2. Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý đất đai ở
Việt Nam hiện nay
Ngày nay, khi đất nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những lý
luận địa tơ đó được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo trong
thực tiễn để xây dựng đất nước giàu mạnh trong thực tiễn để đất nước trở
nên giàu mạnh. Lý luận này đã trở thành cơ sở khoa học để xây dựng các
chính sách thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác có liên quan nhằm
kích thích phát triển nơng nghiệp và các ngành trong nền kinh tế.
2.1. Vận dụng trong luật đất đai
Đất đai là một tài nguyên quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân
cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh – quốc phòng. Ngày
nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản
lý. Nhà nước giao đất, rừng cho các tổ chức kinh tế hay đơn vị vũ trang để sử
dụng. Để bổ sung cho nguồn ngân sách và thông qua ngân sách thực hiện
một số chính sách phát triển nơng nghiệp, những người th đất phải đóng
thuế cho nhà nước. Thuế này khác xa với địa tô tư bản chủ nghĩa và địa tô
phong kiến vì nó tập trung vào ngân sách đem lại lợi ích cho tồn dân, nó
khơng mang bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa.
Ở mỗi chế độ, đất đai lại thuộc về thuộc về mỗi giai cấp khác nhau như: sở
hữu của thực dân Pháp, của địa chủ và quan lại quý tộc phong kiến,… Và
cuối cùng Mác cũng đã kết luận: “mỗi bước tiến của nông nghiệp tư bản chủ
nghĩa là một bước tiến khơng những trong nghệ thuật bóc lột người lao động
mà còn là bước tiến về mặt làm cho đất đai bị kiệt quệ mà sự bóc lột đó được
thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có địa tơ.
Nhà nước đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và
nghĩa vụ của người dân theo những điều khoản như: điều 1, điều 4, điều 5,
điều 12, điều 22, điều 79 luật đất đai. Ngoài ra, trong pháp luật về đất đai của
nhà nước ta hiện nay cũng ban hành những quy định để người dân phải trả
tiền thuê đất (một hình thức của địa tô) khi sử dụng đất một cách tự nguyện.
Hiện nay, đất được cấp cho dân, dân có quyền sử dụng đất vào mục đích của
mình. Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một khoản tiền thuê đất rất
nhỏ so với thu nhập của họ. Cịn đối với đất để làm nơng nghiệp thì người dân
phải nộp thuế nhưng họ có thể tự do kinh doanh trên đất của mình sao cho
thu được lợi nhuận cao nhất. Chẳng hạn như có vùng trồng lúa, có vùng lại
trồng đay và có vùng lại trồng cà phê, điều, bông,….
2.2. Vận dụng trong thuế đất nông nghiệp
Thuế nông nghiệp ở đây khơng phải thể hiện sự bóc lột đối với nơng dân mà
đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi cơng.
Để khuyến khích sử dụng đất nơng nghiệp có hiệu quả; thực hiện
cơng bằng, hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông
nghiệp vào ngân sách Nhà nước; căn cứ vào điều 84 của Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Luật này quy định thuế sử
dụng đất nông nghiệp, cụ thể ở các điều 1 đến điều 10, điều 19, điều 21, điều
22, điều 23,…
Việc miễn giảm thuế cho những người dân có hồn cảnh đặc biệt là một việc
khác xa so với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự sáng tạo của
đảng ta trong việc vận dụng lý luận về địa tô khi đề ra chính sách thuế nơng
nghiệp, động viên thúc đẩy người dân sản xuất. Hiện nay, tổng cục thuế đã
ban hành quy trình miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp số 137 TCT/ QD/
NV7 ngày 21/8/2001 cho các đối tượng chính sách xã hội như: hộ gia đình có
cơng với cách mạng, hộ gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, hộ gia đình
có nhiều khó khăn,…(báo pháp luật số 159 ra ngày 29/8/2001)
Sự khác biệt lớn nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai
đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và
điều hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng tạo
mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác nhà nước còn đưa ra một số
quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất nhiều mà chủ
yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi nông nghiệp
+ Nếu chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ đất
nơng nghiệp sang phi nơng nghiệp thì thuế từ 20% – 40%, nếu đất nông
nghiệp chuyển sang xây dựng các cơng trình cơng nghiệp từ 40% sang 60%
+ Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục đích
nơng nghiệp thì khơng phải trả tiền sử dụng đất cho nơng nghiệp, nếu sử
dụng vào mục đích khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang hình thức
th đất nếu là tổ chức sử dụng đất ở trong nước.
2.3. Vận dụng trong việc cho thuê đất
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một cơng ty thì họ
phải thuê đất của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương
với diện tích cũng như vị trí của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất rõ
việc thuê đất để kinh doanh, trên cơ sở ấy, ta thấy rõ sự khác biệt và sự vận
dụng lý luận địa tô của Mác trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà
nước sử dụng những văn bản pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của người
thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều tự nguyện đóng góp. Trong
việc thuê đất để kinh doanh thì người đã thuê đất của nhà nước sẽ phát triển
kinh doanh trên mảnh đất đó rồi lấy lợi nhuận mà mình làm ra để trả cho nhà
nước và số tiền đó sẽ vào ngân sách nhà nước. Hiện nay khơng chỉ có việc
th đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà nước cịn cho nước
ngồi th đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam và tăng
nguồn thu cho ngân sách.
=> Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như
trong một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tơ vẫn cịn
tồn tại nhưng về bản chất thì hồn tồn khác so với địa tơ phong kiến và địa tô
tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên trong việc sử dụng lý luận địa tô của C.Mác trong
việc quản lý đất đai vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chẳng hạn như nhà nước
thu đất của nơng dân với giá rất rẻ sau đó quy hoạch xây dựng nhà ở và cho
thuê với giá rất cao. Đây là vấn đề cần được kiến nghị lên cấp có thẩm quyền
nhằm có sự đền bù thoả đáng cho dân. Nếu như trong xã hội phong kiến và
tư bản chủ nghĩa, người sử dụng đất phải nộp tô cho địa chủ thì ngày nay tơ
hay cịn nói các khác là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào
ngân sách nhà nước. Nguồn ngân sách đó lại được dung vào những công
việc nhằm xây dựng đấy nước.
Địa tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Địa tô
đã từng tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, lý luận địa tô tư
bản chất Mác không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong nơng nghiệp mà cịn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách
thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác có liên quan đến đất đai có hiệu
quả hơn. Như vậy ta một lần nữa ta khẳng định rằng lý luận về địa tô của
C.Mác đã được đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo và hợp lý.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và nhà
nước đang dần cải thiện để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh