Đề tài tham dự cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2011
Groupon (Mua hàng theo nhóm) và các
mô hình ứng dụng tại Việt Nam
1
Chương mở đầu,
Tổng quan về Groupon.
Groupon (mua hàng theo nhóm) xuất hiện cách đây 3 năm và đang là
tên tuổi tiềm năng nhất trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mãi. Chính thức ra
đời vào tháng 11-2008 tại Chicago, tính đến tháng 10-2010, Groupon đã có
hoạt động tại hơn 150 thị trường ở Bắc Mỹ và 100 thị trường ở châu Âu,
châu Á và Nam Mỹ với khoảng 44 triệu thành viên. Ngày 19- 4-2010, sau
khi nhận được 135 triệu đô la đầu tư từ DST (Digital Sky Technologies), giá
trị của Groupon đã đạt mức kỷ lục 1,35 tỉ đô la. Trong khi đó, những mạng
xã hội khổng lồ khác như Twitter cần đến ba năm, Facebook cần đến hai
năm mới có thể đạt được giá trị 1 tỉ đô la.Vào năm 2008, Andrew Mason lập
một trang web gọi là The Point.com, nơi người tham gia cùng nhau làm việc
vì những mục tiêu họ quan tâm. Không lâu sau đó, Mason nhận thấy rằng
một số thành viên sử dụng trang web này để lập các nhóm mua sắm sản
phẩm giảm giá. Nhận thấy tiềm năng của xu hướng này, Mason lập ra
Groupon với vai trò như một mạng mua sắm, quảng cáo và khuyến mại.
Groupon vốn được ghép từ “Group” (nhóm khách hàng) và “Coupon” (phiếu
mua hàng). Khẩu hiệu của họ là: "Hãy nhanh tay, cơ hội này chỉ kéo dài
trong vài giờ".Các mặt hàng trên Groupon được khuyến mãi từ 30% đến
90% trong một thời gian nhất định, với điều kiện số khách hàng cần phải đạt
tới một lượng nhất định. Tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện những deal với
mức chiết khấu lớn thường trên 50% mà không cần phải thỏa mãn điều kiện
về số lượng khách hàng tối thiểu; lúc này, Groupon đóng vai trò quảng bá
thương hiệu cho các doanh nghiệp với chi phí rẻ hơn nhiều so với chi phí
quảng cáo truyền thống trước đó. Qua đó có thể thấy được Groupon thực
chất là mô hình kinh doanh win-win-win, một mô hình mà cả ba bên tham
gia đều có lợi:
+ Người tiêu dùng được tiếp cận kênh bán hàng với giá rẻ hơn rất
nhiều so với các điểm bán hàng trước đó.
+ Doanh nghiệp bán sản phẩm, quảng bá thương hiệu với chi phí kinh
tế hơn .
2
+ Website bán hàng trực tuyến với vai trò vừa là trung gian thương
mại vừa là kênh quảng bá thương hiệu hàng đầu cho các công ty, doanh
nghiệp đặc biệt là cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với ngân sách cho
quảng cáo còn hạn hẹp.
Với việc đem lại lợi ích to lớn cho các bên tham gia, mô hình
Groupon đã phát triển nhanh chóng và đã đưa Groupon trở thành công ty có
tốc độ phát triển nhanh nhất trong những năm đầu thế kỷ 21. Thu nhập của
Groupon năm 2009 là 100 triệu USD, thu nhập tiêu thụ năm 2010 là 760
triệu USD. Tháng 12/2010, Groupon đã từ chối lời mời mua lại với giá 6 tỷ
USD của Google!
Nếu hỏi về nguồn gốc của mô hình Groupon đang vô cùng thành công
hiện nay thì ai cũng sẽ nói nó bắt nguồn từ sự thành công của trang web mua
theo nhóm Groupon tại Mỹ năm 2008. Nhưng thật ra khái niệm mua theo
cùng mua không phải là mới và Groupon cũng không phải là trang web đầu
tiên về hình thức mua theo nhóm này. Trang web đầu tiên về mua theo nhóm
là trang Mobshop.com thành lập năm 1998. Ngay sau khi Mobshop thành
lập, đã có rất nhiều các trang web tương tự khác được thành lập ở Mỹ và
Anh như LetBuyit.com, Onlinechoice.com, E.conomy.com… Trung Quốc
trước đây cũng có một số trang web mua theo nhóm tương tự vậy như
liba.com, taobaotuangou.cn… Những trang web này cũng giống như những
trang web về thương mại điện tử khác, bán điện thoại, máy tính… cùng
nhiều loại sản phẩm khác, chỉ khác một điều giá cả của các loại sản phẩm
3
không cố định mà “biến động”, nhà cung cấp sẽ đưa ra một khoảng thời gian
nhất định, trong khoảng thời gian đó tùy thuộc vào lượng người tham gia
mua nhà cung cấp sẽ hạ giá bán xuống những mức khác nhau, lượng người
tham gia mua càng nhiều thì giá càng rẻ, cứ thế cho đến khi thời gian mua
kết thúc. Nhưng hình thức mua theo nhóm truyền thống không thật sự phát
triển và gây được sự chú ý vì thiếu sự sáng tạo và không có một mô hình
thật sự rõ ràng, đơn giản, dễ sử dụng và thu hút được người sử dụng cũng
như nhà cung cấp. Cho đến năm 2008, khi Groupon tại Mỹ ra đời, với mô
hình đơn giản, tiện lợi và đặc biệt là thành công ấn tượng đã khơi dậy một
trào lưu về mô hình mua theo nhóm trên toàn thế giới.
