Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Nội dung báo cáo thực tập cho sinh viên ngành luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.61 KB, 17 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP “ VAI TRÒ LUẬT SƯ TRONG BẢO VỀ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ
THỰC TIẾN TẠI CƠNG TY LUẬT”
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta có đầy đủ lý do để khẳng định rằng nghề Luật sư là một nghề cao
quý trong xã hội và càng được tôn vinh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Hoạt động Luật sư là một nghề không thể thiếu trong xã hội nhưng đó khơng
phải là nghề bình thường. Sự cần thiết của nghề Luật sư trước hết để bảo đảm thực
hiện một trong các quyền Hiến định của cơng dân, đó là quyền được bào chữa,
quyền được bảo vệ khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 7 điều 103 “ Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.”
Trong Luật luật sư thay thế cho pháp lệch luật sư năm 2001 có thể thấy có sự
yêu cầu rất cao và cũng có thể nói đã nâng tầm của người luật sư về địa vị pháp lý
trong xã hội “Luật sư góp phần bảo vệ cơng lý, các quyền tự do, dân chủ của cơng
dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.” ( Quy định tại điều 3 Luật luật sư năm 2012).
Như vậy, có thể nói rằng vấn đề tạo điều kiện phát triển hoạt động luật sự
được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Trong những năm qua hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta đã có nhiều tiến
bộ. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay chất lượng cơng tác, tư pháp nói chung
chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, có nhiều trường hợp bỏ lọt
tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của nhân dân và
công dân.
Những tồn tại, khuyết điểm nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết
do trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng
chưa được nâng cao. Vai trò của những người tham gia tố tụng hình sự trong đó có
luật sư bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo chưa đúng
tầm đòi hỏi của nhân dân. Pháp luật tố tụng hình sự nói chung, chế định luật sư


trong tố tụng hình sự nói riêng chưa hồn thiện và cịn nhiều sơ hở. Cơng tác xây
dựng, giải thích, hướng dẫn và tun truyền phổ biến pháp luật trong đó có pháp
luật tố tụng hình sự có nhiều bất cập hạn chế. Cơng tác nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn về hoạt động luật sư cịn chưa nhiều.
Với ý nghĩa đó, em thấy cần thiết chọn đề tài: “Vai trò của Luật sư
trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong Tố tụng


Hình Sự từ thực tiễn tại Cơng ty Luật TNHH Tiến Minh”. Làm báo cáo
thực tập với mong muốn đóng góp ý kiến của mình làm rõ hơn địa vị pháp
của luật sư, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phù hợp với tình
hình mới. Đồng thời đề xuất những giải pháp hữu ích, thiết thực nhằm góp
phần hồn thiện chế định luật sư, pháp luật tố tụng hình sự và những biện
pháp hữu ích nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động bào chữa cho bị can, bị
cáo của luật sư trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo và vị trí của Luật sư trong tố
tụng hình sự Việt Nam.
2.1 Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là nguyên tắc, hiến định trong tố
tụng hình sự . Tại khoản 7 điều 103 Hiến Pháp năm 2013 quy định “Quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo
đảm.”. Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hoá trong các điểm h điều 60,
điểm g điều 61và các điều khác trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở đó, pháp luật tố
tụng hình sự quy định các quyền tố tụng của bị can, bị cáo và khả năng sử dụng các
quyền đó để bác bỏ sự buộc tội, đưa ra lý lẽ và chứng cứ để bào chữa cho mình và
những quyền đó được pháp luật bảo đảm. Điều 16 Bộ luật tố tụng Hình sự quy
định “ Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo,

giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, giải thích và bảo đảm cho
người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi
ích hợp pháp của Bộ Luật này”(1) .
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là nguyên tắc xuyên
suốt quá trình tố tụng hình sự, có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và tìm ra sự thật của vụ án. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) nêu rõ “ Khắc phục những
biểu hiện hữu huynh trong đấu tranh phịng chống tội phạm, đồng thời chống lại
tình trạng bắt và giam giữ oan sai. Xét xử không công minh vi phạm quyền dân
của công dân. Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp
và Pháp luật, phải thể hiện cơng lý, tính dân chủ, công trong hoạt động”. Tại nghị
quyết số 08/NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có nêu rõ
“Chất lượng cơng tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu của nhân
dân. Còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các
quyền tự do dân chủ của cơng dân làm giảm sút lịng tin của nhân dân với Đảng,
1 Tại điểm đ khoản 1 điều 4 BLTTHS 2015 quy định “ Người buộc tội gồm người bị bắt , người tạm giữ, bị
can, bị cáo”


Nhà nước và các cơ quan tư pháp”. Ngày 02/06/2005 nghị quyết số 49-NQ/TW
của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 “Công tác tư pháp
cịn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp
luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung.”. Cùng với
việc quan tâm cuộc sống của nhân dân, các cơ quan Nhà nước cần phải tôn trọng
và bảo đảm các quyền của công dân đã đươc Hiến pháp quy định.
Trong các quyền của bị can, bị cáo quyền có người bào chữa chiếm vị trí rất
có ý nghĩa. Điểm h khoản 1 điều 61, điểm g khoản 1 điều 62 Bộ luật tố tụng hình
sự quy định “ Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”
Luật sư với tư cách là người bào chữa của bị can, bị cáo có trách nhiệm giúp đỡ

về mặt pháp lý, đại diện lợi ích của họ ở giai đoạn điều tra, xét xử. Quyền có người
bào chữa trong tố tụng hình sự là một phần quyền bào chữa của bị can, bị cáo và đây
chính là bảo đảm quan trọng để bị can, bị cáo các quyền tố tụng của mình.
Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố đến xét xử, việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là nguyên
tắc, là điều kiện quan trọng để bảo đảm cho việc xử lý án hình sự theo tính thần
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
2.2 Vị trí của luật sư trong tố tụng hình sự
Trong thực tế, bị can, bị cáo thường là những người ít am hiểu pháp luật, nên
họ không thể thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả các quyền được pháp luật
quy định cho họ. Ví dụ, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch , quyền yêu cầu thêm nhân chứng … Mặt khác bị can,
bị cáo kém xa người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán) về
am hiểu pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Chính vì vậy, để đảm bảo quyền
lợi của bị can, bị cáo pháp luật tố tụng hình sự quy định cho họ quyền có người bào
chữa.
Theo quy định tại điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự, những người sau đây có
thể là người bào chữa:
- Luật sư;
- Người đại diện của người bị buộc tội;
- Bào chữa viên nhân dân;
- Trợ giúp viên pháp lý.
Khi được bị can, bị cáo mời hoặc được Đoàn Luật sư cử theo yêu cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng, người bào chữa được cấp giấy chứng nhận để bào chữa cho
bị can, bị cáo.
Luật sư là người có điều kiện hành nghề luật theo quy định của Luật Luật sư
năm 2012 và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ
pháp lý khác theo quy yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật (Điều 4 Luật luật sư năm 2012).



