Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

QUAN điểm hồ CHÍ MINH về vấn đề đạo đức và vận DỤNG QUAN điểm ấy vào GIÁO dục hạn CHẾ sự vô cảm TRONG GIỚI TRẺ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.36 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM ẤY VÀO GIÁO DỤC HẠN CHẾ
SỰ VÔ CẢM TRONG GIỚI TRẺ HIỆN
NAY.

MÃ MƠN HỌC: LLCT120314_21_1_10CLC
THỰC HIỆN: Nhóm 09. Thứ 5 tiết 5,6
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: THS.TRƯƠNG THỊ MỸ CHÂU

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2021


DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2021-2022
Nhóm số 09 (Lớp thứ 5, tiết 5,6)
Tên đề tài: Quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức và vận dụng quan điểm
ấy vào giáo dục hạn chế sự vô cảm trong giới trẻ hiện nay.
STT

Họ và Tên

MSSV

Tỉ lệ hoàn thành



Ghi chú

1

Bùi Thị Thúy Diễm

20116168

100%

Lớp 10CLC

2

Nguyễn Thanh Trúc

20116251

100%

Lớp 10CLC

3

Hàn Thị Bích Hằng

20116175

100%


Lớp 10CLC

4

Vương Thị Như Quỳnh

20116224

100%

Lớp 10CLC

5

Nguyễn Trần Thanh

20116261

100%

Lớp 10CLC

Tuyền
6

Phạm Thị Ngọc Tuyết

20125137


100%

Lớp 10CLC

7

Võ Hoài Thương

20116241

100%

Lớp 10CLC

8

Nguyễn Trần Thảo

20110042

100%

Lớp 12CLC

Quyên
Ghi chú:
Tỷ lệ % = 100%
− Trưởng nhóm: Bùi Thị Thúy Diễm

Nhận xét của giáo viên:

.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Ngày … tháng 11 năm
2021 Giáo viên
chấm điểm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................ 2
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC.................3
1. Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức......................3
2. Nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức......................................... 5
2.1. Vị trí, vai trị và chức năng của đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh 5

2.1.1. Vị trí, vai trị của đạo đức theo quan điểm Hồ Chí Minh....................5
2.1.2. Những phẩm chất cơ bản của đạo đức cách mạng............................... 7
3. Ý nghĩa quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức......................................... 11
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VÀO GIÁO DỤC HẠN CHẾ SỰ VÔ CẢM
TRONG GIỚI TRẺ HIỆN NAY................................................................................... 14
1. Khái niệm vô cảm.............................................................................................. 14
2. Thực trạng về sự vô cảm trong giới trẻ hiện nay................................................ 14
2.1. Trong thời kì dịch bệnh.............................................................................. 14
2.2. Trong các vấn đề xã hôi khác:.................................................................... 15
3. Nguyên nhân sự vô cảm trong giới trẻ hiện nay................................................ 16
4. Biện pháp nhằm hạn chế sự vô cảm trong giới trẻ hiện nay............................... 18

KẾT LUẬN................................................................................................................. 22
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo dòng thời gian, xã hội loài người ngày càng phát triển hơn. Sau các cuộc
cách mạng công nghiệp, đời sống vật chất của con người ngày càng được cải thiện và
đi lên. Những điều đó đã mang lại cho nhân loại rất nhiều sự thay đổi trong các vấn đề
trong sinh hoạt, đời sống, văn hóa, đạo đức. Đặc biệt vấn đề đáng quan tâm nhất chính
là vấn đề về đạo đức con người. Đạo đức là một phần không thể thiếu đối với mỗi con
người ta, nó gắn liền với ta kể từ khi ta có được nhận thức với thế giới xung quanh ta.
Là bài học đầu tiên ta được dạy dỗ bởi gia đình ta sau đó là đến trường lớp và gắn liền
với ta cả một cuộc đời. Theo Phật giáo, đạo đức là một phần không thể thiếu giúp con
người đến gần hơn giá trị “chân, thiện, mỹ”. Quan trọng nhất, chủ tịch Hồ Chí Minh là
một con người vĩ đại với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, là niềm tự hào của cả dân
tộc. Vì thế trong thời bình, con người Việt Nam ta ln nỗ lực và cố gắng “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để làm rạng danh đất nước mà Bác và ông
cha ta đã hi sinh bằng đau khổ và xương máu để giành lại từ tay kẻ thù.
Thế nhưng kể từ khi nhân loại bước vào một kỷ nguyên mới con người đã nhận
được rất nhiều sự huận lợi với sự trợ giúp từ công nghệ điện tử, robot, AI và Internet.
Đặc biệt là giới trẻ, họ có nhiều điều kiện để có thể học hỏi, trau dồi và tiếp cận được
nhiều kiến thức hơn thông qua những phương tiện hiện đại. Nhưng đồng thời nó cũng
mang lại một hậu quả mà khơng ai có thể ngờ đến đó là giá trị đạo đức bị xói mịn bởi
chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân và kết quả tạo nên một
căn bệnh mới gọi là “bệnh vô cảm”. Bệnh này thể hiện rõ con người hầu như trở nên
vơ tình với cuộc sống của những người xung quanh. Lo lắng nhất là căn bệnh này lại
chiếm phần nhiều ở giới trẻ ngày nay. Đất nước ta có rất nhiều truyền thống tốt đẹp
được đồng bào ta giữ gìn và phát huy nhưng bên cạnh những người biết đồng cảm,

