biên): Phát triển nông thôn. Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội 1997.
- Nông thôn Việt Nam sau 10 năm đổi mới. Thông tin tư liệu. Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996). Thông tin chuyên đề số 6.
- Chu Hữu Quý: Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn. Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1996.
- Lê Đình Thắng (chủ biên): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - những
vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 1998.
- Nguyễn Văn Tiêm (chủ biên) (1997): Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện dự
án điều tra khảo sát thực trạng và tìm giải pháp đối với hộ nông dân không có đất…
để sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Trung tâm tư vấn phát triển
nông nghiệp nông thôn.
- Ủy ban kế hoạch Nhà nước - Trường đại học quốc dân (1995). Kỷ yếu khoa
học: “Những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam”, Hà Nội.
- Hoàng Việt (chủ biên): Vấn đề sở hữu, sử dụng đất trong nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.
- Luận văn thạc sĩ của Phẩm An Ninh: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Đồng Nai - 1999.
- Luận văn thạc sĩ của Phạm Ngọc Dũng: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công -
nông nghiệp ở vùng đồng bằng Sông Hồng, thực trạng về giải pháp - 2001.
- Lê Quốc Sử. Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông
nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế kỷ
XXI trong “Thời đại kinh tế tri thức”, Nxb Thống kê, Hà Nội 2001.
- Lâm Quang Huyên: Nông nghiệp, nông thôn Nam Bộ hướng tới thế kỷ XXI,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2002.
- Luận văn thạc sĩ của Phạm Ngọc Dũng: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành công nông nghiệp ở vùng lãnh thổ đồng bằng Sông Hồng - Thực trạng và
giải pháp - 2002.




5
- Phạm Hùng: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn miền Đông Nam bộ theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nxb Nông nghiệp Hà Nội 2002.
Những tác phẩm và công trình khoa học trên đã đề cập trên các mặt:
- Vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.
- Vai trò tác động của quản lý Nhà nước, khoa học kỹ thuật, toàn cầu hóa
kinh tế đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta.
Những công trình, tác phẩm, bài viết của các nhà khoa học được đăng tải trên
đã đề cập, nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau; phân tích một cách sâu sắc về lý
luận và thực tiễn trên các mặt: khái niệm, đặc điểm, tính quy luật của xu hướng
chuyển dịch và những giải pháp để thúc đẩy CDCCKT nông nghiệp, nông thôn. Tuy
nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện có hệ thống về thực
trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy CDCCKTNT theo hướng CNH,
HĐH ở tỉnh Vĩnh Long.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng CDCCKTNT mà đề xuất
những định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình CDCCKTNT theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ:
+ Khảo sát tình hình phát triển kinh tế và thực trạng CDCCKTNT tỉnh Vĩnh
Long từ 2001 đến nay.
+ Phân tích, đánh giá và tìm nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong
quá trình CDCCKTNT tỉnh Vĩnh Long trong thời gian qua.

+ Đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy CDCCKTNT ở Vĩnh Long
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng CDCCKTNT trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long từ 2001 đến 2007, từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp
thúc đẩy CDCCKTNT ở Vĩnh Long từ 2008 đến 2020.



6
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chung của kinh tế - chính trị, cụ thể là:
- Đối với phần lý luận chung, phương pháp được sử dụng chủ yếu là tổng hợp,
phân tích các khái niệm hiện có, từ đó rút ra những nhận định và ý kiến tổng hợp.
- Đối với phần thực trạng, chủ yếu là dùng phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp các số liệu đã có sẵn từ đó rút ra kết luận chung.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa lý luận về vấn đề CDCCKTNT theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích, đánh giá về thực trạng CDCCKTNT ở tỉnh Vĩnh Long trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy CDCCKTNT ở tỉnh
Vĩnh Long đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.



7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN

Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu; địa bàn
nông thôn Việt Nam là nơi sinh sống, hoạt động của 72% dân cư cả nước. Nông thôn là
nơi cung cấp nông sản cho xã hội, là thị trường tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp và
dịch vụ, đồng thời là nơi cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu cho công nghiệp và dịch vụ.
Nông thôn càng phát triển, CCKT nông thôn chuyển dịch theo hướng tiến bộ, đời sống
vật chất và tinh thần khu vực nông thôn được cải thiện sẽ tạo điều kiện quan trọng để
thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Nghị quyết số 06 của Bộ
Chính trị ngày 10 - 11 - 1998 đã khẳng định: “Chuyển dịch CCKT nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH, tăng khối lượng sản phẩm hàng hoá, nhất là nông, lâm, thủy sản
qua chế biến, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng
tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong CCKT nông thôn” [2].
Để CDCCKTNT hợp lý, trước hết phải nhận thức được những lý luận cơ bản
về CCKT, CCKT nông thôn.
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN VÀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việc phát triển nền kinh tế có hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc
gia. Muốn đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải có một CCKT hợp lý xét trên góc độ
các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp thành
CCKT phải được thể hiện cả về số lượng cũng như về chất lượng và được xác định
trong những giai đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm tự nhiên, KT-XH cụ
thể của mỗi quốc gia (vùng, hoặc địa phương) qua từng thời kỳ.
Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh, bất biến, mà luôn vận động
chuyển dịch cần thiết, thích hợp với những biến động của điều kiện tự nhiên, KT-
XH. Do đó sự duy trì quá lâu hoặc thay đổi quá nhanh chóng của CCKT mà không
tính đến sự phù hợp với những biến đổi của tự nhiên, KT-XH đều có thể ảnh hưởng
đến hiệu quả của nền kinh tế. Vì vậy việc duy trì hay thay đổi CCKT không phải là