Từ sự quan trọng của luật sư có giả thuyết cho rằng “ Vị trí Luật sư là chủ
thể độc lập trong tố tụng, luật sư đồng thời là người đại diện cho lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo”. Tuy vậy, theo quan điểm tơi, vị trí độc lập của luật sư
không nên hiểu bằng từ ngữ cứng nhắc và khẳng định rằng luật sư không phụ
thuộc vào ý chí của bị can và bị cáo. Chúng ta khơng thể nói về sự độc lập của luật
sư đối với bị can, bị cáo. Bởi vì, chỉ khi tồn tại sự mong muốn của bị can, bị cáo thì
luật sư mới tham gia vào tố tụng, mặt khác, bất cứ thời điểm nào, bị can, bị cáo đều
có quyền từ chối luật sư.
Các quyền của luật sự gắn chặt với các quyền của bị can, bị cáo, đồng thời lại
tạo ra một sự bổ trợ cần thiết giúp đỡ pháp lý cho họ, là sự bảo đảm quyền và lợi
ích của họ được thực hiện trên thực tế.
Với ý nghĩa đó, ở khía cạnh này thì luật sư là một chủ thể độc lập trong tố
tụng. Ví dụ Luật sư có mối quan hệ ngang bằng với người buộc tội hoặc, ngồi quy
định của pháp luật, khơng ai có quyền bắt buộc luật sư phải hành động như này hay
như thế khác. Nhưng ở khía cạnh khác thì khơng coi luật sư là người tham gia tố
tụng độc lập. Bởi vì, nếu luật sư khơng quan hệ chặt chẽ với người được luật sư gọi
là bị can, bị cáo thì có thể vì lý do nào đó luật sư có thể bị từ chối bất cứ lúc nào.
Nhưng khơng thể khẳng định là luật sư hồn tồn khơng có tính độc lập được.
Qua phân tích trên đây thấy rằng luật sư là người tham gia tố tụng độc lập,
nhưng phải hiểu ở đây là tính độc lập “ Tương đối” chứ khơng độc lập hồn tồn,
độc lập và phụ thuộc thì tính ở đây nổi trội hơn nếu xét một cách toàn diện.
2.3 Mối quan hệ giữa luật sư với bị can, bị cáo
Mối quan hệ giữa người bào chữa và bị can, bi cáo chỉ xuất hiện ở một trong
hai trường hợp: Hoặc là bị can, bị cáo mời người bào chữa cho họ và được cơ
quan tiến hành tố tụng chấp thuận, hoặc là cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn
Luật sư cử thành viên của mình để bào chữa bị can, bị cáo và được họ đồng ý (Nếu
họ đã thành niên). Do đó cả trường hợp nêu trên thì ý chí của bị can, bị cáo ln là
yếu tố quyết định có hay khơng có người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự cho dù được mời hay

được cử thì cũng đều nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị can, bị cáo.
Từ đó có thể khẳng định việc thực hiện bào chữa cho bị can, bị cáo là trách nhiệm
và nghĩa vụ của người bào chữa. Trách nhiệm, nghĩa vụ này tồn tại trên cơ sở thoả
thuận giữa bị can, bị cáo và người bào chữa dưới dạng một hợp đồng dân sự.
Muốn xác định vị trí của luật sư bào chữa cần phải xuất phát từ việc làm rõ
mối quan hệ giữa Luật sư và bị can, bị cáo mà luật sư có trách nhiệm bảo vệ và
mối quan hệ giữa luật sư bào chữa với các cơ quan tố tụng hình sự đang tiến hành
vụ án đó, đặc biệt là với tồ án.
Đúng là luật sư đại diện quyền lợi cho bị can, bị cáo giúp đỡ họ về mặt pháp
lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị can, bị cáo. Tuy nhiên, quan hệ luật sư


với bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự khác xa với mối quan hệ giữa luật sư và
đương sự khi luật sư là người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự :
Thứ nhất: Trong Tố tụng hình sự luật sư bào chữa khơng thay mặt bị can, bị
cáo, mà hợp tác cùng bị can, bị cáo. Họ không thay mặt nhau mà là bổ sung cho
nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong tố tụng dân sự, luật sư là đại diện có quyền thay mặt đương sự để giải
quyết vụ án dân sự.
Thứ hai: Trong tố tụng hình sự luật sư khơng thay bị can, bị cáo, Luật sư có
quyền và nghĩa vụ của luật sư, bị can, bị cáo có quyền riêng của họ. Tuy nhiên có
cùng mục đích là “Gỡ tội” cho bị can, bị cáo khơng có bắt buộc luật sư chịu chung
hậu quả từ việc luật sư không thực hiện trách nhiệm tố tụng của mình khi sử dụng
phương tiện và phương pháp bào chữa của mình được pháp luật quy định. Ví dụ:
Luật sư khơng thực hiện những hành vi mà luật sư cho là trái pháp luật theo yêu
cầu của bị can, bị cáo.
Trong tố tụng dân sự, người đại điện thơng qua hình vi của mình trực tiếp
thiết lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của người mà luật sư
đại diện theo Bộ luật dân sự quy định.
Thứ ba: Trong tố tụng Hình sự luật sư khơng có quyền từ chối bào chữa bị

can, bị cáo mà Luật sư đó đảm nhận.
Trong tố tụng dân sự, người đại diện trong bất kỳ thời điểm nào đều có quyền
từ chối việc đại diện cho người đại diện.
Theo quy định của pháp luật, luật sư bào chữa tham gia tố tụng hình sự chỉ có
sự đồng ý của bị can, bị cáo và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp thuận.
Trong khi thực hiện bào chữa, có thể xảy ra sự không trùng nhau về quan
điểm giữa bị can, bị cáo và luật sư của họ. Luật sư có thể và cần phải làm sáng tỏ
những vấn đề buộc tội của Viện kiểm sát mà bị can, bị cáo đã thừa nhận khi sự
buộc tội đó chưa được các tài liệu, chứng cứ trong vụ án khẳng định. Khi đó luật
sư phải có trách nhiệm giải thích cho bị can, bị cáo về việc buộc tội thiếu căn cứ
đó. Việc thừa nhận lỗi phạm của bị can, bị cáo có thể được khẳng định trên cơ sở
buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng chỉ khi sự thừa nhận đó phù hợp với những
chứng cứ trong vụ hồ sơ vụ án.
Ví dụ: Nguyễn Văn Tứ 16 tuổi bị truy tố về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Trong giai đoạn điều tra và cả giai đoạn xét xử. Tứ hoàn toàn nhận tội. Khi
nghiên cứu vụ án, trên cơ sở một số tình tiết vụ án, luật sư chứng minh rằng
việc nhận tội của Tứ là khơng có cơ sở. Nhưng bản thân Nguyễn Văn tứ lại
muốn nhận tội trộm cắp tài sản thay cho bố của Tứ là ông Nguyễn Văn Tâm đã
thực hiện việc trộm cắp đó.
Tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo Tứ khai nhận và muốn rằng cơ quan tố tụng kết
tội Tứ về trộm cắp tài sản. Cịn luật sư thì đưa ra quan điểm chống lại bị cáo do
mình có trách nhiệm bảo vệ, vấn đề ở đây là luật sư có quyền hành động như vậy


