i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AND:
:
Axit Deoxiribo Nucleic
ARN:
:
Ribonucleic Axit
cs:
:
Cộng sự
E. coli
:
Escherichia Coli
MMA:
:
Nxb:
:
Nhà xuất bản
TT:
:
Thể Trọng
Tr:
:
Trang
Metritis Mastitis Agalactia
ii
DANH MỤC CÁC BÃNG
Bảng 2.1. Những biểu hiện khi lợn nái sắp đẻ ..................................................9
Bảng 4.1. tình hình chăn ni lợn tại trại qua 3 năm ......................................33
Bảng 4.2. Số lượng lợn nái và lợn con theo mẹ trực tiếp chăm sóc
ni dưỡng tại trại qua 6 tháng thực tập............................................34
Bảng 4.3. Kết quả thực hiện thao tác đỡ đẻ cho lợn tại trang trại...................35
Bảng 4.4. Kết quả thực hiện các thao tác xử lý trên đàn lợn con....................37
Bảng 4.5. Lịch sát trùng trại lợn nái ..............................................................39
Bảng 4.6. Kết quả tiêm phòng bệnh cho đàn lợn con tại trang trại.................40
Bảng 4.7. Tình hình mắc bệnh trên đàn lợn nái sinh sản và lợn con
theo mẹ tại trại ..................................................................................42
Bảng 4.8. Kết quả trực tiếp điều trị bệnh trên đàn nái sinh sản và lợn
con theo mẹ tại trại ............................................................................43
iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ii
DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................................iii
MỤC LỤC .......................................................................................................iv
Phần 1.MỞ ĐẦU.............................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề .............................................................................................1
1.2 Mục đích và yêu cầu của chuyên đề.....................................................2
1.2.1. Mục đích của chuyên đề ................................................................2
1.2.2. Yêu cầu của chuyên đề ..................................................................2
Phần 2.TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ........................................................3
2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập.................................................................3
2.1.1. Vị trí địa lý ......................................................................................3
2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề ................................................5
2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái..........................................5
2.2.2. Những hiểu biết về quy trình ni dưỡng và chăm sóc lợn
nái sinh sản................................................................................................8
2.2.3. Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi .......................15
2.2.4. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản và lợn con
theo mẹ ....................................................................................................18
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước ...............................28
2.3.1. Các nghiên cứu trong nước ..........................................................28
2.3.2. Tình hình nghiên cứu ngồi nước ................................................29
Phần3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH .......31
3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian thực hiện.......................................31
3.2. Nội dung thực hiện ..............................................................................31
3.3. Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện..............................................31
iv
3.3.1. Các chỉ tiêu thực hiện ..................................................................31
3.3.2. Phương pháp thực hiện .................................................................31
3.3.3. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi ...............................32
Phần 4.KẾT QUÃ VÀ THÃO LUẬN........................................................33
4.1. Tình hình chăn ni lợn tại trang trạiNguyễn Xn Dũng, huyện
Ba Vì, thành phố Hà Nội .....................................................................................33
4.2. Kết quả thực hiện quy trình chăm sóc, ni dưỡng cho đàn lợn
tại trang trại ................................................................................................33
4.2.1. Kết quả q trình chăm sóc và ni dưỡng đàn lợn nái sinh
sản tại trại ................................................................................................34
4.2.2. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng lợn con ...................................35
4.3. Kết quả thực hiện quy trình vệ sinh phịng bệnh cho đàn lợn tại
trang trại .....................................................................................................38
4.3.1. Kết quả thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh ................38
4.3.2. Kết quả phòng bệnh bằng thuốc và vắc xin cho lợn nái và
lợn con .....................................................................................................40
4.4. Kết quả chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn nái sinh sản và lợn
con theo mẹ tại trại lợn Nguyễn Xuân Dũng ...........................................41
4.4.1. Tình hình mắc bệnh ở đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo
mẹ tại trại lợn Nguyễn Xuân Dũng .......................................................41
4.4.2. Kết quả điều trị bệnh trên lợn nái sinh sản và lợn con theo
mẹ ............................................................................................................42
Phần 5.KẾT LUẬN TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ ..........................................44
5.1.Kết luận ................................................................................................44
5.3. Đề nghị ................................................................................................44
TÀI LIỆU THAM KHÃO
PHỤ LỤC
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và nhà nước,
ngành chăn ni ngày càng phát triển trong đó có chăn ni lợn. Chăn ni
lợn đã chuyển từ loại hình chăn ni nông hộ nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung
trang trại, từ đó đã giúp cho ngành chăn ni lợn phát triển không ngừng cả
về chất lượng và số lượng. Để đạt hiệu quả kinh tế cao cần đẩy mạnh việc áp
dụng các biện pháp kỹ thuật vào cải thiện giống, thức ăn, kỹ thuật chăm sóc
ni dưỡng... Đặc biệt chú trọng đến cơng tác giống, giống tốt thì vật ni
tăng trọng nhanh, khả năng tận dụng thức ăn tốt, thích nghi và chống chịu
bệnh cao.
