Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ TỚI VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.89 KB, 4 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ TỚI VẤN ĐỀ QUẢN TRỊ
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Môi trường pháp lý là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng tới vấn đề
quản trị doanh nghiệp. Qua hơn 20 năm đổi mới, do đòi hỏi của thực tiễn khách
quan và sức ép khi gia nhập WTO, môi trường pháp lý của nước ta đã có những
tiến bộ đáng kể. Đó là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, bàn về tác động của
môi trường pháp lý tới vấn đề quản trị doanh nghiệp, có thể khẳng định rằng, hiện
nay môi trường pháp lý của nước ta chưa tạo ra động lực để các doanh nghiệp phải
quan tâm tới việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, hướng tới những
chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế.
Trước hết, doanh nghiệp sinh ra là để kinh doanh và săn tìm lợi nhuận. Để đạt
được mục đích đó, các doanh nghiệp có nhiều cách khác nhau, ít nhất có thể nêu
ba cách sau đây:
1.Lách luật để trốn thuế, gian lận thuế, trốn tránh các nghĩa vụ đối với người lao
động và bảo vệ môi trường;
2.Liên kết và hoạt động dưới sự bảo kê của cá nhân hoặc những nhóm quyền lực
để thu được những khoản lợi nhuận siêu ngạch;
3.Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp để tăng năng suất lao động, tăng chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm và chiếm lĩnh thị trường.
Trong ba cách đã nêu trên, cách thứ ba phức tạp hơn, đòi hỏi những điều kiện khắt
khe hơn và với một thời gian dài.Vì vậy, chỉ khi nào môi trường pháp lý không
cho phép hoặc bản thân chủ doanh nghiệp không đủ điều kiện để áp dụng cách thứ
nhất và thứ hai, thì doanh nghiệp mới tìm đến cách thứ ba. Đáng tiếc là, môi
trường pháp lý ở nước ta hiện nay đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho khá
nhiều doanh nghiệp áp dụng cách thứ nhất và thứ hai. Hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật của chúng ta rất đồ sộ nhưng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, rất
dễ bị vô hiệu bằng những công văn – một trong những văn bản dưới luật – và việc
thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt hiện nay là môi trường vô cùng thuận lợi cho
những hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Còn vi phạm nghĩa vụ nộp các loại bảo
hiểm bắt buộc cho người lao động và xả thải ra môi trường thì gần như các doanh
nghiệp đang vô tư thực hiện mặc dù văn bản cấm thì không ít! Liên kết và hoạt


động dưới sự bảo kê của cá nhân hoặc những nhóm quyền lực để thu được những
khoản lợi nhuận siêu ngạch cũng là phương thức rất hữu hiệu (và cũng không ít)
của các doanh nghiệp hiện nay.
Thứ hai, dấu ấn của cơ chế quản lý hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp trước
đây vẫn còn rất nặng nề trong mối quan hệ giữa cơ quan công quyền thuộc bộ máy
Nhà nước. Cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa thực sự là “Nhà nước dịch vụ” với
nhiệm vụ cung cấp cho nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp những dịch vụ công
thuận tiện nhất. Ngược lại, các cơ quan công quyền vẫn chủ yếu thực hiện việc
kiểm tra, giám sát với tư cách của một “Nhà nước cai trị”. Điều đó thể hiện ở hệ
thống khổng lồ những thủ tục hành chính, giấy phép con vô lý…gây khó khăn cho
hoạt động kinh doanh. Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính đã triển khai
khá rầm rộ và cho biết, với 258 thủ tục ưu tiên cắt giảm đợt đầu, người dân và
cộng đồng doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được khoảng 30.000 tỷ đồng/năm. Song, con
số đó mới chỉ là “tính cua trong lỗ”. Bởi lẽ, để kết quả của Đề án đi vào thực tế
phải sửa trực tiếp 14 luật, 3 pháp lệnh, 44 nghị định, 8 quyết định của Thủ tướng
và gần 100 quyết định cấp bộ.Ông Daniel Trnka, chuyên gia phân tích của Tổ
chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), người chấp bút bản Báo cáo đánh giá
về Đề án 30, theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, nói “Người dân và giới
doanh nghiệp đòi hỏi phải cụ thể hóa các tính toán này bằng các thực thi thực tế”.
Điều đó có nghĩa là, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính chưa có kết quả trên
thực tế. Hệ thống các thủ tục hành chính nhiêu khê, phiền hà và thiếu tính khả thi
đã bắt buộc nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp phải “đối phó” bằng nhiều cách
để được việc. Và, tất nhiên, những “bài đối phó” đó không bao giờ trở thành chuẩn
mực của quản trị doanh nghiệp tiên tiến.
Thứ ba, tham nhũng - một trong những “ kẻ thù” của việc nâng cao năng lực quản
trị doanh nghiệp – vẫn đang là quốc nạn của nước ta. Dự thảo Báo cáo chính trị sẽ
được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhận định:
"Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện;
chưa ngăn chặn, đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…. ". Tham nhũng
là vật cản vô cùng lớn đối với việc thiết lập một hệ thống quản trị doanh nghiệp

tiến tiến theo thông lệ quốc tế. Bởi lẽ, tham nhũng sẽ thủ tiêu sự công khai, minh
bạch; làm rối loạn sổ sách kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp; tham
nhũng “cạnh tranh” gay gắt với các Nhà tư vấn – vốn được coi là “Bác sĩ” của
doanh nghiệp; tham nhũng cũng có thể đưa một số doanh nghiệp vi phạm pháp
luật một cách nghiêm trọng thành những gương điển hình với những danh hiệu
cao quý; tham nhũng có thể tôn vinh một số cá nhân vi phạm pháp luật đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự thành anh hung lao động, v.v… Với những tác động
như trên của tham nhũng thì việc cải tiến, áp dụng những biện pháp cần thiết để
nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp là một thách thức lớn.
III- VÀI KIẾN NGHỊ
Với những nội dung đã trình bày trên, trong phạm vi đánh giá tác động của hai
nhân tố thể chế kinh tế và môi trường pháp lý đến vấn đề quản trị doanh nghiệp,
xin có một vài kiến nghị sau:
Một là, nhanh chóng thực hiện chủ trương cổ phần hóa để giảm đến mức thấp nhất
số lượng các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Đây là vấn đề quan trọng nhất để
chuyển một bộ phận lớn các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước – vốn không thật
sự quan tâm đến vấn đề quản trị doanh nghiệp – thành những doanh nghiệp phải
quan tâm và đầu tư cho công tác quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, để giải quyết
vấn đề này, trước hết phải xác định lại nội dung về “Chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước XHCN”. Nhà nước XHCN có chức năng quản lý kinh tế. Điều đó không
ai phủ nhận. Song, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước không đồng nghĩa với
việc Nhà nước phải trực tiếp làm kinh tế, phải kinh doanh và cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác. Nhiệm vụ quan trọng nhất để thực hiện chức năng quản lý
kinh tế của Nhà nước là hình thành một hành lang pháp lý minh bạch, tạo điều
kiện thuận lợi cao nhất cho nhân dân kinh doanh và thu thuế. Tất nhiên, với vai trò
“nhạc trưởng” của mình, Nhà nước phải đầu tư, quản lý một số lĩnh vực quan
trọng có liên quan đến an ninh, quốc phòng và an sinh xã hội. Đó là những hoạt
động đầu tư không vì mục đích lợi nhuận và nhân dân, các doanh nghiệp không
thể làm hoặc không làm. Và cần có một lực lượng chuyên trách với năng lực quản
trị doanh nghiệp đủ điều kiện dể quản lý những doanh nghiệp này.

×