chia sẻ, ln nghĩ đến người khác cịn có những kẻ thờ ơ, lãnh đạm, ích kỷ, chỉ nghĩ
đến bản thân. “Bệnh vô cảm” là hồi chuông cảnh báo không chỉ trong mỗi gia đình mà
nó cịn ảnh hưởng rất lớn đến cả xã hội con người trong thời bình ngày nay.

4


Để có thể làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Vị
trí, vai trò và chức năng của đạo đức theo quan điểm Hồ Chí Minh và vận dụng
quan điểm ấy vào giáo dục hạn chế sự vô cảm trong giới trẻ hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu và phân tích để làm sáng tỏ bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh.
Tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong việc phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu và Internet, tổng hợp và chọn lọc lại thơng tin, phân tích, nghiên
cứu và từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân
tích và tổng hợp, các phương pháp liên


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ ĐẠO ĐỨC
1. Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức
Nói đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, phải chú ý tới con đường và phương
pháp hình thành đạo đức mới. Đặc điểm và quy luật hình thành tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh cho thấy rõ một số nguyên tắc xây dựng đạo đức mới cơ bản sau đây:
+ Tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, “đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện cành trong.
Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng lồi người. Vì vậy, Hồ
Chí Minh địi hỏi phải “gian nan rèn luyện mới thành công”. “Hiền dữ đâu phải là tính
sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. “Kiên trì và nhẫn nại... Khơng nao núng tinh
thần”.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào
lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Người cách mạng phải ý thức
được đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng con người và là đạo đức của những con
người được giải phóng. Đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm và khuyết
điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Tu dưỡng đạo đức mới
phải gắn với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Như vậy mới phân biệt
được việc tu dưỡng đạo đức của người cộng sản với cách tu dưỡng của các nhà nho.
Người viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải
chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Cịn cỏ dại khơng cần chăm sóc cũng mọc lu
bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Cịn tư tưởng cá nhân thì


cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. Vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân “ví như
rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”.
+ Nêu gương đạo đức, lời nói đi đơi với việc làm
Đây khơng chỉ là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức, mà còn là ranh giới phân
biệt giữa đạo đức cách mạng và không phải đạo đức cách mạng.
Nói nhưng khơng làm là đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột. Lời nói phải đi
đôi với việc làm và thực hành đạo làm gương là đạo đức của người cách mạng nói
chung, nằm trong vốn văn hố phương Đơng nói riêng. Hồ Chí Minh viết: “Nói chung
thì các dân tộc phương Đơng đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống
cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người nhấn mạnh: “Trước mặt

quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm,
mình phải tiết kiệm trước đã”. Người dạy “đảng viên đi trước”, để cho “làng nước theo
sau”.
Đạo làm gương phải được quán triệt trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực:
từ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đến nhà trường, gia đình, xã hội...
Đạo làm gương, lời nói đi đơi với việc làm của Hồ Chí Minh thực sự có một
sức thu hút mãnh liệt, khiến cho cả dân tộc, nhiều thế hệ, các giai tầng xã hội đều tin
tưởng đi theo tiếng gọi của Người.
+ Xây dựng đạo đức mới, đấu tranh với những hiện tượng phi đạo đức
Trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, không phải “người
người đều tốt, việc việc đều hay”. Vả lại, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh
phải lâu dài và gian khổ. Cần có người cách mạng là vì cịn có kẻ chống lại cách mạng.