mục tiêu, mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu



8
kinh tế trong quá trình vận động chuyển dịch nhanh hay chậm không phụ thuộc vào
ý muốn chủ quan mà phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết cho sự chuyển đổi, sự
vận động và phát triển của LLSX xã hội, các mục tiêu KT-XH sẽ đạt được như thế
nào. Nói cách khác CCKT biến đổi chính là kết quả của quá trình phân công lao
động xã hội, CCKT phản ánh mối quan hệ LLSX và QHSX của nền kinh tế.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu: CCKT là tổng thể các bộ phận hợp thành kết
cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội. Các bộ phận đó
gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số
lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất định, phù
hợp với những điều kiện KT-XH nhất định nhằm đạt hiệu quả KT-XH cao [25, tr.5].
Khái niệm CCKT như nêu trên là khoa học tương đối toàn diện, đầy đủ các
bộ phận cấu thành, các mối quan hệ khắng khích giữa các bộ phận cấu thành.
Như vậy CCKT vừa mang tính khách quan, vừa mang tính lịch sử xã hội,
đồng thời luôn vận động và phát triển không ngừng, gắn với sự phân công lao động,
hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế.
Ta có thể hiểu trực diện hơn, CCKT là: mối quan hệ và tỷ lệ giữa các ngành
trong nền kinh tế (hoặc trong GDP), mối quan hệ giữa các vùng kinh tế, giữa các
thành phần kinh tế. Từ đó có thể hiểu CDCCKT là sự thay đổi tỷ trọng tương đối
của các ngành, các bộ phận của mỗi ngành trong nền kinh tế (hoặc trong GDP), sự
thay đổi vị trí, vai trò của các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân. Chuyển dịch CCKT là việc thay đổi cấu trúc nội tại và mối quan hệ giữa
các bộ phận hợp thành của nền kinh tế có hướng đến mục tiêu đã xác định.
1.1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông

nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể xem xét trên nhiều góc độ: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội … Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn
liền với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của
nền kinh tế về LLSX và QHSX, về cơ chế kinh tế … vừa có những đặc điểm riêng
gắn liền với nông nghiệp, nông thôn.
Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật; KTNT có thể bao gồm nhiều ngành kinh tế
như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ … trong



9
đó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Xét về mặt KT-
XH, KTNT cũng bao gồm nhiều thành phần kinh tế: KTNN, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân … xét về mặt không gian và lãnh thổ, KTNT bao gồm các vùng như: vùng
chuyên canh lúa, vùng chuyên cánh cây màu, vùng trồng cây ăn quả …
Nói cách khác: KTNT là một phức hợp những nhân tố cấu thành LLSX và
QHSX trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp
chế biến phục vụ cho nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và dịch vụ trên địa bàn
nông thôn. Tất cả các ngành đó đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế
vùng, lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ đó có thể hiểu: CCKT nông thôn là quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các lĩnh
vực kinh tế trên địa bàn nông thôn có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau, làm tiền đề cho nhau phát triển trong điều kiện tự nhiên - KT-XH, trong một
thời gian nhất định ở nông thôn. Cơ cấu kinh tế đó được thể hiện cả về mặt chất và
mặt số lượng. Cơ cấu KTNT có vai trò to lớn, ảnh hưởng chi phối đến đời sống vật
chất và tinh thần ở nông thôn [22, tr.491-492].
Như vậy, giữa các bộ phận của CCKT nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ không
tách rời theo những tỷ lệ về lượng cũng như về chất. Cơ cấu KTNT tồn tại khách quan
nhưng không bất biến, mà luôn biến đổi thích ứng với sự phát triển của LLSX và phân
công lao động xã hội trong từng thời kỳ. Việc xác lập CCKT nông thôn chính là giải

quyết mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của LLSX và QHSX, giữa tự nhiên với con
người trong khu vực nông thôn theo thời gian và những điều kiện KT-XH cụ thể.
Qua phân tích CCKT nông thôn như trên, ta thấy rằng: CDCCKTNT là sự thay
đổi cấu trúc nội tại và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của CCKT nông thôn
theo hướng tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn.
Trên thực tế CDCCKTNT là sự thay đổi tỷ trọng tương đối của các ngành,
các bộ phận của mỗi ngành, sự thay đổi vị trí, vai trò của các vùng kinh tế, các
thành phần kinh tế trong CCKT nông thôn. Cơ cấu KTNT là một bộ phận cấu thành
quan trọng trong CCKT quốc dân, do đó CDCCKTNT là một nội dung quan trọng
trong quá trình CDCCKT của mỗi quốc gia.
1.1.2.1. Đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế nông thôn
- Một là, tính khách quan: Cơ cấu KTNT hình thành và phát triển mang tính
khách quan, sự vận động và biến đổi CCKT nông thôn phụ thuộc vào trình độ phát



10
triển của LLSX và phân công lao động xã hội. Do vậy không thể áp đặt một cách chủ
quan, nóng vội một CCKT nào đó khi các điều kiện tự nhiên, KT-XH chưa đòi hỏi.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang bùng nổ,
việc ứng dụng cuộc cách mạng ấy, đặc biệt là công nghệ sinh học đã tạo ra nhiều
giống cây, con mới cho năng suất, chất lượng cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đang là
nhân tố tác động làm chuyển dịch mạnh mẽ CCKT và KTNT, tạo ra một cơ cấu mới ở
nông thôn có trình độ thích ứng rộng hơn và hiệu quả hơn.
Cơ cấu KTNT được hình thành và biến đổi mang tính khách quan, do đó đòi
hỏi con người phải nhận thức đầy đủ các quy luật (quy luật kinh tế và quy luật tự
nhiên), trên cơ sở đó mà xác lập, biến đổi và phát triển CCKT nông thôn sao cho
ngày càng hợp lý hơn và hiệu quả cao.
- Hai là, tính lịch sử - xã hội: CCKT nông thôn không bất biến mà luôn vận
động, biến đổi và chuyển dịch phù hợp với những điều kiện tự nhiên, KT-XH và

tiến bộ của khoa học, công nghệ. Sự biến đổi của các điều kiện trên, kéo theo sự
chuyển hoá, biến đổi các bộ phận kinh tế trong hệ thống KTNT, do đó cũng làm cho
CCKT nông thôn biến đổi, chuyển dịch theo để hình thành CCKT mới thay thế
CCKT cũ không còn phù hợp với thực trạng mà trước đây vốn đã phù hợp với chính
bản thân nó.
- Ba là, CCKT nông thôn luôn vận động và phát triển theo hướng ngày càng
hợp lý, hoàn thiện và hiệu quả: Việc xác lập CCKT nông thôn hợp lý trong một
không gian lãnh thổ nhất định có ý nghĩa rất to lớn, vì nó tạo ra hiệu quả KT-XH
cao. Tuy nhiên ngày nay phân công lao động xã hội đã vượt khỏi phạm vi quốc gia,
hình thành phân công lao động quốc tế, điều đó đòi hỏi xác định CCKT không chỉ
dựa vào các yếu tố nội lực, mà phải biết khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực bên ngoài. Vì vậy, việc lựa chọn cơ cấu hợp lý có hiệu quả trong điều kiện ngày
nay là phải biết kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp, tranh thủ
tối đa các nguồn vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý… của thế giới
để khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng, lợi thế so sánh của đất nước
nhằm đem lại hiệu quả KT-XH cao.
Ngoài những đặc trưng có tính chất chung trên, CCKTNT còn hình thành và
biến đổi phụ thuộc vào những đặc điểm về địa lý, điều kiện khí hậu, nông hóa thổ
nhưỡng, mật độ dân cư, phong tục tập quán, trình độ khoa học công nghệ….