Thành công nhanh chóng của Groupon đã khơi dậy tinh thần “học
hỏi” cũng nhanh không kém trên toàn thế giới, hàng loạt các trang web mô
phỏng khác được thành lập như LivingSocial, Gilt City, BuyWithMe, Tippr,
Juice in the City, We Give to Get…của Mỹ; Daily Deal của Đức; Snippa của
Anh; đặc biệt là Trung Quốc với số lượng website hiện tại đã lên đến con số
hàng trăm, nhưng đứng đầu vẫn là một số trang web lớn như meituan.com
(CEO là người sáng lập ra renrenwang.com -facebook bản Trung Quốc),
fanfou.com - Twitter bản Trung Quốc (sau khi trang web này vì một vài sự
cố đóng web vào nửa cuối năm 2009 thì Twitter bản Trung Quốc có tên là
weibo thịnh hành hơn), lashou.com, Ftuan.com,tuanbao.com,….
Tại Việt Nam, các mô hình Groupon (hay còn gọi là các Groupon
clone) tuy mới chỉ xuất hiện cách đây chưa đầy 12 tháng nhưng đã phát triển
rất nhanh chóng. Tính từ tháng 7/2010 đến nay đã có gần 20 website theo
mô hình này đã ra đời như:
www.Phagia.com.vn (Phá giá) của mạng xã hội PhuNuNet.
www.Muachung.vn (Mua chung) của VCCorp.
www.Cucre.vn (Cực rẻ) của công ty Vatgia.com.
www.Nhommua.com (Nhóm mua) của công ty diadiem.com.
www.Cungmua.vn (Cùng mua) của tichluydiem.com.
Có rất nhiều lời khen cho sự thành công thần kỳ của Groupon.com và
câu hỏi đặt ra là liệu mô hình này có thành công ở Việt Nam hay không ?
4
Chương I,
Tổng luận về mô hình Groupon.
1.1/ Mô hình kinh doanh của Groupon:
Mô hình khinh doanh của Groupon: Groupon đưa ra những phiếu
giảm giá từ 30 – 90% về các mặt hàng tại mỗi khu vực thị trường khác nhau.
Các phiếu giảm giá “groupon” này đảm bảo các giao dịch mua bán hàng hóa
đó sẽ diễn ra khi số lượng người cùng mua hàng hóa đó đạt tới một lượng
nhất định được đưa ra từ trước trong một khoảng thời gian cho phép; trường
hợp nếu số lượng người mua không đủ mức tối thiểu đưa ra thì sẽ không có
giao dịch nào được thực hiện thông qua “groupon” này và những khách hàng
đã chuyển tiền mua hàng sẽ được hoàn trả tiền đầy đủ. Điều này làm giảm
rủi ro cho những nhà cung cấp hàng hóa - dịch vụ.
Nhiều người cho rằng Groupon là một hình thức phát triển của thương
mại điện tử, cụ thể là mô hình thứ 4 của thương mại điện tử gọi tắt là
B2T(Business To Team), sau B2B (Business To Business), B2C (Business
To Customer),C2C (Customer To Customer). Nhưng thật ra Groupon là mô
hình kết hợp giữa thương mại điện tử và quảng cáo. Thậm chí có thể nói,
nếu Groupon bao gồm 100 phần thì chỉ có 10 phần là thương mại điện tử.
Mục đích cuối cùng của các trang web Groupon không đơn thuần là bán các
phiếu khuyến mãi, mà quan trọng hơn là để quảng bá thương hiệu, quảng bá
sản phẩm cho nhà cung cấp và quảng bá thương hiệu cho chính mình.
Các nhà cung cấp đồng ý đưa ra các siêu khuyến mãi, siêu giảm giá
tới 60%, 70% thậm chí là trên 90%, mục đích chủ yếu là để quảng cáo, vì
nếu đơn thuần chỉ là giảm giá để thu hút lượng lớn khách hàng thì tính thế
nào nhà cung cấp cũng lỗ vốn. Và hơn nữa lượng người mua càng nhiều thì
càng lỗ nặng. Nhưng, nếu coi như đây là một phương thức quảng cáo, và các
chi phí thông qua giảm giá là các chi phí dành cho quảng cáo thì lại cực kỳ
có lợi và cực kỳ hiệu quả.
5
Nhà cung cấp nếu sử dụng các phương thức quảng cáo khác, sẽ phải
chi trả chi phí lớn hơn mà hiệu quả thì không được đảm bảo vì các phương
thức quảng cáo khác không đảm bảo lượng khách hàng sẽ tìm đến với nhà
cung cấp trong và sau thời gian quảng cáo. Còn nếu thông qua hình thức
mua theo nhóm thì có thể chắc ăn hơn, sẽ tạo cơ hội để khách hàng đích thân
tới trải nghiệm sản phẩm - dịch vụ của chính mình. Nếu số người mua không
đạt được số người yêu cầu tối thiểu thì hoạt động mua theo nhóm đó coi như
hủy bỏ, không có khách hàng đến thì nhà cung cấp cũng chẳng mất gì, hơn
nữa lại còn được quảng cáo miễn phí trên website của các trang Groupon
nữa! Đây cũng là một trong những kỹ xảo mà các nhân viên thị trường của
các trang mua theo nhóm phải nắm được để đi đàm phán với nhà cung cấp:
Cần nhấn mạnh cho họ hiểu, họ không lên trang web để bán sản phẩm - dịch
vụ, mà lên trang web để quảng cáo! Từ đó họ sẽ chuyển trọng tâm chú ý từ
chi phí bỏ ra thông qua giảm giá sang hiệu quả quảng cáo. Đây cũng là lý do
vì sao mà các hoạt động mua theo nhóm được tổ chức trên các trang
Groupon chủ yếu hướng vào ngành dịch vụ, vì ngành này chi phí đầu vào
thấp, dễ đàm phán để nhà cung cấp đồng ý đưa ra mức giảm giá cao.
Doanh thu của các site hoạt động theo mô hình Groupon này chủ yếu
từ 2 nguồn chính sau:
+ Doanh thu từ hoa hồng được hưởng trên số coupon bán được: mức
hoa hồng tùy thuộc vào thỏa thuận của website với nhà cung cấp dịch vụ,
sản phẩm. Mức hoa hồng này chiếm khoảng 10% giá trị mỗi phiếu khuyến
mại bán được.
