Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về quyền con người và sự vận dụng quan điểm ấy trong việc thực hiện quyền con người ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.87 KB, 77 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
----------

PHẠM THỊ THẢO

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền
con người và sự vận dụng quan điểm ấy trong việc
thực hiện quyền con người ở nước ta hiện nay

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong toàn bộ các vấn đề của loài người, quyền con người là vấn đề có lịch sử
lâu đời cả về phương diện thực tiễn cũng như lý luận. Đó ln ln là mối quan tâm
của nhân loại ở mỗi thời điểm lịch sử của nó. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, vấn đề
con người lại được đặt ra gắn liền với thành quả của những cuộc đấu tranh cách
mạng, đấu tranh xã hội, phản ánh trình độ tiến bộ, cấp độ của sự giải phóng con
người trong từng giai đoạn. Giai cấp, tầng lớp thống trị nào công nhận, đề cao
quyền con người sẽ ln ln giữ vững được vai trị lãnh đạo của mình. Chẳng thế
mà giai cấp tư sản trong thời kỳ khẳng định, xác lập địa vị thống trị đã ln dương
cao ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái nhằm tập hợp, lôi kéo nhân dân ủng hộ giai cấp
mình trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến. Đến lượt mình, giai cấp vơ sản
khi bước lên vũ đài chính trị, khi tập hợp xây dựng lực lượng đấu tranh chống áp
bức, đòi các quyền lợi cơ bản, thực tiễn cho con người cũng đã đưa ra nhiều khẩu
hiệu, tư tưởng về bình đẳng, về xóa bỏ giai cấp - nền tảng để con người đạt được sự


tự do tuyệt đối. Đương nhiên, do những giới hạn lịch sử khách quan, mỗi giai cấp
thống trị ở một thời kỳ lịch sử chỉ có thể đáp ứng và đảm bảo quyền con người ở
một mức độ, một nấc thang nhất định.
Giải phóng con người và vì con người là tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Mác Lênin, trong đó những quan điểm về quyền con người là sự thể hiện bản chất nhân
văn, nhân đạo của nó. Vì vậy nghiên cứu triết học Mác - Lênin về quyền con người
là một việc làm cần thiết để thấy rõ hơn tư tưởng nhân đạo cao cả của chủ nghĩa
này và thơng qua đó đập tan những luận điệu xuyên tạc, không đúng sự thật về bản
chất, ý nghĩa, giá trị tốt đẹp của nó.
Trước chủ nghĩa Mác, đã có nhiều tư tưởng về quyền con người xuất hiện
nhất là vào thời kì Phục hưng và Khai sáng ở Tây Âu vào cuối thế kỉ XVI- XVIII.
Tuy vậy đa phần các học thuyết đó đều mang tính trừu tượng và bảo vệ cho những
đặc quyền, đặc lợi của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy sự ra đời của chủ nghĩa Mác với
những quan điểm đúng đắn về quyền con người dựa trên phép biện chứng và chủ


nghĩa duy vật lịch sử đã khắc phục được những thiếu sót và sai lầm của các thuyết
nhân quyền trước đây đồng thời tạo ra một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển
của tư tưởng về quyền con người.
Ở nước ta khi nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mới được khai sinh,
vấn đề nhân quyền đã được đề cập và nhắc đến như một vấn đề có tính chất hiện
hữu, gắn chặt với độc lập tự do của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Nếu có độc lập mà dân khơng được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Quán triệt sâu sắc vấn đề này, trong suốt quá trình xây dựng
đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhà nước ta ln ln có sự quan
tâm, chăm lo tới vấn đề quyền con người, quyền công dân của quảng đại quần
chúng nhân dân lao động.
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, đất nước đã có nhiều thay đổi từng bước tiến
vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội, vấn đề chăm lo đời sống con người lại càng cấp
thiết hơn bởi có đảm bảo vững chắc quyền con người mới xây dựng được lòng tin
của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.

Trên thực tiễn vấn đề thực hiện quyền con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại một số
hạn chế, yếu kém cần phải khắc phục. Nghiên cứu, đẩy mạnh và thực hiện tốt hơn
nữa quyền con người vừa giúp Đảng và Nhà nước có những quyết sách chính trị
đúng đắn về vấn đề này đồng thời cũng là cơ sở để chúng ta xác lập những quyền
con người cơ bản cho quần chúng nhân dân.
Trong những năm gần đây, tình hình nhân quyền ở Việt Nam tuy đã được
đảm bảo thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội, tuy vậy, vẫn bị một số những thế
lực thù địch, phản động, xuyên tạc và lợi dụng vấn đề này để có những tun truyền
sai trái về tình hình quyền con người của nước ta nhằm gây kích động bạo loạn và
làm mất niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước. Đứng trước tình hình đó,
việc nghiên cứu và ứng dụng chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề quyền con người là
cần thiết, vừa nhằm phản bác lại những lập luận sai lầm, bóp méo sự thật về tình
hình nhân quyền ở nước ta của các thế lực thù địch, vừa là để khẳng định và làm


cho nhân dân thế giới hiểu rõ những thành tựu, những cố gắng của nước ta trong
việc thực hiện quyền con người trong bối cảnh hiện nay.
Vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về quyền con người và sự vận dụng quan điểm ấy trong
việc thực hiện quyền con người ở nước ta hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp đại học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ra đời và tồn tại gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người và đặc biệt
được đề ra rõ nhất khi xã hội loài người có sự xuất hiện giai cấp, vì vậy vấn đề
quyền con người được coi là kim chỉ nam xuyên suốt chiều dài lịch sử loài người.
Trong những năm gần đây, quyền con người được nghiên cứu mở rộng trên nhiều
bình diện, ở nhiều quốc gia khác nhau trong đó có nước ta.
Ở ngồi nước chúng ta có thể kể tới một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về
quyền con người như Jacques Mourgon với cuốn “Quyền con người” (Nxb đại học

Pháp, 1993); Wolfgang Benedek (chủ biên) với cuốn “Tìm hiểu về quyền con người
- Tài liệu hướng dẫn về giáo dục quyền con người” (Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008).
Dưới sự tiếp cận của các học giả nước ngồi, quyền con người được nhìn nhận,
nghiên cứu chủ yếu thông qua các văn kiện, các công ước quốc tế về vấn đề quyền
con người, đặc biệt là thông qua hai bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776)
và Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền (1789) của cách mạng Pháp. Dưới góc độ
triết học, các tư tưởng của những nhà triết học, kinh điển chưa được chú trọng
nghiên cứu nhiều.
Ở trong nước, quyền con người cũng là một vấn đề được các học giả chú ý
tìm hiểu. Cuốn “Mác - Ăngghen về quyền con người” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1998) là tác phẩm do trung tâm nghiên cứu về quyền con người tuyển chọn và
giới thiệu. Cuốn sách đã bao gồm những đoạn trích dẫn trong các tác phẩm của
Mác và Ăngghen đề cập đến một số chủ đề về quyền con người. Tuy vậy cuốn sách
cũng chỉ mới đề cập tới những tác phẩm trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa Mác mà