Có nhiều kẻ địch, nhưng Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba loại: chủ nghĩa tư bản và
bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ
địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá
nhân.
Từ đó Người kết luận: “Đạo đức cách mạng là vơ luận trong hồn cảnh nào,
cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến
đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”. Đối với từng người, Hồ Chí
Minh yêu cầu “trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”. Với việc, với
người thì nhất thiết phải phê phán, đấu tranh, loại bỏ những hiện tượng phi đạo đức,
tàn dư đạo đức cũ. Hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra thì phải tiêu diệt, vì
đó là cản trở lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng phải thấy rằng,
chống là nhằm xây, đi liền với xây và lấy xây làm chính. Lấy gương người tốt để hàng
ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng
các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới.

Ngày nay, tình hình mọi mặt so với thời Hồ Chí Minh cịn sống đã có nhiều
thay đổi. Nhưng nhiều cái xấu, cái ác, cái sai, cái vô đạo đức mà Người đã nêu lên từ
những năm 1925-1927, trong Đường cách mệnh, đặc biệt từ năm 1945 trở đi, đến nay
dưới nhiều biểu hiện khác nhau, vẫn tiếp tục tồn tại. Do đó, quan điểm Hồ Chí Minh
về xây dựng đạo đức mới đấu tranh với những hiện tượng phi đạo đức vẫn có ý nghĩa
thời sự.
2. Nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức
2.1. Vị trí, vai trị và chức năng của đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh

2.1.1. Vị trí, vai trị của đạo đức theo quan điểm Hồ Chí Minh
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng:
Người coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của
cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo
đức thì dù có tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Người từng nói “Cũng
như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù


tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức,
khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì”.
Đạo đức là sức mạnh của con người. Làm cách mạng là một việc lớn nên càng
phải có sức mạnh. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới
là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu
tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Theo Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại,
cũng khơng sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần, thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình
cũng khơng tiếc. Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành cơng vẫn giữ vững

tinh thần gian khổ, chất phác khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Hồ Chí Minh chỉ rõ "tuy năng lực và công
việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ
được đạo đức đều là người cao thượng".
Trên cơ sở xác định vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, Người yêu cầu mỗi
cán bộ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức. Theo
Người, yêu cầu đạo đức người cán bộ cần có là trung với nước, hiếu với dân; cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; thương u con người, sống có tình nghĩa; tinh thần
quốc tế trong sáng. Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Xác


định được vai trò to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương
đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm
cho tồn Đảng, tồn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung cơ
bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư
tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
2.1.2. Những phẩm chất cơ bản của đạo đức cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân.
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, được Chủ tịch Hồ

Chí Minh thừa kế và phát triển trong điều kiện mới. Trung với nước là trung thành vô
hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh
vai với các cường quốc năm châu”. Nước là của dân, dân làm chủ đất nước, trung với
nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”;
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”…Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước
vừa là người lãnh đạo, vừa là “đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng.
Người dạy, mỗi cán bộ đảng viên phải “Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân
dân”, phải “Tận trung với nước, tận hieus với dân”. Trung với nước, hiếu với dân là
phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình,
hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ
nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của
Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình.


Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền
thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao
đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong
quan hệ xã hội.
Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm
khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với
những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Yêu thương con người là
giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện tự phê bình
và phê bình, chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không
ngừng tiến bộ. Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải
phóng con người.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm
chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, là
mối quan hệ “với tự mình”. Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính
của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Chí cơng vơ tư là đặt lợi ích
của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải trọng lợi ích của cách mạng
hơn tính mệnh của mình. Phải hy sinh lợi ích của mình cho Đảng; việc của cá nhân và
lợi ích của cá nhân để lại sau. Theo Bác, chí cơng vơ tư là đạo đức cao nhất.
Muốn chí cơng vơ tư thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. Bởi vậy, Hồ
Chí Minh coi đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “Giữ cán cân cơng lý”.
Khơng được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí cơng vơ tư. Cần,
kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư. Ngược lại, đã chí cơng vơ tư, một lịng vì
nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Tinh thần qc tế trong sáng


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế là sự mở rộng những quan
niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là
“Người Việt Nam nhất”, đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam mang tầm vóc
nhân loại, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc
tế.
Quan niệm đạo đức về tình đồn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể
hiện trong các điểm sau: Đồn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung
đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đồn kết quốc tế giữa những
người vơ sản tồn thế giới vì một mục tiêu chung, “Bốn phương vơ sản đều là anh
em”. Đồn kết với nhân loại tiến bộ vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Đoàn kết
quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến
chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa xơ vanh, vị kỷ,
hẹp hịi, kỳ thị dân tộc…
Nguyên tắc xây dựng đạo đức.