+ Doanh thu từ quảng cáo và liên kết web: doanh thu này cũng không
thể bỏ qua bởi website luôn thu hút một lượng lớn khách hàng tiềm năng
thường xuyên ghé thăm.
Groupon thâm nhập thị trường chủ yếu là các thành phố lớn. Đội ngũ
nhân viên năng động, sáng tạo thực hiện thường xuyên việc nghiên cứu thị
trường khu vực, làm việc với nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ, các công ty
liên kết và các đối tác thanh toán để đưa ra các deal cập nhất nhất, hấp dẫn
nhất phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Đối tượng khách hàng hướng tới là
giới trẻ, tầng lớp tri thức,và nữ giới.
Gần đây các Groupon còn triển khai các ứng dụng trên Wap, Android,
Blackberry,iPhone, Windows Phone 7 cho phép người sử dụng có thể thực
6
hiện việc mua các “deal” ngay trên những smartphone của họ, biến những
chiếc điện thoại này trở thành những phiếu giảm giá cho người sử dụng.
1.2/ Lợi ích từ Groupon: mô hình win-win-win.
Mô hình Groupon thực chất là mô hình win-win-win và đó chính là
điểm hay, là yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của mô hình này
cho tới thời điểm hiện tại. Lợi ích mà các website này đem lại cho cả 3 bên:
khách hàng, nhà cung cấp, website Groupon là rất lớn.
1.2.1/ Đối với khách hàng:
+ Được mua hàng với giá rẻ hơn nhiều so với giá bán lẻ tại các điểm
bán hàng truyền thống.
+ Việc mua hàng và thanh toán online đem lại cho khách hàng rất
nhiều tiện lợi.
+ Với xu hướng địa phương hóa mạnh mẽ các khách hàng tại nhiều
vùng miền có thể tiếp cận việc mua sản phẩm, dịch vụ ngay tại địa phương
mình một cách dễ dàng.
1.2.2/ Đối với nhà cung cấp sản phẩm:
7
+ Có thêm một kênh quảng cáo sản phẩm, quảng bá thương hiệu với
chi phí rẻ hơn nhiều so với các phương thức quảng cáo truyền thống trước
đó.
+ Tiếp cận và thu hút một lượng lớn khách hàng mới với chi phí thấp.
+ Cơ hội bán được một lượng lớn hàng hóa,dịch vụ; đặc biệt ý nghĩa
trong mùa thấp điểm .
+ Thu thập thông tin,điều tra thị trường, đánh giá chất lượng sản phẩm
từ lượng khách hàng tiềm năng một cách dễ dàng, chi phí thấp.
1.2.3/ Đối với website Groupon:
+ Thu về doanh thu từ khoản chiết khấu của nhà cung cấp trên mỗi
phiếu “groupon” bán được khoảng 10% giá trị mỗi phiếu.
+ Doanh thu từ quảng cáo, liên kết web như đã nói ở trên.
Andrew Mason – người sáng lập ra Groupon từng bật mí anh còn có
những ý tưởng hay hơn cả Groupon. Vì sao ư? “Đối với tôi, cũng như với
bất kỳ ai đam mê với các ý tưởng, thì Groupon chỉ là một ý tưởng rất nhỏ bé.
Và tôi cũng đã có những ý tưởng hay hơn, mới mẻ hơn”, Andrew Mason
nói. Có thể là như thế, nhưng có vẻ như Groupon đã kiếm được những
khoản tiền không nhỏ từ hình thức kinh doanh mới mẻ của nó. Và các đối
thủ như LivingSocial cũng có phần, khi các nhà đầu tư đổ xô vào để chiếm
được một phần nhỏ trong cái phân khúc gọi là thương mại xã hội. Theo đánh
giá của Needham & Co- Công ty đầu tư ngân hàng hàng đầu thế giới, đây là
phân khúc tăng trưởng rất mạnh trong năm qua, khoảng 200%. Groupon
được xem là thủ lĩnh trong phân khúc này, với số thành viên lên đến 50 triệu
và hiện đang tăng thêm trung bình 3 triệu thành viên/ tháng. Tỷ lệ chiết khấu
có thể lên đến 90% đối với các sản phẩm và dịch vụ như nước rửa xe ô tô,
những bữa ăn ở nhà hàng, lớp học nấu ăn, dịch vụ chăm sóc răng, hay là bất
cứ sản phẩm nào có ở 500 thành phố và 35 quốc gia Groupon có mặt.
Thương mại xã hội - hình thức kinh doanh hấp dẫn mới trên nền Web, mang
lại lợi ích cho cả ba bên: khách hàng chi trả ở mức giá thấp hơn; người làm
kinh doanh có cơ hội tăng doanh thu và có thêm khách hàng tiềm năng mới;
và Groupon thì thu được phí từ chiết khấu của nhà cung cấp sản phẩm.
James Slavet, đối tác của Greylock Partners - một công ty đầu tư vốn ở
thung lũng Silicon và cũng là nhà đầu tư của Groupon cho biết: “Groupon đã
giải mã được mô hình thương mại và quảng cáo địa phương. Về lâu về dài,
hình thức kinh doanh này sẽ có hiệu quả trong quá trình bán lẻ những sản
phẩm của Google và tìm kiếm quảng cáo”.
8
1.3/ Lý do thành công của mô hình Groupon tại Mỹ:
Có rất nhiều lý do dẫn tới sự thành công của mô hình web thương mại
điện tử này. Tuy nhiên có thể kể tới 7 lý do chính góp phần quan trọng cho
thành công của mô hình Groupon tại Mỹ:
1- Bán hàng siêu giảm giá các “groupon” với mức chiết khấu từ 30% -
90%.
2- Kinh tế Mỹ và thế giới đang khủng hoảng, lạm phát tại Mỹ đang ở
mức cao vì vậy quan tâm về giá của người tiêu dùng Mỹ ở mức đặc biệt cao.