đã bỏ qua hàng loạt những tác phẩm quan trọng sau này của chủ nghĩa Mác có liên
quan trực tiếp đến các vấn đề nhà nước, pháp luật và nhân quyền.
Cuốn “Triết học chính trị về quyền con người” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2005) của Tiến sĩ Nguyễn Văn Vĩnh đã đề cập đến khái niệm tư duy chính trị
về quyền con người dưới góc độ triết học, về sự vận dụng của tư duy chính trị về
quyền con người trong lịch sử phương Đông và phương Tây. Tác phẩm cũng đã
trình bày một cách khá hệ thống về quyền con người ở nước ta trong giai đoạn
trước và sau cách mạng tháng Tám đồng thời bước đầu có đề xuất một số giải pháp
nhằm đảm bảo quyền con người ở nước ta hiện nay.
Quyền con người trong hệ thống triết học của Lênin cũng rất được các nhà
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Cuốn sách “Tư tưởng của V. I. Lênin về quyền con
người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010) của
tác giả Hoàng Mai Hương và Nguyễn Hồng Hải đã đề cập một cách khá toàn diện
và đầy đủ hệ thống quan điểm, tư tưởng của Lênin về vấn đề dân chủ, quyền dân

tộc tự quyết, quyền chính trị và quyền tham gia. Cuốn sách cũng đã làm sáng tỏ
nguồn gốc, cơ sở hình thành tư tưởng của V.I.Lênin về quyền con người cũng như
những ý nghĩa và giá trị thực tiễn của nó đối với nước ta trên các phương diện thực
hiện dân chủ, quyền tự quyết và quyền tham gia của quần chúng nhân dân.
Cùng chung nghiên cứu về chủ đề này chúng ta có thể kể tới cuốn “Tư tưởng
về quyền con người: tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam” của tập thể các tác giả
hiện đang công tác tại khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội biên soạn do Nxb Lao
động - Xã hội ấn hành năm 2011. Tuyển tập đã giới thiệu một cách toàn diện, bao
trùm tư tưởng về quyền con người trong lịch sử nhân loại xuyên suốt từ thời kỳ cổ
đại, trung đại, thời kỳ khai sáng cho tới tư tưởng nhân quyền của nhân loại trong
thế kỷ XX. Cũng trong tuyển tập, tư tưởng về nhân quyền, quyền con người trong
lịch sử Việt Nam cũng được chỉ ra một cách cặn kẽ, cụ thể với những đại biểu,
những nhà tư tưởng lớn như Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc.


Tiếp diễn dòng chảy chung của việc nghiên cứu vấn đề quyền con người, tập
thể các tác giả làm việc tại khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã biên soạn
và cho xuất bản cuốn “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” (Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009); “Hỏi đáp về quyền con người” (Nxb Công an
nhân dân, 2010) đề cập và nghiên cứu vấn đề quyền con người trên rất nhiều bình
diện và ý nghĩa khác nhau.
Ngồi ra cịn có nhiều bài viết của nhiều tác giả đăng tải trên các báo, tạp chí
cũng đề cập tới vấn đề quyền con người như: Tiến sĩ Phạm Ngọc Anh “Quyền con
người ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp đảm bảo phát triển” (Tạp chí
Bảo hiểm xã hội số 8/2007); “Nhân quyền ở Việt Nam - nhìn từ sự phát triển, tiến
bộ xã hội” (Tạp chí Cộng sản số 53/2004); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con
người” (Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh).
Các tác phẩm, bài báo, bài viết tuy có đề cập, nghiên cứu tới vấn đề quyền con
người nhưng hầu hết chưa đề cập, xây dựng được một hệ thống những quan điểm

của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người, đồng thời, chưa chỉ rõ sự vận dụng
của Đảng và nhà nước ta về vấn đề này trong thực tiễn đời sống chính trị của đất
nước hiện nay mà chỉ mới dừng lại ở việc xem xét một cách riêng lẻ từng khía cạnh
trong vấn đề quyền con người của chủ nghĩa Mác.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích: Trên cơ sở nêu bật lên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về quyền con người, đề tài soi rọi, phân tích vào thực tiễn việc thực hiện quyền con
người ở nước ta hiện nay và từ đó đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm thực
hiện tốt và đầy đủ hơn nữa vấn đề quyền con người.
* Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích đã đề ra, đề tài tập trung giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ bối cảnh lịch sử ra đời các quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin về quyền con người.
- Làm rõ nội dung các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con
người.


- Xem xét tình hình thực hiện quyền con người ở nước ta hiện nay thông qua
việc nêu lên một vài thành tựu cũng như hạn chế của nó.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn nữa quyền con
người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với điều kiện nghiên cứu và năng lực có hạn, chúng tơi chỉ đi sâu tìm hiểu,
làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người và thực tiễn
quyền con người ở nước ta hiện nay. Vấn đề bối cảnh lịch sử ra đời cho sự ra đời
các quan niệm về quyền con người của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng được đề cập
nhưng chỉ là cơ sở, tiền đề để tìm hiểu sâu sắc và đầy đủ hơn những quan điểm của
chủ nghĩa Mác.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận là những quan điểm

của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với quan điểm
đổi mới tư duy của Đảng cộng sản Việt Nam tròn bối cảnh hiện nay.
* Phương pháp luận nghiên cứu: Để hồn thành khóa luận, chúng tôi đã sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử với việc nắm vững và vận
dụng các nguyên tắc lịch sử cụ thể và toàn diện. Đồng thời đề tài cũng sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp và đánh giá để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài đã cố gắng trình bày một cách tương đối có hệ thống quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người và thực tiễn quyền con người ở nước ta
hiện nay. Vì vậy, kết quả của đề tài nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu học tập,
tham khảo cho các bạn sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu triết học Mác Lênin, cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
- Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã có sự tích lũy được kiến thức
của mình về vấn đề nghiên cứu, đồng thời mong muốn với những giải pháp đề tài


đưa ra sẽ giúp Đảng và nhà nước thực hiện, đảm bảo tốt hơn nữa quyền con người
ở nước ta hiện nay.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài khoá luận
được cấu trúc gồm 2 chương, 4 tiết.


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ QUYỀN
CON NGƯỜI
1.1. Bối cảnh lịch sử ra đời quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con
người
1.1.1. Những điều kiện về kinh tế, chính trị - xã hội
Quá trình hình thành, phát triển quan niệm về quyền con người của chủ
nghĩa Mác không tách rời quá trình hình thành, phát triển của triết học Mácxít, kinh

tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Với giai đoạn của Mác và Ăngghen,
nó bắt đầu từ những năm 40 của thế kỉ XIX và tiếp tục được hồn chỉnh trong giai
đoạn sau đó. Đây chính là giai đoạn lịch sử đặc biệt khi mà các cuộc cách mạng tư
sản dưới ngọn cờ tự do, bình đẳng, nhân quyền đã thắng lợi ở rất nhiều nước như
Anh, Hà Lan, Pháp, Mỹ, dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Tây
Âu và Bắc Mỹ. Cũng trong khoảng thời gian này, một số nước như Anh, Pháp cũng
đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp đã đưa sản xuất tăng cao, lực lượng sản
xuất xã hội cũng đã tăng lên rất nhiều. Sự phát triển nhanh chóng của sản xuất cơng
nghiệp chứng minh rõ ràng tính chất tiến bộ của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa so với chế độ phong kiến và các chế độ xã hội trước đây. C.Mác đã khẳng
định: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo
ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả
các thế hệ trước kia cộng lại” [37, tr.380]. Chính sự phát triển đến cao độ của chủ
nghĩa tư bản đã làm bộc lộ hàng loạt những mâu thuẫn bên trong vốn có của nó. Đó
là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao với quan hệ sản
xuất dựa trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Các
nhà tư bản trong sản xuất đã luôn luôn mong muốn chiếm đoạt được nhiều giá trị
thặng dư nhất từ những người cơng nhân lao động, biến họ thành một món hàng
sinh lời cao. Người công nhân trong chủ nghĩa tư bản vừa bị chiếm đoạt sức lao
động lại vừa không được hưởng những quyền lợi tối thiểu trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày. Chính những điều này đã làm cho mối mâu thuẫn thêm gay gắt và biểu


hiện thành sự xung đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng mạnh mẽ.
Hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra, mang
tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vơ sản rất
cần có một lý luận khoa học dẫn đường. Trong bối cảnh đó, những học thuyết xã
hội chủ nghĩa không tưởng, những học thuyết, lý luận của trào lưu tư tưởng tư sản
lại chưa phản ánh được những lợi ích căn bản của giai cấp vơ sản trong sự nghiệp
giải phóng mình và giải phóng tồn thể quần chúng bị bóc lột.