Hồ Chí Minh nêu lên ba nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và
chính Người đã suốt đời khơng mệt mỏi tự rèn mình làm tấm gương để giáo dục, động
viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện.
Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đơi với việc làm. Nói đi đơi với làm trước hết
là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo
với nhân viên…là rất quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh
chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán
bộ, nhân viên…Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt
quần chúng, khơng phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Xây đi đôi với chống.


Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất
thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu
của đạo đức mới, chống “chủ nghĩa cá nhân”. Xây đi đôi với chống là muốn xây phải
chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chống
chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình
đến nhà trường, tập thể và tồn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể
hóa. Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp,
tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy
ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác
thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ
nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần
chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động Cuộc thi đua
“Ba xây, ba chống”, viết sách, “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo

đức, lối sống.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ mới thành. “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”. Người dạy: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân”.
Tu dưỡng đạo đức, tự rèn luyện hằng ngày có vai trị rất quan trọng. Người
khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có
thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, khơng tự lừa
dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái


xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động
thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của
mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất.
Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách vô
cùng quý giá; là ngọn đuốc soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam vượt qua mn
vàn khó khăn, thử thách trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho vị thế, uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao.
Đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là yêu
cầu, trách nhiệm, nhưng đồng thới cũng là tình cảm, là nguyện vọng tha thiết của mỗi
cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam yêu nước, để xây dựng một đất nước Việt
Nam giàu đẹp, dân chủ; dân tộc Việt Nam độc lập.
3. Ý nghĩa quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức

Có thể nói, trong suốt cuộc đời, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức
có một ý nghĩa vơ cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan trọng.
Mỗi xã hội hình thành và phát triển đều dựa trên một nền tảng nhất định. Sự phát triển
của xã hội Việt Nam cũng vậy, nó địi hỏi phải có một nền tảng cho sự phát triển lâu
dài, bền vững, trong đó khơng thể thiếu lĩnh vực đạo đức. Đạo đức, một hình thái ý
thức xã hội, được hình thành thơng qua vai trị chủ động, tự giác của con người. Do đó,
việc hình thành một nền đạo đức - nền tảng tinh thần cho sự phát triển bền vư ñ g của xã
hội Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải có định hướng và phù hợp với thực tiễn
phát triển của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức chính là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
việc xây dựng nền đạo đức Việt Nam hiện nay và mai sau. Đó là sự kết tinh của những
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa giá trị đạo đức của nhân
loại, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, hướng tới
những giá trị mang tầm thời đại.


Cơ sở để đôi ngũ cá n bô,, đảng viên tu dưỡng, rèn
luyên

đạo đức. Xã hội ngày
nay đang tồn tại một
bộ phận dân cư xem
nhẹ các giá trị đạo
đức, chạy theo tiền
tài, địa vị, bất chấp
đạo lý, coi thường
pháp luật và tình
nghĩa

con


người.

Một nguyên nhân
quan trọng của vấn
đề này là trong một
thời gian dài, đứng
trước

những

khó

khăn về kinh tế - xã
hội, chúng ta đã tập
trung

nhiều

cho

phát triển kinh tế,
trong khi đó
nhận thức chưa đầy
đủ về vị trí, vai trị
của đạo đức trong
đời sống xã hội. Một
xã hội Việt Nam
muốn


phát

triển

trong tương lai chắc
chắn không thể để
tình trạng đó tiếp
tục diễn ra. Với ý
nghĩa là nền tảng tư
tưởng cho việc xây
dựng nền đạo đức


mới, học tập và thực hành theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo

sớm, một chiều, dễ

đức thực sự là giải pháp quan trọng nhất, giúp xác lập lại vị

dàng có được, mà

trí, vai trị của đạo đức - yếu tố gốc rễ, nền tảng tinh thần của

phải trải qua một

mỗi con người.

quá trình tu dưỡng,

Cơ sở những chuẩn mực đạo đức cơ bản của con

người Việt Nam hiện tại và tương lai. Mỗi một mơ hình xã
hội mới địi hỏi phải có những con người mới cụ thể với
những phẩm chất năng lực cụ thể để xây dựng và phát triển
xã hội đó. Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước hiện tại và tương lai chắc chắn phải trải qua một q
trình khó khăn, gian khổ. Chủ ticc h Hồ Chí Minh xác định
rõ, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có
những con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người
vừa có tài, vừa có đức. Riêng về khía cạnh đạo đức, trước hết
phải là những người có tinh thần yêu nước, thương dân, đặt
lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết; là những người
luôn luôn gắn bó với nhân dân, u thương, kính trọng
nhân dân và do đó được nhân dân yêu mến, quý trọng,
được dân tin, dân phục, dân yêu; là những con người có ý
thức trách nhiệm với cơng việc, có tinh thần lao động
siêng năng, cần cù, lao động với năng suất và chất lượng cao,
tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
Cơ sở để xây dựng những nguyên tắc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức của con người Việt Nam hiện đai . Trên thực
tế, trong xã hội Việt Nam hiện nay, tình trạng suy thối,
xuống cấp về đạo đức xã hội trong một bộ phận dân cư
không chỉ do thiếu sự nhận thức đúng đắn và thống nhất về vị
trí, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, về các chuẩn
mực đạo đức xã hội, mà cịn có một phần nguyên nhân do
chưa có sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức đúng đắn và thống
nhất trên cả phương diện lý thuyết và thực hành. Để hình
thành được các chuẩn mực đạo đức không phải là điều một