11
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của CCKT nông thôn, cần phải nhận
thức đầy đủ và nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để đưa ra những giải pháp có hiệu
quả trong quá trình CDCCKTNT ở nước ta nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng.
Trong năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại bùng
nổ, đặc biệt là công nghệ sinh học đã làm thay đổi nhận thức trong phát triển kinh tế
và chuyển đổi CCKT nông thôn. Nhiều quan niệm mới đã xuất hiện như: nền nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch, phát triển công nghệ vi sinh … đã có ảnh hưởng

rất lớn đến chiến lược phát triển kinh tế và CDCCKTNT. Những ý tưởng công
nghiệp hoá nông nghiệp duy trì về mặt “ cơ khí, sắt thép” đã thất bại, để nhường
bước cho công nghiệp hoá nông thôn hài hoà hơn, ít ảnh hưởng đến môi trường sinh
thái hơn, đó là nền nông nghiệp sinh thái, nền nông nghiệp gắn bó và hài hoà giữa
kinh tế với môi trường tự nhiên và xã hội, đây cũng chính là định hướng phát triển
nền nông nghiệp bền vững.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản của cơ cấu kinh tế nông thôn
Cơ cấu KTNT gồm cơ cấu ngành kinh tế (nông nghiệp theo nghĩa rộng, công
nghiệp và dịch vụ), cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế.
* Cơ cấu ngành kinh tế:
Đây là nội dung diễn ra sớm nhất và đóng vai trò quyết định trong các nội
dung của CCKT nông thôn.
Trong lịch sử kinh tế của nhân loại ở thời kỳ đầu, KTNT chủ yếu là nông
nghiệp, về sau xã hội càng phát triển thì phân công lao động xã hội ngày càng cao,
tỉ mỉ nên sự phân chia các ngành nghề càng đa dạng, sâu sắc. Đặc biệt từ khi tiến
hành công nghiệp hoá thì CCKT nông thôn càng phân ngành nhanh chóng theo
hướng CNH, HĐH.
Phân công lao động càng sâu sắc thì cơ cấu ngành càng đa dạng và tỉ mỉ.
Tiền đề của phân công lao động xã hội là khi năng suất lao động trong nông nghiệp,
mà trước hết và chủ yếu là năng suất lao động trong khu vực sản xuất lương thực
đạt ở một trình độ nhất định, đảm bảo đủ số lượng và chất lượng lương thực cần
thiết cho xã hội, lúc này phân công lao động phát triển hơn nữa giữa người sản xuất
lương thực với người sản xuất nguyên liệu nông nghiệp và cả trong lĩnh vực chăn
nuôi… Đến đây ta thấy chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, hình thành một ngành mới
trong nông nghiệp.



12
Về vấn đề này C.Mác đã chỉ rõ: “Lao động nông nghiệp là cái cơ sở tự

nhiên… không phải chỉ riêng cho lao động thặng dư trong lĩnh vực của bản thân
ngành nông nghiệp, mà nó là cái cơ sở tự nhiên để biến tất cả các ngành lao động
khác thành những ngành độc lập” [34, tr.54].
Cùng với sự phân công lao động xã hội thì CCKT nông thôn cũng vận động
và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Khi năng suất lao động trong nông nghiệp
tăng lên, ngoài hoạt động trồng trọt và chăn nuôi, con người đã tìm kiếm và làm
thêm nhiều công việc khác như phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và đến
một trình độ nhất định đã tách thành một ngành sản xuất độc lập, đó chính là tiền
thân của ngành CNNT ngày nay.
Xã hội càng phát triển, phân công lao động xã hội càng cao, thì có một bộ
phận dân cư tách khỏi khu vực sản xuất (nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp)
chuyển sang lĩnh vực thương mại - dịch vụ để phục vụ cho nông nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, chính điều này thúc đẩy SXHH càng phát triển.
Đến đây, CCKT nông thôn đã hình thành đầy đủ các ngành: Nông nghiệp -
công nghiệp và dịch vụ, ở giai đoạn này CCKT nông thôn tuy đã hình thành đầy đủ
nhưng các ngành vẫn còn rất đơn điệu, sơ khai.
Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, cơ cấu ngành KTNT
ngày càng hoàn thiện hơn, sự hoàn thiện được thể hiện ở việc phát triển các ngành
chuyên sâu hơn.
Quá trình hoàn thiện cơ cấu ngành KTNT cũng chính là quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành của KTNT. Do vậy, để CCKT nông thôn chuyển dịch nhanh và
đúng hướng, cần phải nhận thức một cách sâu sắc và nắm bắt những quy luật vận
động khách quan của chúng để tác động đúng, có hiệu quả nhằm đạt được các mục
tiêu đã xác định.
- Ngành nông nghiệp:
+ Theo nghĩa rộng: Nông nghiệp là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá
trình sinh học gồm: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Do sự phát triển của
phân công lao động xã hội, nên các ngành này tương đối độc lập nhau, nhưng lại
gắn bó mật thiết nhau trên địa bàn nông thôn.
Là ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân, nên vừa chịu sự chi phối chung của

nền kinh tế quốc dân, vừa gắn bó chặt chẽ với các ngành khác trên địa bàn nông thôn,
đồng thời mang nét đặc thù của một ngành mà đối tượng sản xuất là những cơ thể sống.