không? Mỗi khi luật sư hành động trái với ý muốn chủ quan của bị cáo và không
được sự đồng ý của họ.
Trả lời câu hỏi này, trả lời không hề đơn giản. Phải xuất phát từ nguyên tắc
hoạt động chung của luật sư. Luật sư khơng có quyền trong bất cứ điều kiện nào
làm xấu đi tình trạng của bị can, bị cáo mà mình đang đảm nhận bào chữa. Không
gây hại cho bị can, bị cáo là trách nhiệm của luật sư, Khi vi phạm điều đó, luật sư

khơng cịn là chính mình nữa.
Như vậy, trong vụ án trên luật sư khơng có quyền hành động trái với ý muốn
của Nguyễn Văn Tứ. Trường hợp đó, luật sư cần từ chối bào chữa cho bị cáo Tứ
với lý do hồn tồn chính đáng là luật sư đã phát hiện về bị cáo Tứ nhận tội thay
cho bố Nguyễn Văn Tâm. Điểm c khoản 2 điều 73 “Không được từ chối bào chữa
cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu khơng vì lý do bất khả
kháng hoặc không phải trở ngại khách quan”
Trong trường hợp nêu trên, việc từ chối bào chữa của luật sư là có căn cứ phù
hợp với quy định của pháp luật.
III. Vai trò luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can,
bị cáo trong các giai đoạn tố tụng hình sự.
3.1 Vai trị của Luật sư trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự.
3.1.1 Khởi tố bị can và vai trò của Luật sư.
Theo điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự thì Luật sư có quyền tham gia tố tụng từ
khi khởi tố bị can. Sự tham gia tố tụng của luật sư ngay từ khi khởi tố không những
có lợi cho bị can trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, giúp đỡ bị can
những vấn đề pháp lý cần thiết, cịn góp giúp đỡ cơ quan điều tra tiến hành điều tra
vụ án được khách quan, đầy đủ và đúng pháp luật. Mặt khác, luật sư tham gia từ
khi khởi tố bị can thì mới có điều kiện thuận lợi thu thập tài liệu, chứng cứ cần
thiết để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho bị can.
Pháp luật tố tụng hình sự nhiều nước cho phép luật sư nghiên cứu tất cả tài tài
liệu của vụ án hình sự và thực hiện những hoạt động tố tụng khác từ thời điểm khởi
tố bị can và trong tồn bộ giai đoạn điều tra hình sự. Ngày nay đối với bị can bị
khởi tố về những tội đặc biệt xâm phạm đến an ninh quốc gia khơng có quyền bào
chữa như quy định tại điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự là khơng cịn phù hợp mà
được loại bỏ để bảo đảm sự bình đẳng dân chủ của mọi bị can đều được có quyền
có người bào chữa phù hợp với điều kiện đổi mới hoạt động tư pháp của đất nước
ta hiện nay.
3.1.2 Sự tham gia của Luật sư trong việc hỏi cung bị can.
Sau khi khởi tố bị can cơ quan điều tra phải nhanh chóng tiến hành việc thu

thập chứng cứ làm sáng tỏ các tình tiết liên quan đến vụ án bằng việc hỏi cung bị
can, lấy lời khai nhân chứng, lấy lời khai của người bị hại… Theo quy định tại
điểm b khoản 1 điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự thì Luật sư có quyền có mặt khi hỏi


cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can và có mặt trong những
hoạt động điều ta khác.
Luật sư có mặt khi hỏi cung bị can để trực tiếp nghe bị can khai báo, nhằm
phát hiện những chi tiết có ý nghĩa đối với việc bào chữa nhằm minh oan nếu Luật
sư phát hiện những tình tiết có ý nghĩa với việc bào chữa, giúp điều tra viên tiếp
nhận thêm một số tình tiết cần thiết làm sáng tỏ đánh giá khách quan đúng đắn vụ
án. Việc có mặt của luật sư có mặt khi hỏi cung bị can góp phần ngăn chặn những
trường hợp điều tra viên áp dụng những biện pháp thu thập trái pháp luật như: Dụ
cung, bức cung, dùng nhục hình.
Ví dụ, điều tra viên đưa ra câu hỏi bị can “Anh có biết hành vi của anh là lưu
manh cơn đồ khơng. Anh chỉ được trả lời có hoặc khơng mà thơi ?. Nếu trả lời là
“Có” thì khơng đúng sự thật và rất nguy hiểm cho bản thân bị can. Cịn nếu trả lời
là “Khơng” thì có thể bị quy kết ngay là ngoan cố.
Trong trường hợp này như vậy luật sư đã kịp thời có ý kiến nhắc nhở bị can
không được học luật, không thể biết thế nào là lưu manh côn đồ. Do vậy đừng có
sa vào từ ngữ pháp lý, mà chỉ trả lời một thành khẩn đúng đắn hành vi của mình.
Cịn có lưu manh côn đồ hay không là do cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá trên
cơ sở lời khai của bị can và các nhân chứng khác.
Có trường hợp bị can bị hỏi rằng “Anh thấy anh có tội hay khơng có tội? anh
chỉ được trả lời “Có” hay “Không” mà thôi.
Trong những trường hợp như vậy luật sư đã kịp thời có ý kiến nhắc nhở bị can
cần có thái độ nghiêm túc khai báo thành khẩn rồi mới tế nhị gợi ý rằng “Bị can
không được học luật, bị can không biết thế nào là cấu thành tội phạm, do đó chỉ
trình bày những hành vi của mình. Cịn vấn đề có tội hay khơng có tội là do cơ
quan tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá trên cơ sở lời khai của bị can và những