rèn luyện đạo



đức. Đó chính là q trình trên cơ sở đã nhận thức thấu đáo vị trí, vai trị của đạo đức,
sự cần thiết phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức; từ đó, mỗi người trở thành chủ thể của
q trình tự giáo dục đạo đức, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo những chuẩn mực
chung của xã hội; nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức và tu dưỡng đạo đức
suốt đời.
Ngồi ra, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức phần đã góp phần khẳng định cuộc
đời, sự nghiệp cách mạng cao cả và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam cũng như với phong trào cộng sản và cơng nhân
quốc tế. Đó là biểu tượng sáng ngời về đạo đức và ý chí cách mạng kiên cường, bất
khuất; về tinh thần độc lập tự chủ và bản lĩnh sáng tạo; về lòng yêu nước, thương dân
tha thiết; về đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư và phong cách giản dị,
khiêm tốn.
Và cuối cùng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã phần nào nêu bật chân dung Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - Lãnh tụ mn vàn kính u của dân tộc Việt Nam, Người
chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực, người bạn thân thiết của các dân tộc đã và đang
đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Khắc họa đậm nét tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nhà văn hóa kiệt
xuất, “một nhà chiến lược thiên tài, một mẫu mực tuyệt vời về nhân cách, đạo đức và
lối sống”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã trở thành một di sản tinh thần vô cùng to
lớn và quý giá đối với Đảng và dân tộc ta; ngày càng giữ vị trí nổi bật trong công cuộc
xây dựng đời sống tinh thần của xã hội, góp phần quan trọng để điều chỉnh hành vi và
xây dựng đạo đức mới, con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VÀO GIÁO
DỤC HẠN CHẾ SỰ VƠ CẢM TRONG GIỚI TRẺ
HIỆN NAY.
1. Khái niệm vơ cảm

Vơ cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dưng, thờ ơ, “máu lạnh” với những
hiện tượng đời sống diễn ra xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân.
2. Thực trạng về sự vô cảm trong giới trẻ hiện nay
Vấn đề vô cảm trong xã hội hiện nay đang là
môt

baì toań vô cuǹ g thách đố cho

gia điǹ h, nhà trườ ng và xã hôi. Đăc biêt nó đang ngaỳ caǹ g phat́ triển và lan rộng trong
giớ i trẻ. Giớ i trẻ là thế hê cc ó nhiều cơ hội học hỏi, trau dồi kiến thức,
đươc

tiếp
cân

vớ i

nền giaó duc ngaỳ caǹ g tốt hơn nhằm đào tạo những con người có tri thức, có đạo đức,
để phục vụ cho xã hội, dẫn đưa đất nước đến một nền văn minh tiên tiến, theo kịp đà
tiến bộ của các nước trên thế giới. Nhưng đa ń g buồn thay khi những hình ảnh vơ cảm
và thiếu đạo đức của giới trẻ được lan truyền trên các phương tiện truyền thông, đưa
lên mặt báo hay chúng ta đã tận mắt chứng kiến những cảnh tương vô cùng đau lòng.
Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào để tim
̀ hiểu rõ hơn về thưc trang sự vô cảm trong giớ i
trẻ
nay.
hiên
2.1. Trong thời kì dịch bệnh
Trong bối cảnh dicc h bênh đang hoành hành cần lắm sự đồng lòng, sẻ chia, giú p
đỡ lẫn nhau để đất nướ c ta

vươt

qua dicc h bênh. Ấ y
vây

mà đâu phải ai cũng để tâm

nên mới có nhiều chuyện gây phẫn nơ c cho bao ngườ i và đè thêm gá nh nănc g cho hê
thống y tế, cho những bác sĩ chống dicc h đang từ ng giây từ ng phút giành
giât