13
+ Theo nghĩa hẹp: Nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi.
. Trồng trọt được phân ra: trồng cây lương thực, cây thực phẩm, cây công
nghiệp, cây thức ăn gia súc, cây ăn quả, cây dược liệu, cây cảnh …
. Chăn nuôi: chăn nuôi gia súc, gia cầm …
. Ngành lâm nghiệp: trồng và bảo vệ rừng, trồng cây phân tán, trồng cây lấy
gỗ, lấy cũi …
. Ngành thủy sản: bao gồm nuôi trồng và khai thác, đánh bắt thủy hải sản.
- Công nghiệp nông thôn:
Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp cả nước, là một bộ
phận cấu thành của kinh tế quốc gia.
Nói đến CNNT là đề cập đến các ngành nghề, các hoạt động kinh tế ngoài
nông nghiệp có tính chất công nghiệp ở nông thôn. Công nghiệp nông thôn là ngành
bao gồm:
Các hoạt động của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, các
doanh nghiệp, các HTX, tổ hợp tác, tổ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, các
hoạt động chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp khai thác khác với quy mô
vừa và nhỏ, hoạt động của nó gắn với kinh tế trên địa bàn nông thôn.
Công nghiệp nông thôn trước hết gắn chặt với sản xuất nông nghiệp, nó tạo
ra và cung cấp cho nông nghiệp công cụ và điều kiện để tiến hành các quy trình sản
xuất nông nghiệp; cung cấp cho nông nghiệp các máy móc, công cụ chăm sóc cây
trồng, vật nuôi, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu. Ngoài ra còn cung cấp các máy móc,
công cụ phục vụ thu hoạch, phơi sấy, bảo quản, sơ chế, chế biến, vận chuyển nông
sản [10, tr.14].
Công nghiệp nông thôn gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại với nông nghiệp và

phát triển KT-XH ở nông thôn.
Công nghiệp nông thôn bao gồm:
+ Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, có ý nghĩa vô cùng to lớn, là
nhân tố trực tiếp làm tăng giá trị nông sản hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị hiếu người
tiêu dùng, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, nâng cao hiệu quả
SXKD của ngành nông nghiệp, làm tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống cho
nông dân.



14
+ Sản xuất công cụ thường, công cụ cải tiến và sửa chữa máy móc trong
nông thôn, góp phần đổi mới kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động cho ngành nông
nghiệp. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, bên cạnh việc trang bị
ngày càng nhiều thiết bị máy móc hiện đại, nông nghiệp và nông thôn còn có nhu
cầu công cụ thường, công cụ cải tiến, máy móc làm những việc đơn giản, sửa chữa
máy móc … những bộ phận này do chính CNNT đảm nhiệm.
+ Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng về việc xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn như: Đường giao thông, thủy lợi,
nhà ở, nhà y tế, các công trình văn hoá, … đòi hỏi công nghiệp sản xuất vật liệu xây
dựng ở nông thôn phải không ngừng phát triển.
+ Ngoài ra CNNT còn có các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, các ngành nghề
truyền thống như: ươm tơ dệt lụa, đúc đồng, gốm sứ, sơn mài, mây tre đan, dệt
chiếu, thảm len, … những ngành nghề mới hình thành như đan thảm lục bình, tách
vỏ hạt điều … cũng không thể xem nhẹ trong quá trình phát triển của KTNT.
- Dịch vụ:
Đây là ngành kinh tế ra đời gắn liền với phân công lao động xã hội ở nông
thôn xét về mặt lịch sử thì nó là sản phẩm của ngành nông nghiệp và CNNT, nhưng
khi ra đời thì nó lại là bộ phận quan trọng gắn bó và tác động thúc đẩy cho ngành
nông nghiệp và CNNT nói riêng và KTNT nhanh chóng phát triển.

Dịch vụ nông thôn bao gồm: Ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, bưu điện, thông
tin liên lạc; cung ứng điện, nước và tiêu nước; sửa chữa máy móc và các công cụ
sản xuất; cung ứng giống cây trồng, giống gia súc, gia cầm; dịch vụ về phòng trừ
sâu bệnh cho cây trồng và khám chữa bệnh cho gia súc, gia cầm; dịch vụ làm đất,
vận chuyển, bảo quản, chế biến nông sản; du lịch vườn ở nông thôn; các hoạt động
dịch vụ y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao …
* Cơ cấu vùng kinh tế:
Phân công lao động xã hội theo ngành tất yếu kéo theo sự phân công lao
động xã hội theo lãnh thổ, đó là hai mặt của quá trình gắn bó hữu cơ với nhau. Bởi
lẽ phân công lao động xã hội theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng, lãnh
thổ nhất định.
Cơ cấu vùng kinh tế là sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trong
phạm vi cả nước. Trong mỗi quốc gia thường có những điều kiện tự nhiên, KT-XH



15
không giống nhau, vì vậy người ta thường chia lãnh thổ của mỗi quốc gia ra thành
nhiều vùng kinh tế khác nhau, mỗi vùng kinh tế có những điều kiện tự nhiên, KT-
XH tương đối giống nhau, để xác lập CCKT cho từng vùng một cách hợp lý, bố trí
các ngành sản xuất và dịch vụ trên từng vùng cho thích hợp, nhằm khai thác có hiệu
quả các tiềm năng và lợi thế vốn có của từng vùng. Tuy nhiên việc bố trí cơ cấu
ngành kinh tế trên từng vùng không khép kín, mà phải theo cơ cấu mở, có sự liên
kết giữa các vùng và đặt trong mối quan hệ gắn bó với CCKT của cả nước,đồng
thời hướng ra thị trường thế giới.
Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và nhu cầu của thị
trường, thì cơ cấu vùng kinh tế cũng có sự vận động và biến đổi theo cho phù hợp,
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Vì vậy xu hướng của chuyển
dịch cơ cấu vùng kinh tế là theo hướng đi vào chuyên môn hóa và tập trung hóa sản
xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung có hiệu

quả cao, mở rộng quan hệ với các vùng chuyên môn khác, gắn kinh tế vùng với
kinh tế cả nước. Điều này được Đảng ta khẳng định: “Chuyển dịch CCKT lãnh thổ
trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ
nhau làm cho tất cả các vùng đều phát triển” [14, tr.89].
Thực tiễn cho thấy, để hình thành cơ cấu vùng kinh tế hợp lý trong khu vực
KTNT, trước hết hướng vào khu vực có lợi thế so sánh, đó là những nơi có điều
kiện về đất đai tốt, thời tiết khí hậu ôn hòa, vị trí giao thông thuận lợi, gần trục giao
thông quan trọng, gần thành phố và khu công nghiệp, có điều kiện phát triển và mở
rộng giao lưu kinh tế với thị trường trong và ngoài nước, có khả năng tiếp cận và
hoà nhập nhanh chóng vào các thị trường và hàng hóa dịch vụ khác. Song cũng cần
thấy rằng: so với cơ cấu ngành kinh tế, thì cơ cấu vùng thường có tính trì trệ hơn, có
sức ỳ hơn, bởi vì việc xây dựng vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp (Nông
- lâm - thủy sản) cần phải được xem xét, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và thận
trọng, vì nếu mắc sai lầm thì khó khắc phục hơn, nhất là kinh tế, xã hội và môi
trường sinh thái.
* Cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu thành phần kinh tế ở nông thôn là thể hiện vị trí, vai trò, mối quan hệ
giữa các thành phần kinh tế trong nông thôn, cơ cấu thành phần kinh tế không phải