chứng cứ khác”
Qua một số ví dụ nêu trên phần nào nói lên một điều rằng việc luật sư có mặt
khi hỏi cung cần thiết đến mức nào. Trong những trường hợp như nêu trên mà luật
sư không được điều tra viên đồng ý cho hỏi bị can thì chẳng biết sẽ dẫn đến tai hại
ra sao! đấy là chưa kể đến những vụ án khơng có luật sư tham gia thì ai mà biết
được quyền và lợi ích hợp pháp của họ có được bảo đảm đầy đủ hay khơng.
3.1.3 Vai trị của Luật sư trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án
Luật sư có quyền đọc hồ sơ vụ án, ghi chép những điều cần thiết khi kết thúc
điều tra (Khoản 1 điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự ).
Thực hiện quyền này giúp luật sư nắm vững các tình tiết và tồn bộ nội
dung vụ án. Thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án luật sư biết được bị can, bị
cáo bị truy tố về tội gì, theo điều luật nào và viện kiểm sát đã dựa vào những
chứng chứ gì để buộc tội bị can. Hồ sơ vụ án giúp cho luật sư có cái nhìn tồn
diện về tội phạm từ khi bắt đầu diễn ra cho đến khi kết thúc, từ đó giúp luật sư


đánh giá được vị trí, vai trị của bị can trong vụ án và có phương án kế hoạch
bào chữa cho bị can.
Khi đọc hồ sơ vụ án luật sư cần đạt được 2 yêu cầu sau:
Một là: Tính hợp pháp và có căn cứ của kết quả điều hành tố tụng như có
biện pháp thu thập chứng cứ, các biện pháp ngăn chặn bị can, bị cáo, kết luật điều
tra, bản cáo trạng…
Hai là: Nội dung vụ án được thể hiện như thế nào: Về vấn đề này luật sư
phải đánh giá và có chính kiến riêng về các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ
án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, cụ thể là: Có sự kiện phạm
tội khơng? Người phạm tội là những ai? Có đủ dấu hiệu của tội phạm mà Bộ luật
hình sự quy định khơng?
+ Lỗi, tính chất lỗi, mức độ lỗi của bị can, bị cáo;
+ Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với bị can, bị cáo;
+ Thiệt hại xảy ra, tác hại về vật chất, tinh thần trong vụ án đó v.v…

Ví dụ: Trong vụ án của Bùi Đình Khánh bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản”
thì theo quyết định thu giữ tài sản đảm bảo số 1333/2019/QĐ-TPB-NHCT.THN
của TPBANK xác định thu giữ tài sản của khách hàng là Nguyễn Thế Anh cùng
vợ, nhưng khi uỷ quyền cho công ty thu hồi nợ Thủ Đơ lại thu hồi xe của Bùi
Đình Khánh như vậy là trái quy định của TPBank (QĐ số 1333/2019), trái với
hợp đồng cho vay thế chấp tài sản và trái quy định pháp luật, trái với điều 63 nghị
định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 (Không áp dụng được nghị quyết
42/2017/QH14 vì khoản nợ được hình thành sau ngày 15/08/2017 nên không phải
nợ là nợ xấu theo điều 4 nghị quyết 42)
Trong thời gian nghiên cứu nếu hồ sơ vụ án và chuẩn bị cho xét xử luật sư
có quyền đề xuất chứng cứ, để đạt được những yêu cầu đối với Toà án như: Đề
xuất nhân chứng mới, yêu cầu thay đổi biện pháp ngăn chặn theo hướng có lợi
cho bị can.
3.2 Vai trị của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
3.2.1 Sự tham gia của luật sư ở phần thủ tục bắt đầu phiên toà
Phần thủ tục phiên toà được bắt đầu bằng việc khai mạc phiên toà và kết thúc
bằng việc giải quyết vấn đề có thể xử vắng mặt người đó trong số những người
tham gia tố tụng.
Theo điều 301 Bộ luật tố tụng hình sự bắt đầu bằng việc khai mạc phiên toà
được bắt đầu bằng việc chủ toạ phiên toà đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tiếp
theo yêu cầu chủ toạ, thư ký phiên tồ và những người được triệu tập ai đã có mặt,
ai vắng mặt và họ đã nhận được giấy triệu tập chưa, nguyên nhân của sự vắng mặt.
Việc có mặt của những người tham gia phiên toà như : Người làm chứng, người bị
hại, nguyên đơn dân sự… có ý nghĩa rất quan trọng.


Trong trường hợp bị hại người làm chứng vắng mặt mà lời khai của họ có ý
nghĩa quan trọng thì luật sư phải cương quyết đề nghị Hội đồng xét xử hỗn xét xử,
vì thực tế trong nhiều trường hợp lời khai của người bị hại ở phiên toà khác với lời
khai của người bị hại ở phiên toà khác với lời khai của họ ở giai đoạn điều tra.

Để thực hiện tốt việc bào chữa, bị cáo cần được biết pháp luật quy định cho
những quyền gì và chủ toạ phiên tồ cần giải thích rõ bị cáo quyền của họ. Đây
cũng là vấn đề luật sư không được phép sao nhẵng.
3.2.2 Sự tham gia của luật sư ở phần xét hỏi
Sau khi bản cáo trạng được đọc xong, chủ toạ phiên tồ hỏi bị cáo có hiểu nội
dung cáo trạng khơng và có nhận tội theo nội dung bản cáo trạng không. Trong
thực tế xét xử, bị cáo có thể trả lời là hồn tồn phủ nhận hoặc công nhận, nhưng
thường là bị cáo chỉ nhận một phần tội lỗi. Hoạt động của luật sư phụ thuộc rất
nhiều vào câu trả lời này của bị cáo. Không một ai được quyền gây áp lực cho bị
cáo trả lời theo ý muốn của mình. Để bị cáo trả lời bình tĩnh và đầy đủ lý lẽ câu hỏi
này của hội đồng xét xử trước khi mở phiên toà luật sư phải giải thích cho bị cáo
biết về thủ tục phiên tồ để bị cáo có sự chủ động chuẩn bị trước.
Luật sư cần phải chuẩn bị và lập kế hoạch từ khi nghiên cứu hồ sơ, gặp bị cáo
luật sư nên đề nghị nếu bị cáo bị buộc nhiều tội thì nghiên cứu từng tội của bị cáo
là tốt nhất, đề nghị tồ chú ý đến trình tự và thời điểm trình bày những chứng cứ
sao cho phù hợp với lợi ích của việc bào chữa.
Khi hỏi bị cáo tại phiên toà luật sư cần chuẩn bị thật tốt để tham gia hỏi bị
cáo. Cần hình thành câu hỏi, thứ tự câu hỏi, cách hỏi, thời điểm hỏi sao cho phù
hợp với kế hoạch và hướng bào chữa đã được chuẩn bị và những câu hỏi phát sinh
tại phiên tồ luật sư có quyền thoả thuận với bị cáo về câu hỏi mà luật sư sẽ hỏi bị
cáo tại phiên toà. Câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu đối với bị cáo, không làm
rối bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
3.2.3 Sự tham gia của Luật sư ở phần tranh luận tại phiên toà
3.2.3.1 Chuẩn bị cho phần tranh luận tại phiên toà.
Tranh luận tại phiên tồ có ý nghĩa rất lớn đối với việc bào chữa và giúp cho
Hội đồng xét xử giải quyết đúng đắn vụ án, ngồi ra nó cịn có tác động tốt đối với
việc giáo dục người có mặt tại phiên tồ.
Một cơng việc đặc biệt quan trọng của việc bào chữa nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho bị cáo tại phiên toà của luật sư là chuẩn bị lời bào chữa.
Nhiều luật sư cho rằng trong quá trình nghiên cứu hồ sơ và gặp bị can, bị cáo có