Trong thời kì chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ đó, đã có hàng loạt những
lý luận và học thuyết chính trị ra đời và phát triển theo hai xu hướng chính, hoặc
nhằm biện minh, bảo vệ cho chế độ đang tồn tại, hoặc tìm con đường phát triển
khác văn minh hơn, tiến bộ hơn. Giữa các học thuyết, trường phái đã có sự đấu
tranh để nhằm giành một chỗ đứng cho hệ thống tư tưởng của mình. Trong hồn
cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời và phát triển trong cuộc đấu tranh với các học thuyết
nhằm xây dựng được một lý luận hoàn bị nhất tạo ra vũ khí tư tưởng cho giai cấp
cơng nhân trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản. Thông qua một loạt những tác
phẩm của mình, hai ơng đã xây dựng được một hệ thống những quan điểm, lý luận
của mình ở mọi lĩnh vực như: nhà nước, pháp luật, văn hóa… trong đó có cả lĩnh
vực thuộc quyền con người. Chính xã hội tư bản với những bất cơng mà nó sinh ra
đã tạo những tiền đề về kinh tế, xã hội cho sự ra đời quan điểm của triết học Mác
về quyền con người.
Xã hội phương Tây những năm 40 của thế kỉ XIX cũng đã tác động đến sự
thay đổi trong lập trường chính trị, lập trường giai cấp của các nhà kinh điển. Nếu
như trước đó, khi Mác và Ăngghen cịn tham gia phái Hêghen trẻ, các ơng cịn đứng
trong lập trường của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng thì trong
thời gian này, hai ơng đã có sự chuyển biến trong lập trường tư tưởng và đi đến với
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa xã hội khoa học. Chính sự chuyển biến
này đã khiến hai ơng tiến hành phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, của phái
Hêghen trẻ và một loạt những trường phái, quan điểm sai lầm bảo thủ, ngụy biện
cho sự tồn tại của giai cấp tư sản như các quan niệm pháp luật tiểu tư sản của chủ


nghĩa xã hội chân chính ở Đức, phái Pruđơng ở Pháp, các quan điểm vơ chính phủ
của phái Bacunin, các quan điểm cơ hội, xét lại sai trái của phái Latxan, Đuyrrinh…
Đề cập tới tiền đề kinh tế, xã hội cho sự ra đời quan điểm triết học Mác về
quyền con người không thể không nhắc tới nhà nước Phổ - nơi mà các ơng sinh
sống. Chính hoạt động thực tiễn tại đây đã dẫn Mác và Ăngghen tới nhận thức rõ
ràng rằng nhà nước Phổ về thực chất là một tổ chức giai cấp và nó phục vụ lợi ích

của bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Rằng người dân về thực chất không được hưởng
một quyền lợi nào từ chính nhà nước cả. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận trái
ngược hoàn toàn với Hêghen rằng không phải Nhà nước quyết định xã hội công dân
mà ngược lại xã hội cơng dân có vai trị quyết định nhà nước. Nhà nước được lập ra
là vì công dân, nhằm đảm bảo cho các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng và
vốn có của họ chứ không phải công dân là nô lệ, là người phục vụ của nhà nước.
V. I. Lênin (1870 - 1924) là đại biểu xuất sắc trong việc kế thừa, bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác lên một nấc thang mới có tên là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Những quan điểm của Mác, Ăngghen về quyền con người đã được Lênin đã kế thừa
và phát triển trong những điều kiện lịch sử của thời đại mới. Cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa hay chủ nghĩa
tư bản độc quyền đã làm cho mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa càng trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản phát triển mạnh. Tại các nước thuộc địa, phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc cũng lên cao. Năm 1917, cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và thắng lợi ở
nước Nga đã mở ra thời đại mới trong lịch sử thế giới: thời đại chủ nghĩa xã hội,
thời đại cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc và quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước Nga Xơ Viết và tồn thế giới. Chủ nghĩa cộng sản đã trở thành sự thật
tại nước Nga và đã lập thành một hệ thống trên toàn thế giới, là đối trọng lớn của
chủ nghĩa tư bản. Người cơng nhân tuy đã lập ra được chính quyền, nhà nước của
mình nhưng vẫn cịn gặp rất nhiều khó khăn, thử thách. Mặt khác, vì mới ra đời, cịn
non trẻ nên chủ nghĩa xã hội đã gặp phải sự chống phá của các thế lực thù địch,
phản cách mạng. Lợi dụng chiêu bài nhân quyền, rằng chủ nghĩa xã hội đã tước
đoạt tự do cá nhân, đưa con người vào chủ nghĩa cộng đồng ăn chung, làm chung,


đánh mất bản sắc cá nhân, những kẻ phản động đã muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Đứng trước bối cảnh như vậy, Lênin đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, vạch ra
tính chất phản tiến bộ và nhân quyền “ảo tưởng” của chế độ tư bản đồng thời chỉ rõ
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội khi bảo vệ các quyền con người.

Thời kì này cũng đã xuất hiện và phổ biến nhiều khuynh hướng triết học
mang tính chất duy tâm như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán với đại biểu là
Makhơ, chủ nghĩa thực dụng, bọn cơ hội và xét lại mang danh nghĩa “đổi mới” chủ
nghĩa Mác nhưng thực chất là muốn thay đổi chủ nghĩa duy vật biện chứng bằng
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Đặc biệt trong những quan điểm về nhân quyền, về
quyền con người các đại biểu của chủ nghĩa cơ hội và xét lại đã lợi dụng vấn đề
nhạy cảm này để xun tạc nhằm mục đích bơi nhọ và làm sụp đổ chủ nghĩa Mác.
Lênin trong hoàn cảnh ấy đã chiến đấu đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế
lực phản động đồng thời có những đóng góp phát triển mới đưa chủ nghĩa Mác phát
triển lên một tầm cao mới.
1.1.2. Nguồn gốc, tiền đề tư tưởng
1.1.2.1. Tư tưởng về quyền con người trong triết học Hy Lạp cổ đại
Từ thời cổ đại, con người đã ln ln có khát vọng muốn hiểu, lý giải được
sự ra đời, mối quan hệ của bản thân mình với giới tự nhiên. Các nhà triết học duy
vật cổ đại đã quan niệm con người là sản phẩm của giới tự nhiên, bắt nguồn từ thế
giới vật chất, mọi hoạt động của con người cũng phải tuân theo giới tự nhiên. Các
quan điểm về quyền con người tuy cũng được đề cập tới nhưng chưa được các nhà
triết học tìm hiểu và xây dựng thành hệ thống trong triết học của mình. Tiêu biểu
trong quan niệm triết học về quyền con người thời kỳ này đó là các nhà triết học
Aristốt, Platon và Đêmôcrit.
Nhà triết học Hy Lạp được Mác đánh giá là “nhà tư tưởng vĩ đại thời cổ đại”
- Aristốt (384 - 322 TCN) đã đưa ra quan niệm con người là một động vật chính trị
có các quyền bình đẳng trong việc tham gia cơng việc nhà nước và xã hội. Trong
khi đó, nhà nước và xã hội có trách nhiệm phải đảm bảo đời sống vật chất, cơng lý
và sự bình đẳng cho mọi người. Theo Aristốt, bản thân sự tồn tại của xã hội loài
người đã làm nảy sinh sự bất công mà chế độ chiếm hữu nô lệ là nguồn gốc cơ bản