16
là một tập hợp giản đơn các thành phần kinh tế với nhau, mà cơ cấu ấy phải đảm
bảo được các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, phải đảm bảo cho KTNT phát triển đúng định hướng XHCN.
Hai là, cơ cấu phải hợp lý để sử dụng và khai thác tối đa các nguồn lực ở
nông thôn.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất
phát là một nước nông nghiệp lạc hậu, cho nên trình độ của LLSX rất thấp và phát
triển không đều, do vậy tất yếu sẽ tồn tại nhiều thành phần kinh tế.

Theo Lênin: Đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là nền kinh tế nhiều thành phần. Người chỉ rõ: các nước đi lên chủ nghĩa xã hội
phổ biến có 3 thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế XHCN, kinh tế tư bản chủ nghĩa và
kinh tế SXHH nhỏ.
Vận dụng tư tưởng kinh tế ấy của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đảng ta xác định : “Nền kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp, nông thôn tồn
tại lâu dài, mỗi thành phần có vị trí, vai trò riêng và đều được khuyến khích phát
triển theo định hướng XHCN” [2].
Do chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nữa phong
kiến nên tất yếu tồn tại những hình thức kinh tế mang tính xã hội hoá thấp như kinh
tế cá thể, tiểu chủ của những người nông dân, thợ thủ công, những người làm
thương mại- dịch vụ nhỏ trên địa bàn nông thôn.
Các thành phần kinh tế ở nông thôn tồn tại do yêu cầu giải phóng sức sản
xuất, khơi dậy và khai thác hết mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân nông thôn, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn.
Kinh tế nông thôn nước ta hiện có các thành phần kinh tế cơ bản sau: KTNN,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), …
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là một bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và



17
điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong

những động lực của nền kinh tế [16, tr.83].
+ Kinh tế nhà nước gồm: các DNNN ở nông thôn nước ta có nhiều hình thức
như: nông trường, lâm trường, công ty (trạm) thủy nông, các DNNN nuôi trồng
thủy sản, chế biến nông sản, thương nghiệp, dịch vụ nông nghiệp …
+ Kinh tế tập thể, nòng cốt là HTX ra đời và phát triển ở nông thôn. Kinh tế
tập thể ra đời là do yêu cầu nâng cao hiệu quả của sản xuất và đời sống của từng
thành viên. Kinh tế tập thể đảm đương những khâu mà từng hộ gia đình không có
khả năng làm hoặc làm kém hiệu quả. Vai trò của nó là góp phần tích cực vào quá
trình phát triển KT-XH ở nông thôn và xây dựng nông thôn mới ngày càng văn
minh hiện đại theo hướng công nghiệp và đô thị.
+ Kinh tế tư nhân gồm: Kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Đây là thành
phần kinh tế có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong phát triển nông nghiệp và
KTNT ở nước ta hiện nay. “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế” [16, tr.83].
Ngoài ra, hiện nay có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đang đầu tư vào
khu vực nông thôn, đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản. . .
1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM, XU HƯỚNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN
1.2.1. Những đặc điểm chung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Cơ cấu KTNT vừa mang tính khách quan vừa mang tính lịch sử - xã hội, do
vậy để CDCCKTNT đòi hỏi con người phải nhận thức và nắm bắt được các quy luật
vận động khách quan của chúng để tác động đúng, có như vậy mới tạo ra CCKT
hợp lý và hiệu quả. CDCCKTNT là quá trình tác động vào các bộ phận cấu thành
của chúng, làm cho chúng chuyển hoá từ cơ cấu cũ sang cơ cấu mới tiến bộ hơn.
Quá trình đó đòi hỏi phải có thời gian và phải trải qua những nấc thang của sự phát
triển từ thấp đến cao. Đó cũng là quá trình thay đổi về lượng để dẫn đến sự thay đổi
về chất. Quá trình CDCCKTNT diễn ra nhanh hay chậm còn phụ thuộc rất lớn vào
yếu tố con người, đặc biệt là cơ chế, chính sách và những giải pháp tác động. Vì




18
vậy, cần phải nắm rõ những đặc điểm chung của quá trình CDCCKTNT, mà bất kỳ
nước nào từ nền kinh tế tiểu nông lạc hậu chuyển sang nền kinh tế công nghiệp
cũng phải trải qua để có hướng tác động cho phù hợp.
- Một là: Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế của Walt Rostow (còn gọi là lý
thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế).
Theo ông quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ nước nào cũng đều phải trải
qua các giai đoạn tuần tự: Xã hội truyền thống, giai đoạn chuẩn bị cất cánh, giai
đoạn trưởng thành, giai đoạn mức tiêu dùng cao. Khi chuyển từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác trong quá trình phát triển thì CCKT cũng có sự thay đổi nhất định,
đó chính là sự CDCCKT. Quá trình phát triển của nền kinh tế luôn gắn với sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Dưới sự tác động của khoa học, công nghệ mà xã
hội nông nghiệp truyền thống bắt đầu phát triển, nền kinh tế từng bước hiện đại hóa
và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Cùng với sự phát triển của các ngành
kinh tế thì cơ cấu lao động cũng thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ lệ lao động có
trình độ chuyên môn tay nghề cao và tỷ lệ dân cư đô thị.
- Hai là: Lý thuyết nhị nguyên của A.Lewis (hay còn gọi là mô hình kinh tế
hai khu vực của A.Lewis ).
Trong lý thuyết của mình, ông chia nền kinh tế thành hai khu vực kinh tế
song song tồn tại:
+ Khu vực truyền thống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
+ Khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại.
Trong hai khu vực, thì khu vực truyền thống có đặc điểm là trì trệ, năng suất
lao động thấp, còn khu vực công nghiệp có vốn, có công nghệ và có điều kiện để tăng
trưởng cao. Vì thế có thể chuyển một phần lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu
vực công nghiệp hiện đại. Việc di chuyển lao động đã làm cho số lượng lao động trong
nông nghiệp ngày càng giảm, nhưng sản lượng không giảm và sau đó người lao động
trong nông nghiệp có điều kiện đầu tư nâng cao năng suất lao động. Để tăng hiệu quả
trong sự tác động qua lại giữa hai khu vực, cần kết hợp việc giảm tốc độ tăng dân số và

quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong quá trình CDCCKT.
- Ba là: Lý thuyết mô hình kinh tế hai khu vực của Harry.T.Oshima.
T.Oshima là một nhà kinh tế học Nhật bản, ông đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hai
khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước Châu Á, Châu Mỹ. Qua