lai sư

sống của bênh nhân vớ i tử thần. Đứng trước những hồn cảnh có thể làm “buốt tim”
người này, nhưng lại là sự thờ ơ, dửng dưng “xơ cứng cảm xúc” của kẻ khác. Bởi thế
mới có bao nhiêu chuyện chướng tai, gai mắt xảy ra. Chẳng hạn, ngay trong đại dịch
COVID-19, trong khi cả hệ thống từ y tế, qn đội, cơng an, chính quyền các cấp, rồi


bao nhiêu lực lượng tình nguyện khác… đã ngày đêm thần tốc truy vết, lấy mẫu xét
nghiệm bất chấp thời gian, bất kể đói khát, sẵn sàng xả thân… đến sức cùng, lực
kiệt… đem lại cuộc sống bình yên cho bao người… thì nhiều người lại “lạnh lùng”, vơ
cảm… Đã thế cịn có nhiều hành vi cản trở, gây khó, thậm chí cịn chống đối khơng


hợp tác với những người hy sinh… vì mình. Khi yêu cầu “ở yên trong nhà” thì lại lén
lút tụ năm, tụ bảy, tổ chức nhậu nhẹt, karaoke ngay trong khu cách ly. Khi yêu cầu
khai báo y tế thì vịng vo, tìm cách qua mặt, trốn tránh lực lượng làm nhiệm vụ - chắc
họ nghĩ, qua mặt được lực lượng là “qua mặt” được cả virus. Còn khi đươc yêu cầu
cać h ly tai nha thi lai ngang nhiên đi rong ruổ i nhiều nơi, tu c

̀ ̀
tâp

đông ngườ i để nhâu

nhet, ca hát như chẳng có chuyên xảy ra. Ngay cả khi ở trong khu cách ly cũng tìm
mo cach để trốn ra. Trong bối canh dicc h bênh nay tự do, thoai mai quan trong hơn sư c
́
̉
̀
̉
́
́
i
khỏe, tiń h man g sao? Những hành vi vô cảm thiếu ý thứ c này đâu chỉ ảnh hưở ng đến
mô ca nhân ma no anh hươ ng đến sư c khoe va tinh man g cua gia đinh, be va xa
́
̀ ́ ̉
̉
́
̉
̀ ́
̉
̀ ̀
̀
t
ban
hơi. Có thể xem tất cả những hành vi này là sự buông thả với bản thân, thiếu ý thức
trách nhiệm với bản thân, với cuộc sống bắt nguồn từ lối sống vô cảm. Cao hơn nữa là
sự vô tâm, vô đạo đức

2.2. Trong cá c vấ n đề xã hôị khá c:
Nhưng không chỉ có trong mùa dịch, mà hầu như lúc nào, bất cứ đâu, trong mọi
ngõ ngách của đời sống đều có sự hiện diện ít nhiều của bệnh vơ cảm. Có thể nói, nó
đã trở thành căn bệnh của xã hội. Thiết nghĩ, không chỉ bây giờ mà căn bệnh vơ cảm
đã có từ lâu, chỉ có điều có khi “lộ mặt” mà ta chưa nhận ra. Và căn bệnh ấy có chiều
hướng lây lan - xã hội hiện đại thì sự lây lan rộng hơn, nhanh hơn. Theo thời gian, nó
tác động đến tâm lý xã hội, dần dần hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận
giới trẻ (có cả người lớn) - Thực dụng trong vơ cảm. Chẳng hạn việc học sinh đánh
nhau, đánh hội đồng một bạn nào đó. Nhưng đáng buồn ở đây khơng chỉ là vấn nan
ba lư ho đườ ng mà coǹ là số khác thờ ơ đứng nhìn và cịn cổ vũ, kích động…, số
o c c
khác nữa thì khơng ủng hộ mà cũng khơng can ngăn, lại cịn thản nhiên lấy điện thoại
livestream, chụp hình rồi tung lên mạng. Hay thấy kẻ móc túi trên xe ngay trước mắt
mình vẫn coi như không thấy, làm ngơ, mặc kệ “việc ai nấy làm”. Ngay khi gặp người
bị tai nạn thì xăng xái xúm lại xem một cách hiếu kỳ, nhưng rồi lẳng lặng bỏ mặc
người bị nạn, bởi đó khơng phải là việc của mình. Sự viêc đau loǹ g gần đây nhất do sư


vô cả m gây ra có thể kể đến là vu c
viêc
Nhâ Ban. Sự
̉
t
viêc

mô nam thanh niên ngườ i
t
Viêt

bi csat́ hai tai


nà y không chỉ là m ta thấy sơ c hãi trướ c sưc tà n nhẫn, vô nhân tính

cuả hung thủ mà coǹ lam
̀ cho ta “buốt tim” trướ c sự thờ ơ đến lanh ngườ i cuả nhưñ g


ngườ i chứ ng kiến vu c viêc. Điều đá ng nó i hơn cả có nhữ ng ngườ i chứ ng kiến là
ngườ i
Viêt Nam
vây
khích,
thâm

mà thay vì goi cảnh sat́ thì goi cả nh sá t thì ho c đứ ng đó cườ i đù a
phấn
chí còn cổ cũ, rồi thản nhiên lấy điên thoa quay trướ c cảnh đồng bào
i

mình bi hc ành ha
m
c ôt
Dân
tôc

cách dã man để rồi dẫn đến môt cái kết đầy đau thương như vây.