3- Cá nhân hóa tốt - đưa ra các mặt hàng phù hợp nhu cầu và nhà cung
cấp ở gần người mua.
4- Thu tiền trước (Negative working capital): Groupon lấy tiền của
người mua trước, trả cho nhà cung cấp sau. Đó vừa là điều kiện để thực hiện
việc mua các deal trên Groupon vừa giảm thiểu rủi ro tối đa cho nhà cung
cấp, cho website.
5- Các sản phẩm - dịch vụ có chất lượng và số lượng đảm bảo: vì thực
chất nhà cung cấp đang quảng bá, giới thiệu sản phẩm - dịch vụ, họ muốn
thu hút, lôi kéo khách hàng tiềm năng nhằm tăng thị phần; họ đang quảng bá
thương hiệu của chính họ, nên chất lượng hàng hóa - dịch vụ là trọng tâm
mà họ muốn đem tới cho khách hàng thông qua Groupon.
6- Nội dung của website luôn hấp dẫn khách hàng: với đội ngũ nhân
viên sáng tạo, năng động, am hiểu thị trường và lĩnh vực kinh doanh. Thêm
nữa, Groupon có tới khoảng 100 nhân viên chuyên viết để tạo ra những hot -
deal thu hút người mua.
7- Thời gian mua ngắn và số lượng khách hàng tối thiểu đạt nhỏ, một
số deal không yêu cầu số lượng khách hàng tối thiểu, các deal xuất hiện
không quá 1 ngày khiến việc mua sắm của khách hàng trở nên dễ dàng.
Groupon không những ngày càng thu hút nhiều người quan tâm mà
còn giữ chân được các khách hàng bởi dịch vụ chuyên nghiệp, tin cậy.
1.4/ Ý kiến các chuyên gia về Groupon:
Ông Đỗ Quốc Hiệp, Giám đốc Chiến lược Kinh doanh, Quỹ đầu tư
Mạo hiểm IDG Ventures Việt Nam đã đặt ra câu hỏi : “Groupon có phải
một Google tương lai?”.
9
Thật quá ngạc nhiên khi Google không ngần ngại đưa ra đề nghị mua
Groupon với giá 6 tỷ USD vào tháng 9 năm ngoái. Và còn ngạc nhiên hơn
nữa khi Mason và các đồng sự từ chối lời đề nghị hấp dẫn đó. Mason nói:
“Chúng tôi có rất nhiều lựa chọn. Mỗi quyết định của chúng tôi đều bắt
nguồn từ nguyên tắc tạo dựng một công ty có thể thay đổi cách thức người ta
vẫn thường mua bán tại địa phương mình. Chúng tôi có thể trở thành một
trong những thương hiệu mạnh nhất trong thế kỷ 21″. Mason, 30 tuổi, nhạc
sỹ, lập trình viên, nhà hoạch định chính sách, nhà hoạt động xã hội, nhưng
lại có tài năng trong lĩnh thương mại Web hơn. Tại trụ sở công ty ở Chicago,
anh cho bày những trang tạp chí viết về thất bại của Friendster, Napster,
Pets.com bên cạnh chính hình ảnh của mình trên tạp chí Forbes. “Tôi suy
ngẫm rất nhiều về những công ty này và sai lầm mà họ mắc phải. Và trong
hầu hết các trường hợp, không phải do bị đối thủ đánh bại mà chính họ tự
đem thất bại đến cho mình. Nếu so sánh với Myspace thì Facebook là sản
phẩm tốt hơn nhiều. Chỉ đơn giản vậy thôi”. Mason nhận thức được tất cả
những gì sẽ dẫn đến thất bại. Chuyên ngành chính của anh là âm nhạc ở Đại
Học Northwestern, và anh đã từng làm việc cho một cửa hàng thu băng ở
Chicago. Tuy nhiên, anh sớm nhận ra rằng anh giỏi hơn trong lĩnh vực lập
trình máy tính và có thể kiếm được nhiều hơn trong lĩnh vực này. Đến năm
2006, anh chuyển sang học khóa sau đại học về chính sách công ở trường
ĐH Chicago, đồng thời học qua về Internet.
Sau 3 tháng mày mò học tập, Mason được Eric Lefkofsky tài trợ 1
triệu đôla để phát triển ý tưởng mang tên The Point. Ý tưởng của The Point
là có thể quy tụ mọi người vào các hoạt động xã hội tập thể như diễu hành,
biểu tình, những ngày được nghỉ làm, vv. Không lâu sau, cả Mason và
Lefkofsky đều nhận ra rằng mua sắm mang lại nhiều lợi nhuận hơn hoạt
động xã hội. Đến cuối năm 2008, Groupon chính thức đi vào hoạt động. Nó
hoạt động trong mọi lĩnh vực và mang lại thành công bất ngờ. Chỉ trong 1
năm, Groupon đã có 1 triệu thành viên. Thương nhân ở Chicago và cả các
thành phố và bang lân cận đều đăng ký để trở thành thành viên của trang
web.
Eric Lefkofsky - một trong hai nhà đầu tư mạo hiểm của Groupon
cùng Brad Keywell đã nhận định về Groupon: “siêu tăng trưởng bình
phương”.
Theo ông Lefkofsky, “Groupon không giống với bất kỳ khuôn mẫu
nào trước đó. Tôi đã làm việc trong những công ty công nghệ tăng trưởng
10
cao. Tôi đã từng nghĩ tôi đã được thấy cái gọi là siêu tăng trưởng, nhưng
trường hợp của Groupon thì phải gọi là siêu tăng trưởng bình phương”. Các
nhà đầu tư theo dõi rất kỹ lưỡng tình hình tài chính của Groupon. Doanh số
ban đầu từ con số 0 đã lên tới 500 triệu đôla trong vòng 18 tháng. Chưa từng
có doanh nghiệp nào tăng trưởng nhanh đến vậy. Quan trọng hơn, Groupon
là mô hình có khả năng mở rộng cực lớn, nghĩa là Groupon hoàn toàn có thể
phát triển ra toàn cầu. Đến thời điểm hiện tại, Groupon đã có mặt ở 35 quốc
gia, gần đây mới xuất hiện ở Philippines, Singapore, Đài Loan và Hồng
Kông.