19
nghiên cứu ông thấy rằng: Nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao, vào thời
gian cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao động, nhưng lại dư thừa
trong lúc nhàn rỗi.
Từ đó T.Oshima cho rằng: Sự phát triển của nền kinh tế bắt đầu bằng việc
giữ lao động trong nông nghiệp nhưng cần tạo thêm nhiều việc làm trong những
tháng nhàn rỗi. Tiếp đó là sẽ sử dụng lao động nhàn rỗi vào các ngành sản xuất
công nghiệp cần nhiều lao động, khi tạo ra việc làm trong những tháng nhàn rỗi sẽ
tăng thu nhập cho người nông dân, mở rộng thị trường trong nước cho các ngành
công nghiệp và dịch vụ. Khi thị trường lao động không còn dồi dào thì sản xuất
nông nghiệp sẽ chuyển dần sang cơ giới hoá để tăng năng suất lao động.
Như vậy, các lý thuyết phát triển kinh tế trên đều có điểm chung là đều
khẳng định sự phát triển kinh tế cần phải thông qua quá trình CDCCKT ngành. Sự
CDCCKT ngành bao giờ cũng bắt đầu từ khu vực sản xuất truyền thống của xã hội
là sản xuất nông nghiệp, theo quy luật tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp trong cơ
cấu GDP giảm dần (mặc dù số tuyệt đối vẫn tăng lên), còn tỷ trọng của ngành công
nghiệp, thương mại - dịch vụ sẽ tăng dần (cả số tuyệt đối lẫn tương đối đều tăng).
Cơ cấu lao động cũng sẽ thay đổi phù hợp với xu hướng trên là tỷ trọng lao động
trong nông nghiệp giảm dần cả về số tương đối lẫn tuyệt đối, tỷ trọng lao động
trong các ngành công nghiệp và thương mại- dịch vụ tăng lên cả về số tương đối lẫn
tuyệt đối.
Do vậy, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc chuyển dịch phát triển CCKT nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế quốc

dân nói chung. Nó là xuất phát điểm của quá trình CDCCKT của mỗi quốc gia.
Quá trình CDCCKTNT có những đặc điểm chung như sau:
1.2.1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn bắt đầu từ sự chuyển dịch
của cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Xét toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quá trình phát triển của ngành nông nghiệp
đã dẫn đến chuyển dịch cơ cầu sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy sự ra đời và phát
triển các ngành khác, đồng thời đây cũng là quá trình hội nhập của ngành nông
nghiệp vào toàn bộ nền kinh tế thông qua các quan hệ thị trường.
Nội dung cơ bản của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là quá trình
chuyển đổi nền nông nghiệp từ TT,TC sang nền SXHH, tức sang sản xuất



20
chuyên canh gắn với nhu cầu của thị trường. Quá trình này được chia thành ba
giai đoạn sau:
+ Giai đoạn một: Đó là nông nghiệp sinh tồn, quy mô nhỏ của nông dân
chiếm ưu thế. Cơ cấu nông nghiệp có tính thuần nông với mục tiêu sản xuất tự
cung, tự cấp mà chủ yếu là sản xuất lương thực.
+ Giai đoạn hai: Đặc trưng của giai đoạn này là quá trình đa dạng hoá sản
xuất nông nghiệp, nghĩa là ngoài sản xuất lương thực còn phát triển các cây trồng
khác và chăn nuôi. Một yếu tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
là việc áp dụng công nghệ mới của nông dân đã xuất hiện.
+ Giai đoạn ba: Đặc trưng chủ yếu của nền nông nghiệp trong giai đoạn này
là nền nông nghiệp thương mại, chuyên môn hoá với quy mô sản xuất lớn, với các
trang trại chuyên môn hoá cao.
Như vậy, quá trình CDCCKTNT gắn liền với sự chuyển dịch của cơ cấu sản
xuất nông nghiệp, mà điểm bắt đầu là từ sự chuyển dịch của cơ cấu sản xuất nông
nghiệp với ba giai đoạn như trên. Ba giai đoạn trên gắn liền với sự phát triển của
ngành công nghiệp và quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân.

1.2.1.2. Quá trình phát triển của sản xuất nông nghiệp thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn
Quá trình CDCCKTNT diễn ra theo quy luật là tỷ trọng của ngành nông
nghiệp giảm xuống và tỷ trọng của các ngành phi nông nghiệp tăng lên trong cơ
cấu. Chính sự phát triển ngày càng đa dạng hoá trong sản xuất nông nghiệp là cơ sở
thúc đẩy CDCCKTNT. Khi năng suất lao động trong ngành nông nghiệp tăng lên,
ngoài hoạt động trồng trọt và chăn nuôi, con người đã tìm kiếm và làm thêm nhiều
công việc khác như phát triển nghề thủ công và đến một trình độ nhất định đã tách
thành một ngành sản xuất độc lập (tiền thân của CNNT ngày nay). Quá trình phát
triển của nông nghiệp và công nghiệp, đòi hỏi phải có sự trao đổi lẫn nhau, do đó có
một bộ phận dân cư tách khỏi sản xuất chuyển sang lĩnh vực lưu thông trao đổi
hàng hoá và hình thành ngành thương mại - dịch vụ ở nông thôn.
Như vậy, quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn. Đó cũng chính là quá trình
CDCCKTNT, đồng thời cũng là quá trình CNH, HĐH nông thôn. “Công nghiệp