ta từ xưa đến nay luôn lan tỏa tinh thần tương thân tương aí , “Thương ngườ i

như thể thương thân”,

“Môt

con
ngưa

đau cả taù bỏ cỏ”, nhưng
tai

sao nhưñ g kẻ đó lai

dử ng dưng “xơ cứ ng cam
̉ xuć ” như vây? “Chỉ có con vật mới quay lưng với nỗi đau
của đồng loại” - đây là câu nói của Các Mác. Khơng biết cái thời của ơng đã có “căn
bệnh vô cảm” hay chưa mà ông phẫn nộ đến vậy. Hay ơng nói câu này là để dự đốn
cho tương lai.
3. Nguyên nhân sự vô cảm trong giới trẻ hiện nay
Trong thời đại mới con người đã nhận được rất nhiều sự tiện ích từ các cơng
nghệ máy móc tiên tiến nhưng đồng thời nó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng vơ
cảm và tha hố đạo đức của giới trẻ, nhưng tựu chung, cái gốc chính là cách sống của
giới trẻ ngày nay, và cách giáo dục nhân bản từ trong gia đình cho đến nhà trường và
ngồi xã hội còn quá thờ ơ, hời hợt.
Đầu tiên phải kể tới đó chính là ngun nhân xuất phát từ chính bản thân con
người. Do bản thân họ thiếu tình yêu thương, thiếu lòng quảng đại; họ sống bằng thứ
lý trí sắt đá, tình cảm khơ cằn của mình. Thêm vào đó, do ngoại cảnh tác động: khi
một con người bị chính cái xấu hãm hại, khi mà những điều tốt đẹp khơng xảy đến với
bản thân, thì họ sẽ trở nên hận đời và vô cảm trước cuộc đời. Họ khơng cịn lịng tin
vào điều tốt, thế nên họ vô cảm trước những điều tốt đẹp trên cuộc đời này.
Trên đường đi, gặp người bị nạn, họ bỏ đi, chẳng thèm quan tâm sống chết ra
sao, hoặc có ghé lại thì cũng chỉ để thỏa mãn tính hiếu kỳ, giương đơi mắt ếch nhìn
chung quanh, khơng hề giúp đỡ nạn nhân vì họ sợ phải gánh trách nhiệm. Gặp kẻ bất



hạnh, tàn tật nằm bên vệ đường, họ chẳng những khơng thương xót mà cịn khinh bỉ, rẻ
rúng những con người kém may mắn đó. Quả thật, đó là những hành động đáng lên án.
Sự vô cảm bắt nguồn từ lối sống ích kỷ, thực dụng, hưởng thụ là nguyên nhân khiến


người ta cảm thấy cuộc sống nhàm chán, đơn điệu, vô nghĩa. Hậu quả là, những xúc
cảm đạo đức bị hạn chế, thậm chí bị triệt tiêu.
Nguyên nhân thứ hai cần phải quan tâm đến là do xuất phát từ mơi trường sống,
đặc biệt nhất là gia đình. “Gia đình chính là tế bào của xã hội, gia đình mà tốt đẹp thì
xã hội mới tốt đẹp được” – đây chính là bài học giáo dục cơng dân của học sinh cấp II.
Gia đình ảnh hưởng rất nhiều trong sự hình thành và phát triển của mỗi người. Trong
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ông cha ta đã khuyên: “Dạy con từ thuở còn thơ”,
cũng tựa như uốn cây tre, phải uốn từ lúc tre còn non. Thế mà ngày nay, trong nhiều
gia đình, cha mẹ rất ít dạy con có sự đồng cảm với người khác, với những người chung
quanh. Bởi lẽ, cha mẹ thiếu gương mẫu về đạo đức, về lối sống, cũng không quan tâm
dạy bảo con cái. Hiện nay, có bao nhiêu bậc cha mẹ chịu bỏ thời gian dạy con cái về
những giá trị đạo đức, lối sống tốt?
Hơn nữa, nhiều phụ huynh vì cưng chiều con nên đáp ứng tất cả những yêu cầu
vô lối của con một cách vô điều kiện. Thế nhưng, họ lại không dạy con phải biết chia
sẻ, quan tâm và có trách nhiệm với người thân, với bạn bè. Một đứa trẻ chỉ biết "nhận"
chứ không biết "cho" sẽ nghèo nàn về cảm xúc, vơ tâm trước địi hỏi của tình người,
và bàng quan trước nỗi đau của kẻ khác.
Đáng buồn nhất nguyên nhân thứ ba có khi là do môi trường từ trường lớp. Nhà
trường là nơi đào tạo ra những con người có tài đức, biết quan tâm đến mọi người và
tích cực phục vụ cho nhân quần xã hội. Thế mà ngày nay, trong một số trường học,
người ta chỉ chú tâm đến việc nhồi nhét tri thức, còn vấn đề đạo đức dường như đang
bị bỏ ngỏ, thậm chí có những trường dạy mơn giáo dục công dân qua loa lấy lệ.
Thầy cô được xem như người cha, người mẹ thứ hai của học sinh. Bên cạnh