thể viết bài bào chữa. Bài bào chữa đầy đủ hoặc sơ đồ kế hoạch bài bào chữa cần
được sắp đặt trước khi bắt đầu phiên toà. Sau khi kết thúc xét hỏi, kế hoạch, sơ đồ,
bài phát biểu có thể được xem xét lại, bổ sung cho phù hợp.
Ý kiến khác cho rằng “Chuẩn bị bài bào chữa theo tài liệu điều tra khơng thể
chính xác và mâu thuẫn với pháp luật tố tụng đòi hỏi là bản án phải căn cứ trên
những chứng cứ được thẩm vấn tại phiên toà lời bào chữa thực tế có thể được


chuẩn bị sau phần xét hỏi khi mà những vấn đề quan trọng của vụ án đã được rõ
ràng”(2). Tôi cho rằng cả hai cách chuẩn bị bài bào chữa nêu trên đều có mặt tích
cực, ưu việt nhất định. Nhưng nếu chỉ dựa vào hồ sơ vụ án và lời khai của bị can,
bị cáo để hình thành bài bào chữa đầy đủ khơng thơi thì e rằng luật sư theo thói
quen dễ vừa lịng với sự chuẩn bị của mình mà sao nhãng bám sát nội dung xét hỏi
đề từ đó kịp thời sửa đổi, bổ sung nội dung bài bào chữa cho phù hợp với thực chất
vụ án được điều tra cơng khai tại phiên tồ. Nếu lời bào chữa có thể được chuẩn bị
chỉ sau phần xét hỏi thì luật sư dễ lâm vào tình trạng lúng túng, trình bày khơng
đầy đủ những vấn đề mà bắt buộc phải trình bày. Do vậy, theo tơi cần kết hợp và
dung hoà cả hai cách chuẩn bị bài chữa nêu trên. Cụ thể là cần chuẩn bị bài bào
chữa sơ bộ, kế hoạch và sơ đồ bài bào chữa trước khi bắt đầu phiên toà, kịp thời
loại bỏ, bổ sung những vấn đề phù hợp, chứng cứ và lý lẽ thẩm vấn tại phiên toà
trong bài bào chữa đã chuẩn bị sẵn trước khi bắt đầu phiên toà.
Như vậy chất lượng và hiệu quả lời bào chữa phụ thuộc rất nhiều vào sự tham
gia tích cực của luật sư trong q trình xét hỏi. sự chuẩn bị đó là cơ sở cho việc
trình lời có hiệu quả.
3.2.3.2 Lời bào chữa của Luật sư
Lời bào chữa là quan điểm của luật sư qua việc nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ tại phiên toà, được xây dựng với kết quả của quá trình xét hỏi. Trong lời
bào chữa cho bị cáo, luật sư cần chỉ ra ý nghĩa chính trị xã hội của vụ án đó, phân
tích chứng cứ là cơ sở cho việc gỡ tội và buộc tội, phân tích và xác định hành vi,
nhận xét thân nhân bị cáo, đưa ra mức độ hình phạt và tính căn cứ của việc kiện

dân sự…
Trong lời bào chữa của luật sư phản ảnh tất cả sự việc và chứng cứ được xem
xét dưới góc độ vì lợi ích của bị cáo, bác lại sự buộc tội thiếu căn cứ hoặc đề nghị
giảm nhẹ cho bị cáo, nêu ra việc người buộc tội khơng chứng mình được luận điểm
của mình, chỉ ra những chỗ lời buộc tội yếu ớt, chứng cứ buộc khơng vững vàng,
những tình tiết tăng nặng, định tội khơng chính xác v.v…
Tính chính trị - xã hội của lời bào chữa thể hiện ở chỗ phản ánh đúng những
tình tiết của vụ án, giải thích pháp luật chính xác, bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị
cáo, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Lời bào chữa có chất lượng là, trong đó tốt lên tính logic, tính liên tục, tính
có căn cứ và khơng mâu thuẫn của nội dung bào chữa cùng những kết luận đầy tính
thuyết phục và khả năng hùng biện, nghệ thuật diễn thuyết của luật sư.
Tham gia phiên toà với tư cách là người bào chữa cho bị cáo, Luật sư không
thể phụ thuộc hoàn toàn vào ý muốn và quan điểm của bị cáo mà họ bào chữa, và
cũng khơng có nghĩa vụ tuân theo mù quáng việc bị cáo có nhận hay không nhận
tội. Vấn đề ở chỗ Luật sư chỉ được phép trình bày quan điểm của mình bào chữa có
2 TS Nguyễn Văn Tn “Vai trị của luật sư trong tố tụng hình sự” NXB đại học quốc gia, Hà Nội 2018,tr92


hiệu quả và không giây thiệt hại cho bị cáo, luật sư khơng được có hành vi vi phạm
đạo đức nghề nghiệp.
Ví dụ: Trong vụ án của Bùi Đình Khánh bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản”
với ý muốn của bị cáo là nhận tội và xin giảm nhẹ khung hình phạt. Với đạo đức
nghề luật sư và luật sư cũng có trách nhiệm bảo vệ cơng lý thì luật sư đã chỉ ra
rằng việc trong quá trình giải quyết vụ án CQCSĐT, VKS đã khởi tố, truy tố và cáo
buộc bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản đã vi phạm tố tụng nghiêm trọng có những
sai lầm trong việc nhận định, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp có nguy cơ oan
sai cho bị cáo được thể hiện qua các chứ cứ và được luật sư chứng minh nó.
Khi phân tích lời buộc tội của cơng tố viên, Luật sư cần làm rõ tính toàn diện,
đầy đủ và khách quan trong việc nghiên cứu và đánh giá chứng của cơng tố viên có