21
hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình CDCCKTNT theo hướng tăng nhanh tỷ
trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ
trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp …” [15, tr.93-94].
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng: sự phát triển của nông nghiệp chỉ là tiền đề,
điều kiện ban đầu cho sự phát triển các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn mà thôi,
bởi sự phát triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn còn phụ thuộc và chịu
sự chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau như: tính đặc thù của từng địa phương, từng
quốc gia hay điều kiện tự nhiên, KT-XH khác chi phối. Do vậy CDCCKTNT theo
hướng tiến bộ hơn, đòi hỏi phải có nhân tố chủ quan của con người tác động vào
các nhân tố khách quan đó (cải biến điều kiện tự nhiên, KT-XH).
Phát triển các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn đã góp phần quan trọng

cho sự phát triển KTNT, tăng thu nhập, tạo việc làm cho lao động nông thôn. Điều
này càng có ý nghĩa hơn với điều kiện của Việt Nam khi bình quân đất nông nghiệp
thấp, lao động nông thôn dư thừa nhiều, công nghiệp đô thị chưa phát triển…Thực tế
cho thấy: Việc phát triển các ngành nghề ở nông thôn như là một giải pháp hữu hiệu,
ngăn chặn làn sóng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị. Song vấn đề cơ bản là
cần phải xem xét kỷ khi lựa chọn phương án phát triển các ngành phi nông nghiệp ở
nông thôn, trong đó có CNNT phải hết sức thận trọng, nhằm đảm bảo phát triển hài
hoà giữa ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái, đó cũng chính là sự phát
triển bền vững mà mỗi quốc gia đang hướng tới.
1.2.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn gắn liền với việc thay đổi tổ
chức sản xuất ở nông thôn, thay đổi mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong
sản xuất kinh doanh ở nông thôn, đặc biệt là mối quan hệ giữa hộ nông dân với
các chủ thể khác ở nông thôn
Về tổ chức sản xuất ở nông thôn phải theo hướng ngành chuyên sâu. Chẳng
hạn, trong sản xuất nông nghiệp, sau khi tách thành trồng trọt và chăn nuôi thì
hướng hoàn thiện của ngành sản xuất nông nghiệp là ngành trồng trọt giảm dần tỷ
trọng trong cơ cấu, còn ngành chăn nuôi tăng dần tỷ trọng, nhưng theo quy luật thì
số tuyệt đối của ngành trồng trọt lẫn ngành chăn nuôi đều phải tăng. Sự phát triển
tiếp theo là việc thay đổi cơ cấu cụ thể trong từng ngành. Trong ngành nông nghiệp
ngoài trồng cây lương thực, thực phẩm sẽ xuất hiện thêm những cây trồng phù hợp



22
với điều kiện từng vùng để đáp ứng nhu cầu của thị trường như cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây dược liệu … hoặc sản phẩm mà thị trường không có nhu cầu thì có
thể sẽ không tồn tại trong cơ cấu sản xuất. Ngành chăn nuôi cũng sẽ thay đổi theo
hướng đó. Nói khác hơn, sự thay đổi tổ chức sản xuất ở nông thôn theo hướng sản
xuất gắn với thị trường.
Mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất ở nông thôn được mở

rộng hơn, không còn bó hẹp ở địa bàn thôn, xóm mà đặt trong quan hệ kinh tế cả
với nước và thế giới, giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình phát
triển, đặc biệt là sự phối hợp, sự hợp tác của bốn nhà: Nhà nước, nhà nông, nhà
khoa học và nhà doanh nghiệp, làm cho sản xuất có hiệu quả hơn.
1.2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và các nhân tố
ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
1.2.2.1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Mỗi một quốc gia có những điều kiện tự nhiên, đặc điểm KT-XH khác nhau,
nhưng mọi quốc gia đều rất coi trọng việc phát triển sản xuất nông nghiệp và KTNT
trong mỗi bước đi của chiến lược phát triển KT-XH của mình. Có thể khái quát lại,
quá trình CDCCKTNT diễn ra theo các xu hướng sau đây:
- Một là: CDCCKTNT theo hướng phát triển SXHH.
Do nhiều yếu tố khác nhau chi phối nên sản xuất nông nghiệp và KTNT
thường mang tính chất TT,TC trong một thời gian khá dài. Song trong quá trình
phát triển KT-XH của các quốc gia, việc CDCCKTNT theo hướng phát triển SXHH
là tất yếu, do sự phát triển của LLSX và phân công lao động xã hội quyết định.
Thực tiễn của nước ta cũng như nhiều nước cho thấy: Quá trình phát triển
của nền kinh tế đã thúc đẩy các ngành kinh tế ở khu vực nông thôn tăng dần tỷ
trọng sản phẩm hàng hoá để phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong và ngoài
nước. Sản xuất nông nghiệp phát triển sẽ làm cho CCKT biến đổi, không chỉ đảm
bảo nhu cầu ngày càng tăng của bản thân ngành nông nghiệp mà còn đáp ứng nhu
cầu lương thực, thực phẩm của các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng trên cơ
sở các quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Nông nghiệp sẽ cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, ngược lại nông nghiệp cần công nghiệp cung cấp máy móc, phân
bón, thuốc trừ sâu … chính sự tác động qua lại đó làm cho cơ cấu sản xuất trở nên



23
đa dạng hơn, tỷ suất hàng hoá ngày càng cao hơn, đặc biệt nền KTHH càng phát

triển cao càng đòi hỏi phải gắn bó hơn với nền kinh tế thế giới.
- Hai là: Chuyển nền nông nghiệp độc canh cây lúa sang đa canh.
Do yêu cầu của thị trường ngày càng đa dạng, nên sản xuất nông nghiệp
không thể chỉ tập trung sản xuất lương thực, mà phải đẩy mạnh sản xuất các cây
trồng, vật nuôi khác hết sức đa dạng. Hơn nữa xã hội càng phát triển, việc tiêu dùng
không chỉ có lương thực, mà còn cả thịt, cá, trứng, sữa, rau quả, các đồ uống… do
vậy việc độc canh cây lúa không còn phù hợp với nhu cầu của thị trường trong hiện
tại lẫn tương lai, tất yếu phải phá thế độc canh trong nông nghiệp, đa dạng hoá cây
trồng, vật nuôi để tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng được nhu cấu ngày càng tăng của
xã hội [40, tr.51].
- Ba là: Cơ cấu KTNT chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH và phát triển các
ngành phi nông nghiệp.
Đi từ sản xuất nông nghiệp (sản xuất nhỏ) lên sản xuất công nghiệp (sản xuất
lớn) tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đang bùng nổ, nên công nghiệp hoá tất yếu phải gắn liền với cuộc cách
mạng đó, có nghĩa là công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Chính quá trình
CNH, HĐH đã ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến quá trình CDCCKT nói chung và
CCKT nông thôn nói riêng.
Theo quy luật, trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp từng bước cũng
sẽ tự hình thành cơ cấu của chính mình, nhưng tự nó vận động phát triển sẽ rất
chậm và mất khá nhiều thời gian. Do vậy, để việc hình thành CCKT một cách hợp
lý và có hiệu quả ở nông thôn cần phải có sự tác động, hỗ trợ của công nghiệp.
Bằng con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ nhanh chóng tạo thêm các
ngành mới - phi nông nghiệp, đó là ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó làm
chuyển đổi KTNT từ thuần nông sang phát triển đa ngành: nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ. Chính quá trình CNH, HĐH sẽ tác động mạnh mẽ đến CCKT
nông thôn, làm chuyển đổi cơ cấu giữa ngành nông nghiệp và công nghiệp; đồng
thời làm cho ngành dịch vụ dần được mở rộng và phát triển đáp ứng nhu cầu của
sản xuất và đời sống. Sự phát triển của KTNT với xu hướng ngành công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng lên và tỷ trọng ngày càng lớn trong CCKT nông thôn thì lao