một số thầy cô mẫu mực, nhiệt huyết với việc giáo dục, vẫn cịn đó những thầy cơ
chưa thực sự mẫu mực. Những hành động không tốt của giáo viên ít nhiều xâm nhập
vào thế giới quan của giới trẻ, dần dà hình thành lối hành xử thơ bạo, thiếu tình
thương. Nếu họ vơ cảm thì sẽ thiếu tình thương dành cho những đứa con của mình,
thiếu nhiệt tình và trách nhiệm trong việc giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho học sinh.
Vì “vơ cảm” họ cũng sẽ “đào tạo” ra những học trị vơ cảm như họ. Như thế, ta phải


nói sao về những chủ nhân tương lai của đất nước? Đây chính là một mối họa lớn cho
xã hội.
Và nguyên nhân cuối cùng là ảnh hưởng bởi xã hội. Một phần do ảnh hưởng
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, thế hệ trẻ hiện nay đã thay đổi cách thức
làm việc, giao tiếp và tư duy, dẫn đến giới trẻ sống vô cảm không quan tâm đến những
việc xung quanh. Theo GS. Mark Bauerlein (Mỹ), khi càng sử dụng Internet thì người
ta càng lơ là với những gì diễn ra xung quanh. Khi mạng xã hội xuất hiện, giới trẻ
được tự do thể hiện mình trong thế giới ảo nhưng đồng thời dẫn đến một bộ phận giới
trẻ sẽ có lối sống bất thường và dẫn tới trầm cảm hay vô cảm, …
Không chỉ vậy, nền kinh tế thị trường có tác động khơng nhỏ đến đạo đức
truyền thống: một mặt, nó làm cho những giá trị truyền thống được phát huy, những
giá trị đạo đức mới được hình thành; mặt khác, nó làm nảy sinh tư tưởng ích kỷ, lãng
quên trách nhiệm cộng đồng, đề cao cái tôi cá nhân lên trên cái ta cộng đồng, lấy giá
trị vật chất làm thước đo cho tất cả. Thạc sĩ tâm lý Nguyễn Thị Minh cho rằng:
“Dường như đang có một cuộc khủng hoảng niềm tin trong xã hội hiện đại dẫn đến các
bạn trẻ sống vô cảm".
Hơn nữa, căn bệnh vô cảm là kết quả của một lối sống thực dụng ngày càng ăn
sâu vào văn hóa của xã hội ngày nay. Khi mà các giá trị sống, giá trị đạo đức tinh thần,
lòng bao dung nhân ái, tình thương yêu đồng loại, sự hy sinh... đang dần bị thế chỗ cho
chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa duy lợi và chủ nghĩa cá nhân, thì con người khơng cịn
cảm giác trước nỗi đau của đồng loại. Đây là một vấn đề rất lớn không chỉ đối với một
cá nhân mà còn là một thử thách lớn của đất nước.

4. Biện pháp nhằm hạn chế sự vô cảm trong giới trẻ hiện nay
Có thể thấy căn bệnh vơ cảm chỉ là một lối sống, lối ứng xử thiếu vắng tình
người. Nó khơng phải là tội ác nhưng lại là một trong những nguyên nhân gây ra tội
ác. Nhìn theo gốc độ tâm lí học, vơ cảm là một hội chứng thần kinh sảy ra khi con
người bất mãn với xã hội. Nhìn về mặt xã hội, vơ cảm là sự suy giảm của các chuẩn
mực đạo đức và cách ứng xử của con người. Dù nhìn ở bất kì gốc độ nào thì vơ cảm


×