phù hợp với các tình tiết vụ án hay khơng. Qua đó luật sư thấy được những thiếu
sót, tính phiến diện, chủ quan, thiếu căn cứ trong lời luận tội của công tố viên.
Về việc định tội, quyết định hình phạt hoặc xác định bị cáo vô tội và trách
nhiệm dân sự của bị cáo, đề nghị của luật sư cần phải cụ thể. Luật sư có thể đề nghị
tồ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tuyên bị cáo vơ tội hoặc xem xét mức
hình phạt cho bị cáo, miễn hình phạt …
Luật sư trong lời bào chữa của mình cần nêu ra căn cứ của việc xác định trách
nhiệm dân sự và những hậu quả pháp lý dân sự, mức độ thiệt hại vật chất xảy ra.
Luật sư cần chủ động thực nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đầy đủ cho bị
cáo mà mình đảm nhận bào chữa.
3.2.3.3 Đối đáp
Đối đáp là sự trả lời của một người tham gia tranh luận đối với lời phát biểu
của người tham gia tranh luận khác. Đối đáp thường là phản đối hoặc đồng ý với
quan điểm của người tham gia tranh luận khác. Đối đáp cần đề cập đến những vấn
đề chủ yếu trong vụ án: Kết luận mơ hồ, vu vơ, thiếu căn cứ.
Luật sư phải hiểu rằng lời đối đáp của người tham gia tranh luận khơng nhất
thiết phải có lời đối đáp lại của người khác và từ chối đối đáp khơng có nghĩa là sự
đồng ý của luật sư đối với tất cả những lời nói của những người tham gia tranh
luận. Tránh đối đáp kéo dài, pháp luật quy định quyền của từng người tham gia
tranh luận chỉ được đối đáp một lần. Đối đáp chỉ liên quan đến những tình tiết và
chứng cứ đã được xem xét ở phần xét hỏi và tranh luận tại phiên toà. Do chỉ được
phát biểu một lần nên luật sư cần chọn thời điểm đối đáp thích hợp, tốt nhất và đối
đáp cuối cùng là thích hợp nhất. Vì đáp lại tất cả các vấn đề trước khi bị cáo được
nói lời sau cùng và tồ án đi vào nghị án.
3.2.4 Vai trị của luật sư trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo theo quy định của Bộ Luật tố tụng
hình sự tại điều 205 và điều 333, điều 337, thì thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án hình sự cấp sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo. Trong thời hạn đó luật sư



bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Theo quy định tại điều 354 bộ luật tố tụng hình sự thì phiên tồ phúc thẩm
cũng được tiến hành như phiên toà sơ thẩm, chỉ khác ở chỗ trước khi xét hỏi một
thành viên của hội đồng xét xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án quyết định
của bán án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Tuy vậy, cách thức và phương pháp bào chữa của Luật sư cho bị cáo ở trình tự
phúc thẩm cũng phải vận dụng tuỳ theo chủ thể kháng cáo là ai và nội dung kháng
cáo, kháng nghị từ đó chọn phương pháp bào chữa sao cho có hiệu quả nhất.
Trong trường hợp kháng cáo của bị cáo cho rằng bản án sơ thẩm quyết định
quá nặng, thâm chí oan sai, trách nhiệm dân sự quá cao thì nhìn chung người buộc
tại toà phúc thẩm thường thể hiện quan điểm bảo vệ cho tính đúng đắn và có căn
cứ của bản án sơ thẩm. Trong trường hợp này Luật sư bào chữa cho bị cáo phải
bình tĩnh và linh hoạt sử dụng mọi chứng cũ và mới để tham gia tranh luận làm
sáng tỏ sự thật vụ án nhằm chứng minh bản án sơ thẩm thiếu căn cứ, không đảm
bảo đúng người đúng tội, đúng pháp luật
Ví dụ: Vụ Hồng Thị Phương bị án sơ thẩm xử 2 năm tù giam về tội vu
khống. Bị cáo kháng cáo lên cấp phúc thẩm. Luật sư đã chú ý đến vấn đề ngày,
tháng nên đã phát hiện trong hồ sơ có một bản tự khai và một bản lời khai nhân
chứng của cơ quan điều tra do chính tồ án sơ thẩm dàn dựng. Luật sư đã đưa 2 tài
liệu này ra để nêu lên sự vi phạm tố tụng, phân tích những chi tiết dàn dựng buộc
tội bị cáo, đồng thời chứng minh rằng bị cáo không phạm tội, ý kiến của luật sư
được hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
Ngoài việc tham gia bào chữa cho bị cáo cấp sơ thẩm và phúc thẩm, luật sư
còn tham gia bào chữa cho bị cáo tại thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.
Giám đốc thẩm và tái thẩm là những trình tự xét xử được áp dụng đối với bản
án hoặc quyết định của toà án nhưng bị kháng nghị của người có thẩm quyền theo
quy định tại các điều 371 và điều 389 Bộ luật TTHS, được thực hiện do những căn
cứ sau:
+ Phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng, sai lầm nghiêm

trọng trong việc áp dụng pháp luật, kết luận bản án, quyết định của tồ án khơng
phù hợp với những tình tiết khách quan
+ Vì phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án, quyết định của tồ án khơng biết được khi đưa ra bản hoặc quyết định đó.
Khoản 2 điều 383 BLTTHS quy định “Trường hợp xét thấy cần thiết Toà án
phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên giám đốc thẩm”
Trong thực tết việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm có sự tham gia của Luật sư
bào chữa bảo đảm cho việc xét xử khách quan toàn diện hơn. Đặc biệt xét về tính
chất của tái thẩm là nhằm kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án hoặc


quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện ra những tình tiết mới. Những
tình tiết mới này làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định của toà
án cấp dưới.
Vấn đề này đặt trước luật sư bào chữa nhiệm vụ nặng nề và nghiêm túc, vì
mỗi bản án đã có hiệu lực pháp luật thì việc thay đổi chúng khơng dễ dàng. Một
khó khăn nữa là luật sư được tham gia phiên giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ khi nào
“Chỉ khi nào xét thấy cần thiết” cho việc bào chữa cho bị cáo của luật sư càng khó
khăn và bị động.
Khi tham gia phiên toà Giám đốc thẩm, tái thẩm luật sư phải nghiên cứu cẩn
thận và nghiên cứu vụ án, cố gắng đưa ra những chứng cứ mới, kết luận giám định
mới, xem xét và phát hiện những trường hợp do sự phiến diện hoặc không đầy đủ
trong việc điều tra xét hỏi tại phiên tồ trước đó. Theo ngun tắc chung thì ở đâu
có sự buộc tội ở đó tồn tại chức năng gỡ tội. Do vậy, việc luật sư tham gia các
phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm là rất cần thiết và cần được phát huy.