và biểu hiện chính của sự bất cơng đó. Cũng đó, theo Aristốt con người là một động
vật chính trị nên “kẻ này là nô lệ, người kia là tự do, là chủ nơ, và điều đó là đúng,

là hợp lý”. Ơng xác định rằng ở người nơ lệ thì thể xác điều khiển linh hồn, cịn ở
người chủ nơ thì linh hồn điều khiển thể xác. Chính vì vậy khi người nơ lệ phục
tùng chủ nơ thì cũng giống như việc thể xác phục tùng linh hồn, đây hoàn toàn là
một điều đúng đắn. Quyền con người do vậy cũng gắn liền với đặc quyền của giai
cấp thống trị, giai cấp nắm quyền lực trong xã hội, nô lệ khơng có các quyền con
người. Đây chính là điểm mâu thuẫn trong triết học về quyền con người của Aristốt
khi một mặt ơng cho rằng con người có quyền tham gia vào mọi công việc của nhà
nước nhưng mặt khác lại phủ định quyền làm người, quyền được hưởng các đặc
quyền, đặc lợi của tầng lớp nô lệ. Đây cũng chính là điểm hạn chế trong quan niệm
triết học về nhà nước, về con người của các nhà triết học thời kỳ cổ đại.
Ở Aristốt, đạo đức và tự do hồn tồn khơng nằm trong hư khơng mà chúng
có một nội dung cụ thể, có một cơ sở trong hiện thực. Từ đó, quan niệm về tự do
của ơng tuy khá phong phú nhưng vẫn rất thích ứng với một thứ chủ nghĩa định
mệnh trong vấn đề duy trì vĩnh viễn sự thống trị của giai cấp chủ nô. Quan niệm của
Aristốt về cơ bản vẫn là bảo vệ cho giai cấp quý tộc chủ nô. Tư tưởng về sự tự do
của ông xét về bản chất vẫn chỉ là sự tự do cho cho một bộ phận, một tầng lớp
người trong xã hội khi đó chứ khơng phải là sự tự do cho quảng đại quần chúng
nhân dân. Từ đó, ơng vẫn bảo vệ chế độ nơ lệ - một chế độ hà khắc, đánh mất đi tự
do cá nhân, đánh mất quyền cơ bản nhất của một bộ phận người trong xã hội đó là
quyền làm người.
Với quan điểm duy tâm triết học, đại biểu của chủ nghĩa duy tâm chủ quan
lớn nhất thời kì Hy Lạp cổ đại, Platon đã cho rằng nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng
hóa của nhu cầu con người và từ đó xuất hiện các dạng phân cơng lao động xã hội
để thỏa mãn các nhu cầu ấy. Mà trong xã hội, cần phải duy trì các dạng nhu cầu
khác nhau, do vậy, khơng thể có sự bình đẳng hồn tồn giữa con người với con
người. Xuất phát từ nhận thức này, ơng khẳng định mỗi hạng người cần phải làm
trịn bổn phận của mình được nhà nước giao cho, con người sống vì nhà nước chứ
khơng phải nhà nước sống vì con người. Điều này thể hiện rõ nhất trong quan niệm



của Platon về xây dựng mơ hình nhà nước lý tưởng. Platon khẳng định nhà nước
cộng hòa là nhà nước lý tưởng nhất, ông lên án nhà nước dân chủ, bảo vệ chế độ
chiếm hữu nô lệ trên lập trường của phái chủ nô quý tộc bảo thủ, phản tiến bộ.
Trong sự phân chia đẳng cấp của Platon, người nô lệ không được ông xếp vào bất
cứ đẳng cấp nào của xã hội. Sở dĩ vậy bởi, Platon cho rằng nô lệ không phải là
người mà chỉ là những “động vật biết nói”, khơng có đời sống đạo đức, họ chỉ là
những công cụ không hơn không kém và không có bất cứ quyền nào ngồi “cái
quyền phải làm nơ lệ”. Những tư tưởng về nhà nước cũng như sự thừa nhận chế độ
đẳng cấp, cho rằng bất bình đẳng là điều tự nhiên vì tự nhiên vốn là bất bình đẳng
đã thể hiện những tư tưởng ban đầu rất rõ ràng của Platon trong việc bảo vệ chế độ
cộng hịa lúc đó. Theo Platon, có người sinh ra là để thống trị, lãnh đạo người khác
(các triết gia, các nhà cai trị gia) và cũng có những người sinh ra đã được quy định
phải làm nô lệ, phải là người nô dịch để người khác sai khiến.
Một nhà triết học khác của nền triết học Hy Lạp cổ đại, Đêmơcrit (460 – 370
TCN) cũng đưa ra phân tích về sự ra đời của nhà nước trong mối quan hệ với quyền
con người. Theo ông, sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật là một tất yếu. Nó vừa
thể hiện kết quả đấu tranh của con người, vừa thể hiện quyền lợi chung của các
cơng dân. Nhà nước chính là bộ máy đại diện cho quyền lợi của công dân. Đêmôcrit
đã đánh giá rất cao và ủng hộ nền dân chủ chủ nơ và xem nó như hình thức cai trị
ưu việt nhất thời đó. Đây là quan điểm hoàn toàn đối lập với Platon - người ủng hộ
cho chế độ cộng hịa, ủng hộ chế độ nơ lệ với quyền thống trị của giới chủ nô quý
tộc. Theo Đêmơcrit, sự nghèo khó trong nhà nước dân chủ cịn đáng quý hơn cái mà
người ta gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ quân chủ bởi sự tự do cịn tốt hơn
là chế độ nơ lệ. Với những quan điểm như vậy về tự do và bình đẳng, Đêmơcrit đã
bước đầu có những quan niệm khá đúng đắn và tiến bộ trong trách nhiệm đảm bảo
quyền con người của Nhà nước với các công dân, rằng Nhà nước được lập ra là để
phục vụ và bảo vệ nhân dân.
Như vậy, một điều dễ nhận thấy trong tư tưởng của các nhà triết học cổ đại
Hy Lạp về quyền con người đó là họ vẫn chưa vượt qua được những rào cản của
thời đại lịch sử lúc đó, vẫn cơ bản bảo vệ chế độ nô lệ, bảo vệ nhà nước của giai cấp



quý tộc chủ nô. Tư tưởng về tự do, về bình đẳng vẫn chưa được giải thích rõ ràng,
trong xã hội nơ lệ, chỉ có giai cấp chủ nơ mới có các đặc quyền cịn lại đại bộ phận
nhân dân khi đó bị bóc lột, coi rẻ thì khơng thể có bất cứ một thứ quyền lợi nào.
Mặc dù vậy, tuy mới chỉ là những tư tưởng về quyền con người cịn thơ sơ, rời rạc
nhưng các đại biểu của nền triết học cổ đại cũng đã có những cái nhìn mang tính
chất cơ sở, tiền đề cho sự ra đời quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con
người sau này.
1.1.2.2. Tư tưởng về quyền con người trong triết học Phục hưng và cận đại
Đây là thời kì mà sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và sự lớn mạnh của giai cấp tư sản đã tạo nên những bước phát triển quan
trọng trong lý luận về con người và quyền con người. Là những người theo học
thuyết về quyền tự nhiên, các nhà triết học phương Tây cho rằng quyền con người
là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, nó khơng thể
bị tước đoạt và cũng không tùy thuộc vào nhà nước. Theo họ, quyền con người
cũng bắt nguồn từ quy luật tự nhiên, do tự nhiên ban cho: quyền tự do, bình đẳng và
tư hữu; quyền con người là vĩnh hằng, bất biến, phù hợp với bản tính và ý chí con
người. Đa phần các học giả thời kì này đều xuất phát từ chủ nghĩa nhân bản, con
người trừu tượng và thuyết nhân tính trừu tượng, dựa vào pháp quyền tự nhiên để
xây dựng quan niệm nhân quyền của mình. Tất cả những người theo thuyết nhân
quyền tự nhiên đã đi tìm chỗ dựa cuối cùng ở ngồi cơ sở kinh tế hiện thực, trừu
tượng hóa quyền con người hình thành trong lịch sử xã hội thành “nhân quyền tự
nhiên” hoặc “nhân quyền thiên phú”, trừu tượng hóa quyền lịch sử tạm thời do cơ
sở kinh tế quyết định của một giai đoạn lịch sử nhất định thành “quyền vĩnh hằng”,
trừu tượng hóa quyền lợi ích kỉ của một bộ phận người cầm quyền trong xã hội
thành “nhân quyền phổ biến” và rồi cuối cùng sa vào sự siêu hình và huyền bí về
vấn đề quyền con người. Xét về thực chất, học thuyết “nhân quyền tự nhiên” thời kì
này chính là ngọn cờ dân chủ, nhân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái do giai cấp tư
sản dương cao để tập hợp quần chúng trong cuộc đấu tranh lật đổ ách áp bức vương