động nông nghiệp ngày càng giảm đi cả tương đối và tuyệt đối [54, tr.41].



24
Cùng với quá trình CNH, HĐH, phân công lao động xã hội ở nông thôn sẽ
diễn ra theo hướng hoà nhịp với sự CDCCKTNT. Nghĩa là sự phân công lao động xã
hội được diễn ra đồng thời từ trong nội bộ ngành nông nghiệp và cả khu vực nông thôn.
Từ cơ cấu sản xuất chủ yếu là lúa sang trồng lúa, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp,
chăn nuôi … mở rộng ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và phát triển các dịch vụ để
phục vụ cho phát triển nông nghiệp và CNNT, đồng thời gắn kết sự giao lưu kinh tế giữa
nông thôn và thành thị.
Quá trình CNH, HĐH nông thôn làm cho CCKT nông thôn chuyển dịch theo
hướng: giảm tỷ trọng sản phẩm và lao động trong sản xuất nông nghiệp (số lượng
tuyệt đối của sản phẩm vẫn tăng, còn số lượng tuyệt đối và tương đối của lao động
giảm). Sự dịch chuyển ấy hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan, phù hợp quá
trình CNH, HĐH nông thôn. Vì nông nghiệp là ngành sản xuất ra các sản phẩm tiêu
dùng thiết yếu cho xã hội, khi năng suất lao động tăng lên thì mới có một bộ phận
lao động dôi ra và chuyển sang làm những ngành phi nông nghiệp, do vậy nếu
không có kế hoạch hợp lý để phát triển các ngành phi nông nghiệp - công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn, thì số lao động dôi dư này sẽ di chuyển ra đô thị đi vào các
khu công nghiệp tập trung và các trung tâm thương mại, từ đó rất dễ dẫn đến thiếu
lao động trong nông nghiệp, nông thôn, làm cho KTNT không phát triển được.
Phát triển CNNT để khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ, phát triển các làng
nghề, thương mại - dịch vụ ở nông thôn nhằm giải quyết việc làm và tăng thu nhập
cho lao động ở nông thôn, thực hiện phương châm “ly nông nghiệp bất lý hương”
và tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo, từng bước xác lập CCKT
“nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ” trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển
triển nền nông nghiệp sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo của
công nghiệp và đô thị.

- Bốn là: CDCCKTNT theo hướng phát triển triển kinh tế trang tại gia đình
và HTX.
Cùng với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, CCKT nông thôn sẽ
chuyển dịch theo hướng xuất hiện ngày càng nhiều trang trại gia đình, các HTX kiểu
mới ngày càng tăng lên với nhiều hình thức đa dạng, tỷ trọng các DNNN giảm xuống.
Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, tồn tại khách quan và phù hợp với đặc
thù của ngành nông nghiệp - ngành sản xuất gắn liền với quá trình sinh học, có vai



25
trò, vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển triển nông nghiệp và KTNT.
Trong những năm qua nhờ tập trung đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, làm cho KTNT phát triển, đời sống dân cư nông thôn không ngừng được
cải thiện. Cùng với quá trình ấy, một bộ phận nông dân làm ăn giỏi mạnh dạng mở
rộng quy mô làm ăn, hình thành nhiều trang trại kinh tế gia đình, đây là xu thế
khách quan của quá trình CDCCKTNT từ thuần nông sang sản xuất và kinh doanh
đa dạng, tổng hợp.
Trong quá trình phát triển, KTNT tất yếu phải có những hình thức kinh tế
hợp tác thích hợp (nồng cốt là các HTX), những HTX trước đây hình thành không
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong KTNT, sẽ tự tiêu vong và những
chỗ cho những HTX kiểu mới ra đời và phát triển ngày càng tăng về tỷ trọng và đa
dạng về hình thức.
Kinh tế tập thể phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác rất đa dạng, trong đó
nồng cốt là các HTX, HTX hoạt động ở những khâu mà hộ gia đình không có khả
năng làm, hoặc làm kém hiếu quả. Sự hình thành và hoạt động có hiệu quả của các
HTX trong các ngành nghề ở nông thôn, sẽ góp phần tích cực vào việc giải quyết
những vấn đề sản xuất và đời sống cho dân cư nông thôn, góp phần thúc đẩy KT-
XH nông thôn phát triển.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang bùng nổ, cùng với sự

hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế nước ta vào kinh tế thế giới, đòi hỏi bộ phận
nông dân cá thể, sản xuất manh mún, nhỏ lẽ phải hợp tác lại với nhau để tồn tại và
phát triển; việc ứng dụng những công nghệ hiện đại mang lại hiệu quả kinh tế rất
cao, nhưng từng hộ nông dân sản xuất nhỏ khó có khả năng về vốn để trang bị
những thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại, cũng như quản lý và sử dụng những
công nghệ ấy, mà cần có sự hợp tác, liên kết tạo ra sức mạnh mới cho sự phát triển.
Hơn nữa sự cạnh tranh ngày nay mang tính quốc tế, do tính khắc khe của thị trường
đòi hỏi đối với từng sản phẩm ngày càng cao, buộc các hộ nâng dân phải hợp tác để
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Sự hợp tác có thể diễn ra giữa các trang trại với
nhau, giữa các trang trại với các hộ nông dân, hoặc giữa những hộ nông dân với nhau,
để cùng tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động SXKD. Do vậy, mà kinh
tế tập thể không ngừng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng.

×