Để ngành chăn nuôi lợn phát triển hơn nữa ở nước ta, một trong những
khâu quan trọng góp phần quyết định đến sự thành cơng trong ngành chăn
nuôi lợn là chăn nuôi lợn nái. Đặc biệt là trong việc chăn nuôi lợn nái ở nước
ta để có đàn con ni thịt sinh trưởng và phát triển tốt, cho tỷ lệ nạc cao, và
đây cũng chính là mắt xích quan trọng để tăng nhanh đàn lợn cả về số lượng
và chất lượng. Để cung cấp giống cho nhu cầu chăn ni của các trang trại thì
việc phát triển đàn lợn nái sinh sản cần đặc biệt được quan tâm. Tuy nhiên,
một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng sinh sản của lợn nái
đang nuôi ở các trang trại hiện nay là bệnh còn xảy ra rất nhiều, do khả năng
thích nghi của những giống lợn nái ngoại với khí hậu nước ta cịn kém, đặc
biệt là bệnh như: Viêm tử cung, viêm vú, đẻ khó và bại liệt sau đẻ... Các bệnh
này do nhiều yếu tố như điều kiện vệ sinh, chăm sóc ni dưỡng kém, thức
ăn, nước uống không đảm bảo vệ sinh, do vi khuẩn, virus gây nên... Chính vì
vậy mà việc nghiên cứu các quy trình chăm sóc và tìm hiểu về những bệnh
thường gặp trên đàn lợn nái sinh sản là rất cần thiết.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm
khoa Chăn nuôi thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, cùng với sự
giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và cơ sở thực tập chúng em thực hiện
chuyên đề: “Thực hiện quy trình chăm sóc, ni dưỡng, điều trị bệnh cho
2
đàn lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ ni tại trại Nguyễn Xn Dũng,
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội”.
1.2. Mục đích và yêu cầu của chuyên đề
1.2.1. Mục đích của chun đề
- Nắm được quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ.
- Biết cách phòng và trị một số bệnh hay xảy ra đối với lợn nái sinh sản.
1.2.2. Yêu cầu của chun đề
- Đánh giá tình hình chăn ni lợn tại trại Nguyễn Xuân Dũng,huyện
Ba Vì, thành phố Hà Nội.
- Áp dụng quy trình chăm sóc, ni dưỡng cho đàn lợn nái ni tại trại
Nguyễn Xn Dũng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
- Xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn nái sinh sản và lợn con theo
mẹ, hiệu quả của phác đồ điều trị bệnh.
3
Phần 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Điều kiện cơ sở nơi thực tập
2.1.1. Vị trí địa lý
Trang trại chăn ni của ông Nguyễn Xuân Dũng được xây dựng năm
2014, là trang trại gia công của Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam với
quy mô 2000 lợn bố mẹ. Trang trại được xây dựng trên một quả đồi của thôn
Hương Canh thuộc địa bàn xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội với diện tích gần 5 ha.