11
Chương II,
Thực trạng các mô hình Groupon
tại Việt Nam.
2.1/ Những thuận lợi cho mô hình Groupon tại Việt Nam:
2.1.1/ Thuận lợi từ phía khách hàng (yếu tố vi mô):
2.1.1.1/ Người tiêu dùng VN rất quan tâm tới giá:
Nguyên nhân cơ bản giúp mô hình Groupon thành công là yếu tố về
giá. Groupon có thể dành cho các khách hàng những mức chiết khấu rất lớn.
Đây là một yếu tố có sức thu hút đối với người tiêu dùng. Khách hàng tham
gia Groupon trực tuyến có cơ hội mua được nhiều sản phẩm hay dịch vụ giá
rẻ được khuyến mãi lên đến 90%. Dường như không chỉ riêng tại Mỹ, nơi
mà Groupon đã rất thành công, mà ở Việt Nam thì người tiêu dùng cũng rất
quan tâm về giá.
Đặc biệt là áp dụng trong môi trường Việt Nam thì yếu tố về giá lại
càng có vai trò quan trọng. Bởi mức sống của người Việt Nam nói chung là
vẫn thấp so với khu vực cũng như thế giới. Người dân sẽ có xu hướng chọn
lựa những mặt hàng giá rẻ mà vẫn đáp ứng được nhu cầu của mình. Dưới
12
đây là bảng so sánh về GDP của người Việt Nam trong khu vực cũng như
trên thế giới trong năm 2010:
Nước
Việt Nam
Thái lan
Hàn Quốc
Mỹ
GDP/người(USD)
1.174
4.992
20.591
47.284
Nguồn: Worldbank.
Một nguyên nhân khác khiến người tiêu dùng quan tâm tới giá là lạm
phát. Chính mức độ lạm phát cao ở Việt nam sẽ là nguyên nhân thúc đẩy
người tiêu dùng tìm kiếm hàng hóa giá rẻ hơn, mặc dù nhiều loại hàng hóa
có nguồn gốc xuất xứ không đảm bảo hay không có thương hiệu. Mức lạm
phát cao là một yếu tố không thể tránh khỏi của những nền kinh tế đang phát
triển nhanh như Việt Nam, nhưng nếu nhìn vào bảng sau thì ta có thể thấy ở
Việt Nam tình hình lạm phát là đáng lo ngại:
13
Năm
2006
2007
2008
2009
Tỷ lệ lạm
phát(%)
8,3
7,5
8,3
24,4
Nguồn: CIA world factbook.
Lạm phát cao khiến người tiêu dùng phải thắt chặt chi tiêu, và cách để
thúc đẩy họ mua sắm chính là giảm giá. Khảo sát chúng tôi thực hiện (chủ
yếu tại khu vực Hà Nội) cho thấy giá cả không chỉ ảnh hưởng mạnh tới
quyết định mua hàng của những người có thu nhập thấp (dưới 5triệu
đồng/tháng) mà ngay cả đối với người tiêu dùng thu nhập trung bình (từ 5-
10 triệu đồng/tháng) và thu nhập cao (trên 10 triệu đồng/tháng), giá cả cũng
đóng vai trò khá quan trọng.
14
2.1.1.2/ Tâm lý thích khuyến mãi:
Đây là một yếu tố mà các nhà hoạch định chiến lược rất hay dùng để
khuyến khích mua sắm, tăng lượng cầu. Cứ mỗi dịp Noel hay năm mới là
các cửa hàng ở phương Tây hay ở Mỹ lại đồng loạt có các hình thức khuyến
mãi, và thường là hiệu quả rất cao, khách hàng rất hưởng ứng. Groupon
cũng đã đánh trúng vào tâm lý này khi thường xuyên đưa ra các hình thức
khuyến mãi đa dạng, có những thương vụ gần như là cho không, chỉ với mục
đích là người mua có thể mua được giá cực rẻ, còn người sản xuất lại quảng
bá được thương hiệu của mình hoặc giải quyết được số hàng đang bị tồn
đọng.
Với hình thức khuyến mãi trong Groupon thì rất nhiều người mua sản
phẩm khuyến mãi ngay cả khi họ không có nhu cầu. Người mua có thể biết
được các thông tin về khuyến mãi một cách nhanh chóng và rộng rãi thông
qua mạng Internet, vì vậy Groupon không cần mất quá nhiều chi phí cho
việc quảng bá các đợt khuyến mãi mà có khi chính người tiêu dùng lại đổ xô
đi săn lùng các đợt khuyến mãi này. “Người tiêu dùng Việt Nam đặc biệt
thích khuyến mãi”, đó là kết luận của chúng tôi khi tiến hành khảo sát
khoảng 100 người với 68% số người được hỏi thường xuyên chú ý đến các
đợt khuyến mãi,giảm giá ; 20% thỉnh thoảng để ý tới và chỉ có 12% không
quan tâm đến các đợt giảm giá. Đó thực sự là một thuận lợi lớn cho các
Groupon clone tại Việt Nam.
2.1.1.3/ Tâm lý làm theo đám đông:
15
Người Việt Nam có một tâm lý rất đặc trưng là tâm lý đám đông.
Người tiêu dùng Việt Nam sẽ cảm thấy yên tâm mua hàng hơn khi có nhiều
người cùng mua một lúc. Điều này có thể thấy rõ khi các bạn đi ăn ngoài
hàng quán, trừ những nơi là quen thuộc với bạn. Nếu bạn đến một nơi xa lạ,
bạn sẽ có xu hướng tìm đến nơi có nhiều người ăn, khách hàng đông đúc.