PHẦN 4
NHẬN XÉT VỀ KẾT QUẢ VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Nhận xét đánh giá kết quả

Sau thời gia thực tập tại Công ty Luật TNHH Tiến Minh, tuy là một khoảng
thời gian ngắn nhưng đã giúp bản thản thân em học hỏi được nhiều điều. Đây là
khoảng thời gian có ý nghĩa đối với cá nhân em. Qua vệc học tập tại trường và việc
được tiếp xúc với tổ chức hành nghề Luật sư với mơi trường giải quyết các vụ án
dân sự, hình sự cho thấy việc học tập và áp dụng vào thực tiễn cần phải học tập,
trau dồi rất nhiều kiến thức. Nhờ đó mà mới thực sự hiểu được ý nghĩa của câu
“Học đi đơi với hành”.
Qua q trình thực tập, em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức và kinh
nghiệm. Đó là thái độ hồ nhã, tác phong nhanh nhẹ, tôn trọng khách hàng khi làm
việc, tiếp xúc với khách hàng, nắm rõ được công việc cụ thể, hiểu được nhiệm vụ,
vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của đương sự. Học được sắp
xếp, soạn thảo văn bản, nghiên cứu hồ sơ vụ án và so sánh, đánh giá chứng cứ của
các vụ án ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Bên cạch đó em còn được cùng Luật sư
hướng dẫn tham gia trực tiếp vào các vụ án từ đó học được những kỹ năng trong
việc giao tiếp với đương sự, kỹ năng làm bản bào chữa, tranh luận tại phiên toà…
Đặc biệt là em học được cách đọc hồ sơ vụ án, làm đơn cho thân chủ, đơn gửi
cơ quan có thẩm quyền trong việc xác minh, giải quyết vụ án xây dựng luận cứ để
tranh tụng tại toà, đưa ra những hướng giải quyết vụ án cho thân chủ của mình.
Nhờ sự hướng dẫn của các luật sư tại Công ty Luật TNHH Tiến Minh mà em có


thể hồn thiện được nhật ký thực tập của mình, mở mang nhiều kiến thức thực tiễn
về các thủ tục trong tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, được bắt tay vào công việc của
luật sư trong giải quyết từng vụ án ở các giai đoạn khác nhau. Nhờ vậy mà em đã
phần nào nâng cao được kiến thức, rèn luyện được ý thức làm việc, hiểu được các
mối quan hệ trong công ty, phong cách làm việc, sự tương trợ hỗ trợ lẫn nhau của
các luật sư với nhau. Đặc biệt đó là sự kết hợp hài hồ giữa thực tiễn và lý luận để
chuẩn bị tốt cho cơng việc sau khi ra trường và có được nhận thức rõ ràng hơn về
vai trị cơng việc pháp lý trong cơng ty.
4.2 Một số kiến nghị về việc hồn thiện pháp luật trong tố tụng hình sự.

Qua nghiên cứu Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành và Luật luật sư, em thấy
một số mâu thuẫn và bất hợp lý hoặc chưa phù hợp cần được sớm khắc phục để
hoàn thiện chế định về luật sư, trong báo cáo này em xin được trình bày quan điểm
và đề xuất của mình như sau:
Theo trình tự xét hỏi như hiện nay thì Hội đồng xét xử hỏi trước, rồi đến kiểm
sát viên, rồi mới đến Luật sư. Điều này rất dễ gây ra sự thiếu khách quan khi thẩm
tra công khai tại phiên tồ. Vì Hội đồng xét xử hỏi trước thể hiện sự khẳng định vụ
án của toà án trước khi Luật sư và kiểm sát viên thực hiện quan điểm của mình.
Điều này làm giảm vai trị buộc tội của kiểm sát viên và vai trò gỡ tội của luật sư
cho bị cáo. Mặt khác, khi cùng xét hỏi về một vấn đề, kiểm sát viên hỏi để làm
sáng tỏ những tình tiết buộc tội, cịn luật sư hỏi để làm làm sáng tỏ tình tiết gỡ tội,
tất yếu là có sự trùng lặp nhất định. Do vậy, dễ làm cho Hội đồng xét xử và luật sư
có tâm lý ngại không muốn nghe hoặc đặt câu hỏi tiếp theo đối với bị cáo, cũng
như đối người tham gia tố tụng khác. Và như vậy, dù có hay khơng cũng khơng
phát huy được vai trị của luật sư đến mức cần thiết.
Sự thiếu khách quan trong việc thẩm vấn tại phiên tồ cịn thể hiện ở việc Hội
đồng xét xử thường áp dụng cách hỏi mớm cung đối với bị cáo. Như khi bị cáo trả
lời khác với lời khai của họ trong giai đoạn điều tra thì thường bị Toà và kiểm sát
viên quy chụp thiếu thành khẩn hoặc có hành vi phản cung, nên khơng cho bị cáo
trả lời tiếp nữa. Sự vi phạm này của tồ án và kiểm viên giữ quyền cơng tố tại
phiên tồ dẫn đến việc làm sai lệch vụ án. Vì vậy, trong lúc bị cáo khai báo tại
phiên toà họ rất cần sự trợ giúp pháp lý từ phía luật sư để luật sư đề xuất kịp thời,
nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật trên.
Theo điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự trong trường hợp quy định tại khoản 1
điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự luật sư vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hỗn
phiên tồ. Tuy nhiên, theo điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự thì nếu luật sư vắng
mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do khơng cản trở thì Hội đồng xét xử vẫn có thể
tiến hành xét xử nhưng không được đưa ra bản án hoặc quyết định khơng có lợi
cho bị cáo, trong các trường hợp khác phải hỗn phiên tồ. Tơi cho rằng quy định
vậy là phân biệt địa vị pháp lý của luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo tại phiên

toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm.