quyền và thần quyền của chế độ phong kiến nhằm đưa giai cấp tư sản lên nắm chính
quyền. Tiêu biểu cho học thuyết quyền con người thời kì này đó là:


T. Hốp - xơ (1588 - 1679), một nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của chủ nghĩa
duy vật Anh thế kỷ XVII cho rằng quyền tự nhiên cốt yếu của con người là “được
sử dụng quyền lực của chính mình để đảm bảo cuộc sống của bản thân mình và do
đó, được làm bất cứ điều gì mà mình cho là đúng đắn và hợp lý…”. Ông cũng là
người đầu tiên đưa ra quan điểm về vai trò quyết định của Nhà nước trong việc đảm
bảo quyền con người bởi ông cho rằng nhà nước được lập ra là để giữ gìn trật tự xã
hội, điều hành sự phát triển xã hội, xử phạt những ai vi phạm lợi ích chung. Tác
phẩm nổi tiếng của ông là Leviathan viết năm 1651 trong đó ơng đã đưa ra học
thuyết chủ nghĩa của mình về quốc gia và nhà nước hợp pháp với nền tảng là lý
thuyết khế ước xã hội. Tác phẩm cũng đã trình bày một bức tranh ảm đạm của con
người trong trạng thái tự nhiên - một trạng thái mà theo Hốp - xơ giả định là khơng
có chính quyền, con người có quyền đối với bất cứ cái gì mà mình muốn kể cả
quyền giết lẫn nhau. Khi đó, cuộc sống sẽ trở nên thật “khó chịu, tàn bạo và ngắn”.
Sở dĩ có trạng thái tự nhiên này, theo Hốp - xơ là do con người là một thể thống
nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Tính tự nhiên làm cho mọi người giống nhau
về thể xác và tinh thần, khát vọng bản chất của con người mang nặng tính vị kỷ và
hung ác. Cuộc sống tự nhiên là “một cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”
trong đó “người với người là chó sói của nhau”.
Đưa ra những điểm hạn chế của cuộc sống tự nhiên, nhưng Hốp - xơ đã
không nhận thấy được tính chất đúng đắn của quyền con người gắn liền với lịch sử
xã hội. Trên cơ sở xóa bỏ những quyền tự nhiên nhưng nhà triết học lại đưa ra mơ
hình xây dựng mới trong đó vai trò của nhà nước vẫn là trên hết, con người, cơng
dân phải phục vụ và vâng theo những gì nhà nước đề ra. Ơng cũng lý giải tình trạng
hỗn loạn của thế giới là do các quyền khơng có giới hạn và khơng được ghi nhận rõ
ràng. Từ đó, theo Hốp - xơ, nếu như con người muốn sống trong hồ bình, tốt đẹp
với nhau thì phải từ bỏ các quyền tự nhiên của mình và tạo lập các nghĩa vụ về mặt

đạo đức trong một xã hội dân sự và chính trị, có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước
phải đóng vai trị là chủ thể các quyền, cịn mọi cơng dân phải có nghĩa vụ tn theo
pháp luật của nhà nước. Chỉ có như vậy con người mới có thể sống n ổn. Bản
thân ơng cũng phản đối quan niệm cho rằng quyền bắt nguồn từ “luật tự nhiên” bởi


vì luật thì đề cập đến nghĩa vụ cịn quyền thì khơng cần nghĩa vụ. Ơng nhấn mạnh
rằng bản chất con người là mong muốn có được hạnh phúc tối đa nên quyền phải có
trước pháp luật. Chính quan điểm này đã là sự khởi đầu quan trọng trong học thuyết
về luật tự nhiên đó là đặt quyền lên trên nghĩa vụ. Quan điểm này đã đề cao tuyệt
đối chủ quyền của chính quyền nhà nước trong việc ban hành pháp luật, thu thuế, bổ
nhiệm quan chức, các chức vụ trong tịa án… Các cơng dân vì vậy khơng có quyền
liên quan đến nhà nước mà chỉ có nghĩa vụ phải phục tùng các luật pháp của nhà
nước. Từ đây, ơng cho rằng hình thức nhà nước thích hợp nhất để bảo vệ cơng dân
chính là chế độ độc đốn khi nhà nước tự đưa ra những luật lệ, luật pháp và bắt
buộc công dân phải tuân theo. Đây là tư tưởng biểu hiện tính chất phản tiến bộ trong
học thuyết về quyền con người của Hốp - xơ. Xét tại thời điểm lịch sử đó, với sự
lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản, quan điểm này của ông đã nhằm chứng minh cho sự
tồn tại hợp lý và đúng đắn của chế độ cầm quyền của chủ nghĩa tư bản, bảo vệ cho
nhân quyền tư bản.
Tuy là một người ủng hộ chính thể chun chế nhưng ơng cũng đã phát triển
những nguyên tắc cơ bản của tự do châu Âu như: quyền được bầu cử của các cá
nhân, quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi người, quan điểm tất cả quyền lực
chính trị hợp pháp đều phải mang tính “đại diện” và dựa trên sự đồng thuận của
nhân dân… Các tư tưởng về quyền con người của Hốp - xơ đại bộ phận được thể
hiện trong quan điểm của ơng về vai trị của Nhà nước trong trạng thái tự nhiên.
Tuy cịn mang tính bảo thủ, quan niệm về cuộc sống con người còn tiêu cực nhưng
những tư tưởng về tự do, bình đẳng, về pháp luật của Nhà nước… đã tạo ra cơ sở
vững chắc cho sự kế thừa của triết học Mác sau này trong quan điểm về quyền con
người.