Groupon cũng vậy, khi có một lượng khách hàng đông cùng mua với mình
thì sự yên tâm cũng sẽ tăng lên đáng kể.
Ngoài ra còn có một yếu tố khác là người Việt sẽ cảm thấy vui vẻ hay
ấm áp hơn khi thực hiện một số hoạt động chung với nhau, trong không khí
đông người và ấm cúng. Ví dụ như các thương vụ chiết khấu các chuyến đi
resort, spa,mua sắm,…cho đông người cùng tham gia.Trong các hoạt động
này,phần lớn khách hàng Việt Nam sẽ đi cùng gia đình,bạn bè… chứ không
bao giờ đi một mình.
2.1.1.4/ Mua bán/ giải trí là một trong những hoạt động chủ chốt
của người Việt từ offline cho tới online:
Người Việt, đặc biệt là giới trẻ hiện nay rất quan tâm đến các hoạt
động mua bán và giải trí. Với sự bùng nổ của mạng internet hiện nay tại Việt
Nam thì các hình thức mua sắm, giải trí trên mạng lại càng có điều kiện phát
triển. Và tiềm năng vẫn là rất lớn, bởi theo số liệu thì hiện nay có tới 27%
người Việt nam được tiếp cận với internet, cộng với tốc độ tăng trưởng
thuộc loại hàng đầu thế giới thì thực sự các hình thức thương mại điện tử nói
chung và các hình thức Groupon nói riêng đang có một “mảnh đất” cực kì
lớn để phát triển trong tương lai.
16
2.1.2/ Thuận lợi từ phía doanh nghiệp (yếu tố vi mô):
Các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu coi trọng vấn đề quảng bá
thương hiệu, và Groupon là một giải pháp đơn giản mà hiêu quả.
Mô hình Groupon giống như một mô hình quảng cáo mới thay cho
các mô hình quảng cáo truyền thống. Giống như chiến lược của nhà sáng lập
Groupon đưa ra: “ Chúng tôi giúp các doanh nghiệp tiếp cận tới một thế giới
mới của truyền thông xã hội, Internet marketing với những phương pháp hết
sức sáng tạo. Sự có mặt của các doanh nghiệp trên trang web Groupon sẽ trở
thành phần đầy hấp dẫn trong cái cộng đồng đó”.
Đối với các chủ doanh nghiệp địa phương , Groupon đã trở thành một
sự thay thế rất tốt cho các quảng cáo truyền thống. Với các quảng cáo truyền
thống, doanh nghiệp sẽ phải trả phí và chờ đợi kết quả tốt nhất cho mình.
Trong khi với Groupon , các chương trình khuyến mãi giảm giá như một
hình thức mới hoàn toàn cho quảng cáo địa phương, nơi mà doanh nghiệp
chỉ phải trả cho các kết quả thực tế, thành quả đạt được.
Một yếu tố khác mà các doanh nghiệp rất kỳ vọng vào trang web
Groupon là tạo ra các khách hàng trung thành tiềm năng cho doanh nghiệp.
Vì những mức giá rất thấp gần như không thể tin được, các khách hàng sẽ có
cơ hội mua được những món hàng mà họ khao khát nhưng chưa có cơ hội để
mua. Qua đó mang lại một loạt các khách hàng mới cho doanh nghiệp, và kì
vọng sẽ kết nối được trong đó những vị khách hàng trung thành với doanh
nghiệp.
17
Groupon đem đến giải pháp hiệu quả đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ có ngân sách cho quảng cáo và marketing eo hẹp. Một ví dụ cụ thể là
nếu một website Groupon có 100.000 thành viên thì thông tin của doanh
nghiệp sẽ được gửi miễn phí hàng ngày tới tất cả lượng thành viên này. Tính
phí quảng cáo khoảng 100 đồng một người thì mỗi ngày doanh nghiệp đã
tiết kiệm được 10 triệu đồng.
2.1.3/ Thuận lợi từ sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử tại
Việt Nam (yếu tố vĩ mô):
Hiện tại, các doanh nghiệp áp dụng mô hình Groupon tại Việt Nam
vẫn chưa khai thác hết thị trường trong nước. Thị trường dồi dào này được
hình thành từ lượng lớn người dùng Internet tại Việt Nam. Bảng thống kê
sau chỉ ra điều đó:
18
Top 20 nước có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới
Nước
Dân số
Số người
sử dụng
Tỷ lệ phần
trăm
Tăng trưởng
2000-2010
1, Trung Quốc
1.330.141.295
420.000.000
31,6 %
1.766,7%
2, Hoa Kỳ
310.232.863
239.893.600
77,3%
151,6%
3, Nhật Bản
126.804.433
99.143.700
78,2%
110,6%
4, Ấn Độ
1.173.108.018
81.000.000
6,9%
1.520%
5, Brazil
201.103.330
75.943.600
37,8%
1.418,9
6, Đức
82.282.988
65.123.800
79,1%
171,3%
7, Anh
62.348.447
51.422.100
82,5%
234%
8, Nga
139.390.205
59.700.000
42,8%
1.825,8%
9, Pháp
64.768.389
44.625.300
68,9%
425%
10, Hàn Quốc
48.636.068
39.440.000
81,1%
107,1%
11, Iran
76.923.300
33.200.000
43,2%
13.180%
12, Italy
58.090.681
30.026.400
51,7%
127,5%
13, Indonesia
242.968.342
30.000.000
12,3%
1.400%
14, Tây Ban
Nha
46.636.068
29.093.984
62,6%
440%
15,Mexico
112.468.855
30.600.000
27,2%
1.028,2%
16, Thổ Nhĩ
Kỳ
77.804.122
35.000.000
45%
1.650%
17, Canada
33.759.742
26.224.900
77,7%
106,5%
18, Phillippine
99.900.177
29.700.000
29,7%
1.385%
19, Việt Nam
89.571.130
24.269.083
27,1%
12.034,5%
20, Ba Lan
38.463.689
22.450.600
58,4%
701,8%
Nguồn: Internet World Stats.