- Cần nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được năng lực hoạt động của luật sư còn yếu
kém. Khi tham gia tố tụng, khá phổ biến một số luật sư chưa sử dụng và vận dụng
các quyền của mình được pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo. Các bài bào chữa thường lủng củng, thiếu chặt chẽ và người luật
sư phát biểu tại tồ thì lúng túng, thiếu chủ động chưa mạnh dạn đấu tranh chống
lại những quan điểm không đúng. Nguyên nhân là do nắm nội dung không chắc
hoặc xác định không đúng hướng bào chữa dẫn đến luận cứ nêu lên ít được Hội
đồng xét xử chấp nhận. Có trường hợp luật sư đưa quan điểm “Nước đôi” vừa
muốn bị cáo vơ tội vừa sợ Tồ án khơng đồng tình, lấp lửng đưa ra những tình tiết
đề nghị giảm nhẹ cho bị cáo để nhằm đề phịng tồ xử theo đề nghị trong cáo trạng
của viện kiểm sát. Điều này chứng tỏ ý chí, lịng dũng cảm và niềm tin nội tâm của
luật sư không chắc chẵn, không vững vàng. Do vậy, tính thuyết phục của luận cứ
do luật sư đưa ra nhìn chung cịn thấp.
Một số điểm cần quan tâm là trong tranh luận tại phiên toà, bên cạnh nhiều
luật sư hoạt động rất chủ động, tích cực, biết cách tận dụng hợp lí, giàu tính thuyết
phục thì có số khơng ít luật sư khơng lắm được điều đó đã tạo điều kiện cho nhiều
người nghĩ không đúng về vai trị của luật sư, thậm chí có người cho rằng việc có
mặt của luật sư ở phiên tồ là chỉ hình thức và theo thủ tục.
Có hiện tượng một số người đi mời luật sư không phải để bảo vệ mà để Luật
sư bào chữa cho bị can, bị cáo, mà chỉ là để thông qua luật sư được mời để mơi
giới hối lộ cho ai đó trong cơ quan tiến hành tố tụng. Điều đó gây ảnh hưởng xấu
đến vai trị và uy tín của luật sư.
- Nâng cao nhận thức về vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
Trong quá trình tham gia giải quyết vụ án hình sự, vai trị của luật sư trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo không phải nơi nào và
lúc nào cũng được tôn trọng và hiểu đúng. Khá đông trong nhân dân chưa hiểu

được vai trò của luật sư, trong số họ có người cho rằng luật sư gây khó khăn
cho việc đấu tranh chống tội phạm trốn tránh trách nhiệm. Vì vậy, việc tham gia
bào chữa khơng cản trở mà còn thúc đẩy cuộc đấu tranh chống tội phạm, giúp
cơ quan tiến hành tố tụng khắc phục sai lầm trong xử lý vụ án. Chẳng hạn, xét
xử khơng có căn cứ người vô tội, áp dụng mức án cao hơn mức lỗi bị cáo…
Để khắc phục tình tạng nêu trên , Nhà nước ta cần tăng cường công khai tạo
điều kiện cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc soạn thảo, đóng góp ý kiến
vào các dự án luật và các văn bản luật: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự,
luật luật sư… Đồng thời Nhà nước có kế hoạch tuyên truyền phổ biến và giáo
dục pháp luật mang tính phổ cập đến các tầng lớp nhân dân về các văn bản pháp
lý nói trên. Thơng qua các phương tiện thông tin đạt chúng phổ biến về vai trò
của luật sư, chức năng hoạt động của luật sư trong cuộc sống, đặc biệt là trong
giai đoạn phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


KẾT LUẬN
Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa cho bị can,
bị cáo là người tham gia tố tụng độc lập. Họ có nhiều quyền trong việc xuất
trình và nghiên cứu chứng cứ, họ có quan hệ ngang bằng với người buộc tội.
Khơng một điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phám, cơ quan quản lý luật sư có
quyền bắt luật sư phải hành động như thế hoặc như thế khác đối với từng vụ án
cụ thể. Nghĩa vụ và quyền của luật sư được quy định cụ thể trong Bộ luật tố
tụng Hình sự và Luật luật sư năm 2012.
Luật sư chỉ bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo. Luật sư có
nghĩa vụ trình bày với Tồ án tất cả những gì cụ thể giúp cho bị cáo và khơng
có quyền làm những gì có hại, làm xấu đi tình trạng của bị cáo, giảm nhẹ trách
nhiệm của bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Khi tham gia vài hoạt động tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo luật sư thể hiện vị trí độc lập của mình. Tuy nhiên, đây

chưa phải là độc lập hồn tồn, mà chỉ là độc lập mang tính tương đối giúp các
vụ án hình sự được xử lý nhanh chóng, chính xác, khách quan, cơng bằng và
hợp tình hợp lý.
Luật sư khơng có quyền hành động có hại có bị can, bị cáo, khơng có
quyền chuyển sang quan điểm của bên buộc tội, nhưng bị can, bị cáo không thể
bắt luật sư hoạt động sai quy định của pháp luật và niềm tin nội tâm của luật sư.
Một khi đã lựa chọn luật sư hoặc đồng ý có sự tham gia của họ thì bị can, bị cáo
khơng có thể u cầu luật sư chọn quan điểm mà luật sư cho là không đúng và
không hợp lý.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo khơng chỉ là vấn
đề tố tụng mà còn là nghề nghiệp luật sư. Chính vì vậy, xã hội địi hỏi ở người
luật sư có trình độ chun mơn cao, kỹ năng nghề nghiệp tinh thơng, có đạo đức
tư cách nghề nghiệp. Người luật sư và nghề luật sư mong đợi phía Nhà nước và
xã hội sự bảo đảm cho hoạt động có hiệu quả của mình. Đó là sự nhận thức
đúng về vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự từ phía cơ quan tư pháp, các cơ quan Nhà
Nước nói chung và tồn xã hội, được sống và làm việc trong môi trường pháp
lý đầy đủ và hồn thiện, được đối xử bình đẳng và các chủ thể khác trong tố
tụng hình sự, được cống hiến góp phần mình vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cơng dân và pháp chế xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc, lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam;
2. Bộ Chính trị. Nghị quyết của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công tác
cải cách tư pháp trong thời gian tới;
3. Bộ Chính trị. Nghị quyết Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020;
4. Luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

5. Luật Luật luật sư năm 2012;
6. Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự, NXB Cơng an nhân dân;
7. Đồn luật sư tỉnh Thanh Hố (2019), tài liệu tham luật tại hội thảo khoa học
của Đoàn luật sư Tỉnh Thanh Hố;
8. Nguyễn Văn Tn (2018), Vai trị của luật sư trong tố tụng hình sự, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội;
9. Tạp chí dân chủ pháp luật “Nghề luật sư trong cơ chế thị trường”
10.Tạp chí Luật Học “Tổ chức và hoạt động luật sư – Thực trạng và phương
hướng đổi mới.



×