Là người đầu tiên được cho là đã phát triển một lý thuyết toàn diện về quyền
con người, triết gia người Anh, nhà tư tưởng của phong trào Khai sáng Giôn Lốc cơ (1632 - 1704), người được Ăngghen gọi là “đứa con của sự thỏa hiệp giai cấp”
đã đưa ra một loạt những quan điểm của mình về vấn đề này. Lốc - cơ đã có cơng
lao rất lớn trong việc phát triển học thuyết về quyền tự nhiên con người trong lĩnh
vực chính trị và đạo đức. Trong các tác phẩm của mình đã cho rằng các chính phủ


chẳng qua chỉ là một dạng “khế ước xã hội” giữa những kẻ cai trị và những người
bị trị trong đó những người bị trị (đa số cơng dân) tự nguyện kí vào bản khế ước
này với kì vọng và mong muốn sử dụng chính phủ như là một phương tiện để bảo
vệ các “quyền tự nhiên” của họ chứ không phải để ban phát và quy định các quyền
cho họ. Trong tác phẩm “hai luận văn về chính phủ”, ông cho rằng con người được
sở hữu một số quyền nhất định bởi vì họ là một con người. Các quyền nhất định đó
theo ơng chính là các quyền tự nhiên vốn có của con người bao gồm các quyền tự
do, bình đẳng và tư hữu. Ơng quan niệm tài sản là quyền tự nhiên và sinh ra do lao
động, lao động của con người tạo ra của cải, hàng hóa nhưng của cải này cũng có
giới hạn bởi khả năng có hạn trong sản xuất và tiêu thụ của con người. Khi giải
quyết vấn đề này, lưu thông tiền tệ đã ra đời và từ đó, bất bình đẳng đã sinh ra do sự
thỏa thuận ngầm trong việc sử dụng tiền tệ chứ không phải do khế ước xã hội gây
ra.
Nếu như trong trạng thái tự nhiên, mọi người đều bình đẳng và độc lập,
khơng ai có quyền làm tổn hại đến người khác thì khi xã hội văn minh ra đời, để
đảm bảo hơn cho cuộc sống và các quyền của mình, người dân đã quyết định trao
quyền lực của mình cho một bộ phận người trong xã hội và do vậy nhà nước hay hệ
thống chính quyền ra đời và được thể chế bằng các “khế ước xã hội”. Chính bởi vì
vậy, theo Lốc - cơ, quyền lực của nhà nước là có giới hạn và nhà nước phải có
nghĩa vụ đối với người dân và quyền lực của nhà nước có thể bị thay đổi bởi chính
người dân, người bị trị - những người đã trao quyền lực cho nhà nước. Với cách tiếp
cận này, Giôn Lốc - cơ cho rằng chính phủ chỉ có thể “chính danh” hay “hợp
pháp” khi thừa nhận, tơn trọng và thúc đẩy các quyền bẩm sinh, vốn có của cơng

dân. Xuất phát từ đó, ơng khẳng định nhà nước khơng cần và khơng nên có q
nhiều quyền lực bởi nếu như vậy chỉ khiến người dân bị đè nén, các quyền con
người sẽ không được nhà nước thực hiện đầy đủ. Đưa ra những quan niệm về quyền
con người và xây dựng nhà nước như một khế ước xã hội, Lốc - cơ đứng trên quan
niệm cho rằng con người là do Chúa sáng tạo ra nhưng các quyền tự nhiên của ông
lại không xuất phát từ quyền công dân hay pháp luật quốc gia và cũng không hạn
chế trong một nhóm tơn giáo, sắc tộc hay văn hóa nào. Đây chính là điểm tiến bộ


trong học thuyết về nhân quyền của ông. Đồng thời, ông cũng chính là người đầu
tiên đã đưa ra quan niệm về tính khơng thể phân chia của quyền con người thể hiện
ở chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng ngang nhau, khơng có quyền nào
được coi là có giá trị cao hơn quyền nào.
Giăng Giắc Rút xô (1712 - 1778) một đại biểu lớn khác của phong trào Khai
sáng là một trong những người đầu tiên đã nhìn thấy sự khác biệt giữa xã hội cơng
dân nảy sinh cùng với chế độ tư hữu và nhà nước được thiết lập sau đó trên cơ sở
khế ước xã hội giữa con người với nhau. Trong những năm đầu thế kỉ XVIII, các
nhà khoa học, các nhà triết học đã không tiếc những lời ca ngợi dành cho sự văn
minh, tiến bộ của xã hội, sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật và những
thành tựu to lớn của nghệ thuật đã đem lại sự đổi thay lớn của xã hội. Ngược hoàn
toàn với những quan điểm đó, Rút xơ cho rằng xã hội càng văn minh thì đạo đức lại
càng băng hoại, khoa học không hề cứu rỗi con người và không thể làm họ hạnh
phúc hơn. Ông khẳng định “hạnh phúc chỉ đến với con người trong tình trạng thiên
nhiên” và đức hạnh, lịng tốt chỉ có được trong một xã hội đơn giản nơi con người
có đời sống đạm bạc và chân chất. Với ông những phát minh ra đời, những tác
phẩm nghệ thuật chỉ là những “chùm hoa phủ lên trên xiềng xích trói buộc con
người, khiến cho họ qn đi sự tự do nguyên thủy có từ lúc mới sinh ra, và quên đi
mất là đang cam tâm làm nô lệ cho kiếp sống văn minh”. Như vậy, trạng thái tự
nhiên theo khẳng định của Rút xơ chính là trạng thái tốt nhất của con người. Con
người sinh ra ở trạng thái đầu tiên là sống - tồn tại dựa vào tự nhiên. Đây là trạng

thái thật sự trong sạch, nơi mà con người được sống tự do, bình đẳng, không hề biết
đến quyền lực xã hội và các cơ quan cưỡng bức xã hội. Nếu như trong trạng thái tự
nhiên, mỗi con người là chủ thể của chính mình thì sang đến thời kì văn minh, hiện
đại, từng cá nhân không thể chống chọi với thiên nhiên để tự tồn tại mà phải cùng
sống chung với nhau để có đủ sức sống còn. Mặt khác, sự phát triển của xã hội lại
diễn ra theo hướng ngày càng thoát ly khỏi trạng thái tự nhiên và không thể trở lại
trạng thái này nữa. Đây là sự phát triển tất yếu trong tiến trình lịch sử của lồi
người bởi con người ln ln có ước vọng, ham muốn nâng cao đời sống của
mình. Theo đó, con người buộc phải xa rời những quyền tự nhiên của mình để xây


dựng nên các khế ước xã hội với sự hình thành của nhà nước và pháp luật. Đây là
cơ sở của mọi chính quyền hợp pháp, là chủ quyền tối cao của mọi chính quyền
thuộc về nhân dân. Nhân dân có quyền lựa chọn những đại biểu của mình tham gia
trực tiếp vào việc soạn thảo và thực thi pháp luật. Những đại biểu này là đại diện
quyền lực của nhân dân đồng thời cũng là những người bảo vệ các quyền con người
cho họ.
Sự hình thành xã hội lồi người chính là q trình chuyển biến từ trạng thái
tự nhiên sang trạng thái dân sự và hệ quả của nó là sự mất tự do, bất cơng, bất bình
đẳng trong xã hội. Mở đầu chương thứ nhất trong “khế ước xã hội” ông viết, “con
người sinh ra được tự do, nhưng ở đâu nó cũng bị xiềng xích”. Với ông, chỉ có ở
trạng thái tự nhiên con người mới có được sự tự do, bình đẳng tuyệt đối, cịn khi xã
hội càng phát triển bao nhiêu thì sự tự do, bình đẳng ấy lại càng bị giảm thiểu bấy
nhiêu. Đối với Rút xô, tự do là điều kiện thiết yếu để con người là một con người
bởi vì mỗi con người khi sinh ra đã có được quyền đầu tiên của mình là được tự do.
Khi trở lại nghiên cứu trạng thái tự nhiên - trạng thái ban đầu của xã hội lồi người,
ơng đã tìm ra nguồn gốc nỗi đau khổ của con người. Ông xác định bất bình đẳng xã
hội - nỗi khổ của con người là do bản thân con người gây ra chứ không phải do tự
nhiên bởi trong trạng thái tự nhiên mọi người đều bình đẳng, tư hữu và bất cơng xã
hội lúc đó chưa có. Đến khi hình thành xã hội có nhà nước, tức là trình độ phát triển