19
Nhìn bảng thống kê ta có thể thấy trong số 20 nước có số lượng người
sử dụng internet cao nhất thế giới thì Việt Nam là nước có tốc độ tăng
trưởng cao nhất với tốc độ đáng kinh ngạc là 12.034,5%. Điều đó tạo nền
tảng rất thuận lợi cho thương mại điện tử phát triển, và thực sự thương mại
điện tử cũng đang rất phát triển tại Việt Nam. Thương mại điện tử phát triển
tạo động lực cho mô hình Groupon mở rộng, ngược lại Groupon mở rộng lại
góp phần thúc đẩy thương mại điện tử phát triển tại Việt Nam. Đó là mối
quan hệ tương hỗ hai chiều, phụ thuộc lẫn nhau.
Và đặc biệt là có thể nhận thấy tỷ lệ số người sử dụng Internet ở Việt
Nam mới chỉ có 27,1% trên tổng số gần 90 triệu dân; so với tỷ lệ của một số
nước trên thế giới như Hoa Kỳ 77,3% , Hàn quốc 81,1%, Nhật Bản 78,2%
vẫn còn rất nhỏ. Con số đó chứng tỏ tiềm năng phát triển thương mại điện tử
nói chung và tiềm năng cho các trang web Groupon nói riêng vẫn còn rất
lớn. Một thị trường tương lai rộng mở vẫn đang còn ở trước mắt để các mô
hình Groupon có điều kiện phát triển thuận lợi và thu lợi nhuận.
2.2/ Các lí do khiến các Groupon clone khó thành công tại Việt Nam:
Tuy có nhiều thuận lợi để phát triển mô hình Groupon nhưng rõ ràng
là vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn với các website Groupon tại Việt Nam.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát với các khách hàng từng biết tới hay từng
mua hàng của các Groupon clone về những khó khăn ngăn cản việc mua
20
hàng online; với thang điểm từ 1-5 (1 là ít ảnh hưởng nhất và 5 là ảnh hưởng
nhiều nhất) cho 5 vấn đề nổi cộm nhất là : thanh toán ; thương hiệu của các
doanh nghiệp; an ninh trong giao dịch; dịch vụ khách hàng; chất lượng sản
phẩm. Kết quả không bất ngờ khi thanh toán là vấn đề lớn nhất với số điểm
3,68; xếp trên cả vấn đề về thương hiệu (3,09) và dịch vụ khách hàng
(2,88)… Thực sự thanh toán vẫn là vấn đề cố hữu đối với các hoạt động mua
bán online tại Việt Nam.
2.2.1/ Vấn đề thanh toán :
Đây là yếu tố mấu chốt cản trở sự phát triển của hình thức Groupon
tại Việt nam. Ở Việt Nam cho đến nay, đã có 2,5 triệu thẻ thanh toán được
phát hành với 20 ngân hàng đã phát hành thẻ. Với 14.000 điểm chấp nhận
thẻ, nhưng số lượng thánh toán bằng thẻ mới chỉ chiếm 2% các giao dịch
thanh toán. Có thể nói lượng tiền thanh toán qua hình thức này vẫn còn quá
thấp (từ tháng 6/2004 đến 6/2005, trị giá giao dịch mới chỉ đạt 5,7 triệu
USD, tất cả các giao dịch này đều được trả cho các trang web bán hàng nước
ngoài).
Trước hết là vấn đề thanh toán từ người tiêu dùng đối với Groupon.
Người Việt nam sẽ không đủ kiên nhẫn với hình thức thanh toán chưa được
thuận lợi và mất nhiều thời gian như hiện nay. Qua đó sẽ không tìm đủ
người cho một deal, một thương vụ được hoàn tất. Và như vậy là thương vụ
đó đã bị thất bại.
21
Ngược lại là quá trình hoàn tiền của các trang Groupon đến khách
hàng nếu thương vụ bị thất bại. Quá trình này cũng rất phức tạp và phiền
phức, không đơn giản như những nơi mà Groupon đã rất phát triển như ở
Mỹ. Và chính nó sẽ làm nản lòng cho người tiêu dùng, gây nên những cảm
giác khó chịu cho họ. Kết quả là người tiêu dùng không mặn mà với hình
thức này.
Ở Việt Nam, phần lớn các nhà cung cấp dịch vụ theo mô hình
Groupon đang chú trọng vào việc tăng trưởng hàng hóa, dịch vụ khuyến mãi
và sử dụng chủ yếu phương pháp giao hàng-thu tiền tại chỗ. Phương pháp
truyền thống này có điểm hạn chế ở tính tiện lợi khi thanh toán và hoàn tiền
như đã nói trên; bên cạnh đó, còn bị giới hạn về địa lý và làm tăng chi phí
vận hành của nhà cung cấp dịch vụ.
Ngoài ra, một yếu tố cũng cần kể đến là chi phí cho khâu thanh toán
cũng cao hơn hẳn chi phí cho việc này tại Mỹ (qua thẻ tín dụng). Mặc dù
Việt Nam hiện tại đã phát triển Internet banking, đã có hệ thống cổng thanh
toán trực tuyến /ví điện tử (chỉ tính riêng theo chúng tôi tìm hiểu biết được
thì đã có đến trên dưới 10 cổng thanh toán trực tuyến khác nhau, tiêu biểu là
nganluong, vinapay, onepay…) nhưng qua thống kê, chỉ có khoảng 20%
khách hàng thanh toán qua Internet banking hoặc cổng thanh toán trực
tuyến, phần đông còn lại vẫn thanh toán bằng tiền mặt. Điều đó đồng nghĩa
với việc chi phí của Groupon clone tại Việt Nam sẽ tăng lên rất nhiều.