Xã Khánh Thượng là một xã miền núi nằm ở sườn Tây núi Ba Vì, với
diện tích tự nhiên 2.882,43 ha. Xã Khánh Thượng cách trung tâm huyện Ba
Vì 35 km, cách trung tâm thành phố Hà Nội 82 km. Xã có địa bàn giáp với 2
tỉnh (phía Đơng Nam giáp tỉnh Hồ Bình, phía Tây cách con sơng Đà là tỉnh
Phú Thọ), có trục đường giao thơng Sơn Tây - Chẹ - Hợp Thịnh - Kỳ Sơn Hồ Bình đi qua. Điều kiện địa lý của xã rất thuận lợi cho việc giao thông,
vận chuyển thức ăn cũng như việc buôn bán, vận chuyển hàng hóa của trại.
2.1.2. Đặc điểm khí hậu
Huyện Ba Vì nằm trong khu vực đồng bằng sơng Hồng, chịu ảnh
hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do đó, trại lợn Nguyễn Xuân Dũng
cũng chịu ảnh hưởng chung của khí hậu vùng, nhiệt độ thay đổi theo mùa rõ
rệt. Mùa Hè nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 4 đến tháng 8), mùa đông lạnh,
khô (từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau). Nhiệt độ trung bình năm của xã
Khánh Thượng khoảng 23,4oC. Lượng mưa trung bình năm 2.500mm, phân
bố không đều trong năm, tập trung nhiều vào tháng 7, tháng 8. Độ ẩm khơng
khí 86,1%. Mùa đơng ở đây có gió mùa Đơng Bắc với tần suất >40%/mùa.
Mùa Hạ có gió Đơng Nam với tần suất 25%/mùa và hướng Tây Nam. Với
điều kiện khí hậu của xã đã tạo thuận lợi cho ngành chăn nuôi phát triển.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của trang trại
- Cơ cấu trại được tổ chức như sau:
+ 01 quản lý trại.
+ 02 kỹ thuật.
+ 02 tổ trưởng.
4
+ 01 bảo vệ.
+ 10 Công nhân.
+ 02 cấp dưỡng.
2.1.4. Cơ sở vật chất của trang trại
- Về cơ sở vật chất:
+ Có đầy đủ các thiết bị, máy móc để phục vụ cho công nhân và sinh viên
sinh hoạt hàng ngày như: máy giặt, tắm nóng lạnh, tivi, tủ lạnh, quạt...
+ Những vật dụng cá nhân như: kem đánh răng, xà phòng tắm, dầu gội
đầu cũng được trại chuẩn bị.
+ Cơ sở vật chất trong chuồng trại chăn nuôi được trại chú trọng đầu tư
với đầy đủ các trang thiết bị cần thiết.
+ Có hệ thống quạt gió, dàn mát, điện sáng, vịi uống nước tự động.
+ Có hệ thống đèn điện sưởi ấm cho lợn con vào mùa đơng.
+ Ngồi ra, trại cịn có một máy phát điện công suất lớn đủ cung cấp
điện cho cả trại sinh hoạt và hệ thống chuồng nuôi những khi mất điện.
- Về cơ sở hạ tầng:
Trại được xây dựng rất khoa học và hiện đại. Trước cổng có hố sát trùng
bằng vơi, có vịi phun sát trùng cho phương tiện ra vào trại. Trại được xây
dựng gồm các khu riêng biệt: Khu nhà ở, sinh hoạt của công nhân, sinh viên
và khu chuồng nuôi.
Trại được xây dựng trên quả đồi khoảng 5 ha với 6 dãy chuồng lớn
chạy dài lợp mái tôn. Mỗi 1 dãy lớn lại được chia làm 2 dãy chuồng nhỏ.