cao hơn của xã hội lồi người, sự bất cơng, bất bình đẳng xã hội khơng những
khơng mất đi mà cịn gia tăng thêm. Các nhà nước chuyên chế, bạo lực làm cho các
thành viên trong xã hội mất dần quyền lực của mình và trở thành khơng có quyền,
quyền lực ngày càng tập trung vào tay kẻ cầm quyền. Để bảo vệ và củng cố cho
quyền lợi của mình, những kẻ cầm quyền tìm mọi cách bênh vực cho sự bất bình
đẳng và nhất là giải thích sự bất bình đẳng như một quy luật của tự nhiên để nhằm
trấn an và ru ngủ những người bị bóc lột. Khi nhà nước ra đời, địi hỏi tất nhiên
phải có một lực lượng đứng trên xã hội, để thiết lập ra những luật lệ được sự đồng ý
của mọi người và mọi người phải tuân theo gọi là khế ước xã hội.
Khế ước xã hội theo Rút xô là sự thỏa thuận giữa những chủ thể xã hội, chủ
thể chính trị trong đó công dân và nhà cầm quyền, công dân và nhà nước, các chủ


thể này bình đẳng với nhau. Có nghĩa là các khế ước xã hội này sẽ là sự đồng ý
ngầm những nguyên tắc, luật lệ giữa những người nắm quyền lực và cơng dân,
trong đó cơng dân chịu trách nhiệm tuân thủ những nguyên tắc do người cầm quyền
đặt ra và ngược lại, các nhà cầm quyền sẽ có nghĩa vụ bảo vệ những quyền lợi căn
bản cho công dân, đảm bảo đời sống xã hội cho họ. Công nhận hình thức khế ước
xã hội này, ơng cho rằng đó là hình thức lãnh đạo, quản lý và hợp tác có hiệu quả,
tốt nhất để đảm bảo các quyền và lợi ích của người dân. Minh chứng cho điều này,
Rút xô viết “cái mà con người mất đi khi chấp nhận khế ước xã hội là sự tự do
thiên nhiên và sự vô giới hạn trong những việc anh ta muốn làm và muốn giữ khi
chiếm được; bù lại cái anh ta nhận được là sự tự do trong văn minh và quyền sở
hữu chính đáng những gì mà anh ta có”. Khế ước xã hội đảm bảo các quyền dân sự
cho người dân, mà các quyền dân sự của con người chỉ xuất hiện khi hình thành
được xã hội, do đó con người phải trao quyền hành lại cho cộng đồng khi liên kết
với nhau để trở thành xã hội. Khi tham gia vào khế ước xã hội, con người phải từ
bỏ lối sống tự do theo cảm xúc cá nhân mang tính chất phản xã hội mà phải tham
gia vào cộng đồng xã hội, đảm bảo các quyền lợi của mình trong mơi trường cộng
đồng. Quyền tự do sống theo ý muốn riêng và quyền làm chủ tất cả những gì mà

sức mạnh cá nhân cho phép khơng phải là quyền tự do chân chính và cũng khơng
phải là cách tốt nhất để con người có thể phát triển. Và trong điều kiện đó, khế ước
xã hội chính là phương thức duy nhất để con người tự bảo vệ bằng cách kết hợp lại
với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng một động cơ chung,
khiến cho mọi người được tự do và bình đẳng.
Các quan điểm của các nhà tư tưởng thời kỳ Phục hưng và Khai sáng về
quyền con người đã có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào đấu tranh đòi tự do, bình
đẳng diễn ra trên phạm vi tồn thế giới ngay sau đó. Các tư tưởng, quan điểm này
cũng đã trở thành động lực tinh thần cho những cuộc cách mạng dân chủ ở châu Âu
trong suốt hai thế kỉ XVIII và XIX nhằm đấu tranh lật đổ phong kiến, bác bỏ chế độ
độc tài và chuyên chế thần quyền. Giai đoạn này và sau đó đã chứng kiến một loạt
những cuộc cách mạng dân chủ tư sản diễn ra, thắng lợi và gắn liền với sự ra đời
của các văn bản pháp lý đầu tiên quy định về các quyền con người như: “Tuyên


ngôn Độc lập” của Hoa Kỳ (1776), “Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của
Pháp” (1789). Các tư tưởng về quyền con người trong thời kì này cũng đã tạo nên
những tiền đề ban đầu cho sự ra đời của quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
quyền con người. Dựa trên những tiền đề này, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
đã kế thừa trên tinh thần phê phán để xây dựng nên những quan điểm đúng đắn,
mang tính chất khoa học về quyền con người.
Ra đời trong thời kì chủ nghĩa tư bản phát triển lên tới đỉnh cao, các nhà triết
học Phục hưng và Khai sáng cũng khơng nằm ngồi xu hướng chính trị chung là
bảo vệ cho nhân quyền của chủ nghĩa tư bản, cho rằng đây là xã hội thực hiện tốt và
triệt để nhất các quyền con người. Thể hiện rõ điều này Ăngghen đã viết: “Vương
quốc lý tính này chẳng qua là vương quốc lý tưởng hóa của giai cấp tư sản, chính
nghĩa vĩnh hằng được thể hiện trong tư pháp của giai cấp tư sản; sự bình đẳng của
giai cấp tư sản trước pháp luật; một trong những nhân quyền được tuyên bố là chủ
yếu nhất là quyền sở hữu của giai cấp tư sản; cịn nhà nước lý tính, khế ước xã hội
của Rút xô trong thực tiễn cũng chỉ có thể biểu hiện ra là một nước cộng hòa dân

chủ tư sản. Các nhà tư tưởng vĩ đại của thế kỷ XVIII, cũng giống như tất cả những
người tiên phong của họ đều không thể vượt qua những hạn chế của thời đại mình”
[33, t1, tr.3].
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người
1.2.1. Quan điểm của Mác và Ăngghen về quyền con người
Xét về thực chất, những quan điểm, tư tưởng của Mác, Ăngghen về quyền
con người được hình thành trên cơ sở phê phán các quan niệm tư sản duy tâm, siêu
hình về con người và quyền con người trong chủ nghĩa tư bản và thơng qua đó đề ra
những cơ sở lý luận cơ bản để xây dựng học thuyết nhân quyền mới của chủ nghĩa
cộng sản. Các ông đã vạch ra cơ sở đời sống vật chất của sự ra đời và tồn tại của
quan niệm nhân quyền với tư cách là “ý thức”, “quan niệm”, tức là tìm ra nguồn
gốc của nhân quyền từ thực tiễn sản xuất vật chất của con người, bác bỏ cơ sở triết
học trừu tượng và siêu hình của quan niệm nhân quyền tư sản phương Tây là sản
phẩm của ý thức, ý chí con người, sự sáng tạo của Chúa hay thần thánh. Tư tưởng
của Mác, Ăngghen về quyền con người gồm một số nội dung cơ bản:


1.2.1.1. Quyền con người là sản phẩm của phương thức sản xuất
C. Mác cho rằng quyền con người không phải là bẩm sinh, không phải là do
con người tự ý đặt ra theo ý muốn của mình, mà là sản phẩm của những điều kiện
kinh tế và xã hội nhất định trong lịch sử. Nó có nguồn gốc từ thực tiễn sản xuất của
con người, là sản phẩm của sự phát triển sản xuất. Nó ra đời cùng với sự ra đời của
chế độ tư hữu, là sản phẩm của các phương thức sản xuất tư hữu. Xét về thực chất,
trong thời đại công xã nguyên thủy khi mà chưa có sự xuất hiện của Nhà nước, của
chế độ tư hữu thì vấn đề quyền con người cũng chưa được đặt ra, chưa xuất hiện.
Với thời kì này, khi con người còn đang “sống chung”, quyền lợi từ sản xuất hay từ
việc tìm kiếm thức ăn vẫn được chia đều thì mặc nhiên, quyền con người cũng chưa
có. Xã hội ngày càng phát triển, con người làm ra được giá trị sản phẩm cao hơn, đã
có sự mâu thuẫn trong sự phân chia thành quả lao động thì ngay lập tức quyền, lợi
ích của người này đã ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của người khác. Khi đó, vấn đề

quyền con người xuất hiện như một đòi hỏi cấp thiết nhằm tìm lại sự cơng bằng
trong phân chia lợi ích, phân chia sản phẩm lao động. Mỗi phương thức sản xuất
khác nhau đều đưa tới những nhận thức khác nhau về vấn đề quyền con người.
Trong diễn tiến lịch sử, phương thức sản xuất sau bao giờ cũng tiến bộ và hoặc là
đảm bảo hơn về các quyền so với phương thức sản xuất trước đó hoặc là sự che đậy
trong việc vi phạm quyền con người ngày càng tinh vi hơn. Trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản”, Mác và Ăngghen đã đi tới kết luận: “trong mỗi thời đại
lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi cùng với cơ cấu do
phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và
lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời đại…” [34, t1, tr.517]. Qua đây, chúng ta
thấy rõ được quan điểm của các nhà kinh điển về nguyên nhân sâu xa, xét tới cùng
của tất cả các vấn đề chính trị, văn hóa trong đó có quyền con người đều từ trong
quan hệ sản xuất mà rộng lớn hơn là do phương thức sản xuất quyết định.
Cùng với sự ra đời, tồn tại của mỗi phương thức sản xuất, quyền con người
cũng có những biến đổi khác nhau để phù hợp với sự phát triển lịch sử đó. Mác
cũng đã vạch rõ quyền con người phát sinh “từ những quan hệ vật chất giữa người
với người và từ sự đấu tranh giữa người với người do những quan hệ đó gây ra”


[33, t1, tr.569]. Do vậy, các quyền con người mãi mãi không thể vượt khỏi kết cấu
kinh tế thống trị trong xã hội mà con người đó là thành viên. Vì vậy, xét trên mọi
khía cạnh “quyền khơng bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát
triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định” [33, t1, tr36]. Một xã hội mà việc
đảm bảo nhân quyền có tốt, có đầy đủ hay khơng đều do trình độ phát triển kinh tế
của xã hội đó quyết định. Trình độ phát triển của kinh tế chính là minh chứng cho
sự phát triển văn hóa, nhận thức của con người trong xã hội đó. Do trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội khác nhau nên nội dung, cách thức đảm bảo
các quyền con người cơ bản ở mỗi nước là khác nhau. Thậm chí, quan hệ kinh tế xã
hội khác nhau, bản thân địa vị chính trị khác nhau thì quyền lợi được hưởng của
mỗi người cũng đã khác nhau. Đây chính là cơ sở để chúng ta có thể đập tan, xóa bỏ

những nghi ngờ cũng như luận điệu khơng đúng đắn về nhân quyền mà các nước tư
bản gắn cho các nước chủ nghĩa xã hội. Là sản phẩm của phương thức sản xuất,
quyền con người trong quá trình phát triển phải chịu sự chế ước của chế độ xã hội,
tình trạng kinh tế, truyền thống văn hóa… Do vậy, khơng thể có một thứ nhân
quyền chung chung, tồn diện áp dụng cho tất cả mọi quốc gia, dân tộc mà phải có
nét riêng, đặc thù mang bản sắc dân tộc của đất nước, quốc gia đó trong vấn đề quan
niệm và thực hiện quyền con người. Vì vậy, ngay bản thân mỗi nước phải có sự lựa
chọn, xây dựng một mơ hình nhân quyền phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội cụ
thể của mình.
1.2.1.2. Quyền con người là phạm trù có tính lịch sử
Nếu như các học giả tư sản hay những nhà triết học trước đó, hoặc cho quyền
con người là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên, hoặc cho đó là do những lực
lượng tối cao, vượt khỏi tầm nhận thức của con người ban phát cho thì tới lượt
mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã khẳng định: quyền con người không
phải do Chúa trời hay thần linh ban phát, cũng khơng phải do thiên phú mà nó là
sản phẩm mang tính lịch sử khi lồi người phát triển tới một giai đoạn lịch sử nhất
định. Ở mỗi một xã hội khác nhau, quyền con người cũng sẽ có những đặc điểm và
nội dung khác nhau gắn với từng giai đoạn lịch sử. Trong thời kì nguyên thủy, sống
trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, con người hầu như không có tự do mà phải


sống lệ thuộc vào thiên nhiên đã đưa tới sự công bằng trong phân chia sản phẩm lao
động cho mỗi người. Đến thời kì chiếm hữu nơ lệ, xã hội bắt đầu có sự phân chia
giai cấp và mâu thuẫn xã hội, mọi đặc quyền, đặc lợi đều thuộc về giai cấp chủ nơ
cịn mọi quyền lợi và sự tự do của người nô lệ đều bị tước đoạt, thậm chí ngay đến
quyền sở hữu đối với chính cơ thể của mình cũng bị mất. Đến chế độ phong kiến,
với nền kinh tế hàng hóa giản đơn, ý thức tự do bình đẳng, việc thực hiện quyền con
người vẫn bị bó buộc, hạn hẹp, nhất là quyền lợi của người phụ nữ và những giai
cấp yếu thế trong xã hội. Nền kinh tế hàng hóa phát triển cao gắn liền với sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản, các quyền con người đã được đề cập và đấu tranh nhiều hơn.

Trong giai đoạn này khơng ít những tư tưởng tiến bộ về quyền con người đã ra đời
thậm chí được ban bố thành các điều luật áp dụng trong thực tế. Như vậy, có thể
thấy rằng, trong điều kiện lịch sử xã hội khác nhau, chế độ xã hội khác nhau, chủ
thể và nội dung quyền con người cũng biến đổi khác nhau phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh mới của xã hội.
Trong tác phẩm “gia đình thần thánh”, Mác và Ăngghen đồng tình với quan
niệm của Hêghen cho rằng quyền con người không phải là bẩm sinh, mà là sản
phẩm của lịch sử. Điều đó có nghĩa rằng vấn đề nhân quyền và khái niệm nhân
quyền khơng phải có ngay từ khởi thủy lồi người, khơng phải khơng có q trình
phát sinh, phát triển. Nhân quyền có lịch sử và cơ sở của nó, chúng ta khơng thể nói
quyền của con người hiện đại xuất hiện từ khái niệm bình đẳng xa xưa vĩnh hằng...
Trong cuốn “Chống Đuyrinh”, Ăngghen nhấn mạnh rằng: “Khái niệm bình đẳng,
dù xuất hiện dưới hình thức của giai cấp tư sản hay hình thức của giai cấp vơ sản,
bản thân nó đều là sản phẩm của lịch sử. Sự hình thành quan niệm này địi hỏi phải
có điều kiện lịch sử nhất định, mà bản thân điều kiện lịch sử đó lại lấy lịch sử lâu
dài trước đó làm tiền đề. Cho nên có thể coi quan niệm bình đẳng đó là gì cũng
được, nhưng khơng thể nói là chân lý vĩnh hằng” [33, t3, tr.34]. Qua đó ta thấy, nội
dung của nhân quyền trong mỗi thời đại lịch sử cụ thể là khác nhau, khơng thể lấy
sự tự do, bình đẳng, nhân quyền của thế giới hiện đại để áp đặt và suy nghĩ về nhân
quyền, về tự do ở thế giới cổ đại hay thời kì phong kiến được. Cũng theo chủ nghĩa
Mác, chủ thể của quyền con người trong mỗi thời đại, giai đoạn lịch sử là khác nhau


×