Nếu như ở Mỹ và Trung Quốc, hầu hết người mua đều thanh toán qua
mạng, sau khi bấm “Mua” và hoàn thành tất cả các thao tác, Groupon chỉ
cần gửi tin nhắn hoặc email có chứa số thứ tự và mật khẩu cho người mua;
khi người mua đi nhận sản phẩm hoặc dịch vụ chỉ cần xuất trình tin nhắn
22
hoặc email là được. Và có thể nói giai đoạn này hầu như không phát sinh chi
phí, hoặc nếu có thì cũng vô cùng ít. Nhưng ở Việt Nam, giai đoạn này là
giai đoạn có chi phí vô cùng lớn. Vì hầu hết người mua thanh toán bằng tiền
mặt, do đó sẽ phát sinh những chi phí sau:
- Chi phí chuyển phát nhanh (lớn nhất).
- Chi phí in phiếu khuyến mãi bao gồm: máy in phiếu khuyến mãi +
máy ép plastic (nếu cẩn thận hơn) + giấy in phiếu + chi phí bảo trì , thêm
mực cho các loại máy in phiếu + lương nhân công phụ trách làm và in phiếu
+ chi phí in bì đựng phiếu khuyến mãi.
- Lương cho nhân viên chăm sóc khách hàng: sẽ cần nhiều nhân viên
chăm sóc khách hàng hơn.
- Chi phí điện thoại: sẽ cần gọi điện xác nhận địa chỉ và thời gian
khách hàng có thể nhận phiếu (nếu phục vụ chu đáo).
- Chi phí cho việc quay vòng vốn chậm.
Chí phí này cao vô hình chung lại làm giảm lợi thế của các trang web
Groupon về giá. Đây là một tác động mà chắc chắn các nhà cung cấp, người
tiêu dùng cũng như các Groupon clone đều không hề mong muốn.
2.2.2/ Thương hiệu:
So sánh với trang Groupon khuôn mẫu ở Mỹ, các Groupon clone Việt
phải đối mặt với thách thức ghê gớm là chi phí truyền thông. Làm sao để thu
23
hút lượng người quan tâm đủ lớn để lượt mua chung có hiệu lực? Làm
truyền thông thế nào cho hiệu quả để doanh nghiệp hài lòng khi hợp tác? Hai
câu hỏi này khiến cho những người làm kế hoạch marketing phải cảm tấy rất
khó khăn khi làm phép cộng chi phí.
Do Groupon là mô hình đầu tiên nên thường được báo chí, khách
hàng ở Mỹ nhớ đến và bàn tán truyền miệng cho nên không tốn nhiều chi
phí Marketing. Còn tại Việt Nam, các mô hình clone trông khá tương tự
nhau, báo chí đã “chán” nói về dotcom, khách hàng thì không biết các clone
này khác nhau như thế nào. Như vậy, các trang Groupon lại phải mất thêm
chí phí cho Marketing cũng như giáo dục khách hàng.
Do đó, trong quá trình thu hút người mua, thu hút thành viên quan tâm
đến trang web, một số trang Groupon đã phải đầu tư khá lớn. Ví dụ, một số
trang, để tăng số lượng thành viên đã tổ chức một số chương trình bốc thăm
trúng thưởng điện thoại, máy tính, xe… hoặc mời tham gia đăng ký thành
viên mua lần đầu sẽ được thưởng tiền ảo dùng để mua hàng trên trang web
(tiền ảo thì cũng là tiền thật, vì khi thanh toán với nhà cung cấp, trang web
vẫn phải thanh toán tiền thật). Vì vậy sẽ nảy sinh một số chi phí như : chi phí
tổ chức hoạt động (phần thưởng+chi phí quảng cáo cho hoạt động+ các chi
phí phụ gia khác) + chi phí maketing + lương cho nhân viên maketing + tiền
ảo.
2.2.3/ Chất lượng phục vụ khách hàng, thái độ phục vụ nhân viên:
24
Một khác biệt lớn khác là mức độ uy tín của người bán tại Việt Nam
chưa cao như ở Mỹ, châu Âu hoặc các quốc gia có nền thương mại điện tử
phát triển trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc nên khi khách hàng sử
dụng phiếu khuyến mãi, đặc biệt ở mảng dịch vụ, họ thường không được các
nhân viên phục vụ chu đáo. Không ít trường hợp khách hàng than phiền về
chất lượng phục vụ đối với các dịch vụ đặt mua theo nhóm. Đôi khi, hàng
hóa và dịch vụ không được đúng hoàn toàn như cam kết, thường bị giảm bớt
về những quyền lợi mà khách được chủ động lựa chọn (options). Điểm khó
nhất ở đây là các nhà cung cấp dịch vụ lại không thể đại diện cho người bán
để cam kết chất lượng. Do đó, chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp
tham gia mô hình Groupon sẽ quyết định sự hài lòng của khách hàng cá
nhân đối với dịch vụ.
Ở VN khi khách hàng dùng phiếu khuyến mãi, đặc biệt ở mảng dịch
vụ thường không được nhân viên phục vụ chu đáo, thậm chí còn coi thường
khách hàng. Ngay cả dịch vụ của các thương hiệu lớn như muachung,
nhommua,… cũng đã có nhiều trường hợp tương tự xảy ra.
Đó thực sự là vấn đề rất đáng lo ngại bởi theo số liệu chúng tôi thu
nhận thì có hơn 70% số người được hỏi mua hàng hóa là các dịch vụ: ăn
uống, làm đẹp, du lịch… trên các website Groupon tại Việt Nam.
Nếu dịch vụ cung cấp không được 100% như hứa hẹn, bị cắt xén
nhiều sẽ gây mất lòng tin cho khách hàng; khách hàng sẽ không còn tin
tưởng vào trang web nữa, gây ra tác động dây chuyền xấu đối với niềm tin
của nhiều người khác đối với các trang web Groupon.