Khu chuồng xây dựng khép kín hồn tồn trên một khu vực cao, dễ thoát
nước và được bố trí tách biệt với khu sinh hoạt gồm: 6 chuồng đẻ, 2 chuồng
lợn có chửa, 1 chuồng lợn đực và 2 chuồng cách ly. Chuồng nuôi được xây
dựng theo hướng Đơng - Tây, Nam - Bắc đảm bảo thống mát về mùa hè và
ấm áp về mùa đông. Chuồng nuôi xây dựng theo kiểu 2 mái gồm 6 dãy
chuồng chạy dài. Trong đó có 3 dãy chuồng đẻ, mỗi dãy được tách ra làm 2
chuồng nhỏ với 58 ô chuồng sàn. Chuồng lợn có chửa gồm 2 chuồng với kiểu
chuồng cũi sắt. Các chuồng nuôi đều được lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng và
hệ thống vòi uống nước tự động ở mỗi ơ chuồng. Phía đầu chuồng là hệ thống
giàn mát, cuối chuồng có quạt thơng gió. Hai bên tường có dãy cửa sổ lắp
5
kính, mỗi cửa sổ có diện tích 1,5 m², cách nền 1,2 m, mỗi cửa sổ cách nhau 40
cm. Trên trần được lắp hệ thống chống nóng bằng nhựa. Mùa đơng có hệ
thống làm ấm bằng đèn hồng ngoại.
Phịng pha tinh của khu chuồng nuôi được trang bị các dụng cụ hiện đại
như: Máy đếm mật độ tinh trùng, kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, các
dụng cụ đóng liều tinh, nồi hấp tiệt trùng dụng cụ và một số thiết bị khác.
Trong khu chăn nuôi, đường đi lại giữa các ô chuồng, các khu khác đều
được đổ bê tơng và có các hố sát trùng.
Hệ thống nước trong khu chăn nuôi đều là nước giếng khoan. Nước
uống cho lợn được cấp từ một bể lớn, xây dựng ở đầu chuồng lợn nái đẻ 1A
và chuồng lợn có chửa 2. Nước tắm, nước xả gầm, nước phục vụ cho cơng
tác khác được bố trí từ bể lọc và được bơm qua hệ thống ống dẫn tới bể chứa
ở giữa các chuồng.
2.2. Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề
2.2.1. Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái
2.2.1.1. Sự thành thục về tính và thể vóc
* Sự thành thục về tính
Sự thành thục về tính được đánh dấu khi con vật bắt đầu có phản xạ
sinh dục và có khả năng sinh sản. Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [4], lúc
này tất cả các bộ phận sinh dục như: Tử cung, buồng trứng, âm đạo… đã phát
triển hồn thiện và có thể bắt đầu bước vào hoạt động sinh sản. Với sự phát
triển hoàn thiện bên trong thì đồng thời ở bên ngồi các bộ phận sinh dục phụ
cũng xuất hiện và gia súc có phản xạ về tính hay xuất hiện hiện tượng động dục.
Tuy nhiên, thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính
biệt và các điều kiện bên ngồi cũng như cách chăm sóc ni dưỡng.
- Giống: Các giống lợn khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác
nhau. Những giống có thể vóc nhỏ thường thành thục về tính sớm hơn những
giống có thể vóc lớn.
Theo Lê Xuân Cương (1986) [2], tuổi thành thục về tính của lợn cái lai
và lợn cái ngoại muộn hơn lợn cái nội thuần chủng (Móng Cái, Mường
Khương, Ỉ…). Các giống lợn nội này thường có tuổi thành thục vào lúc 4 - 5
tháng tuổi (121 - 158 ngày tuổi). Lợn ngoại vào lúc 6 - 8 tháng tuổi, lợn lai F1
(ngoại x nội) thường động dục lần đầu ở 6 tháng tuổi.
6
- Điều kiện chăm sóc và quản lư: Cùng một giống nhưng nếu được ni
dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt, gia súc phát triển tốt thì sẽ thành thục về tính
sớm hơn và ngược lại.
- Chế độ dinh dưỡng: Dinh dưỡng là yếu tố rất quan trọng. Trong cùng
một giống, nếu dinh dưỡng tốt thì tuổi thành thục về tính sớm và ngược lại.
Lợn nái trong điều kiện nuôi dưỡng tốt thì sẽ thành thục về tính ở độ tuổi
trung bình là 188,5 ngày, với trọng lượng 80kg. Nhưng nếu chúng ta cho lợn
ăn hạn chế thì sẽ là 234,8 ngày, với trọng lượng 48,4kg. Theo Zimmerman:
nếu dinh dưỡng tốt thì sẽ rút ngắn được thời gian thành thục về tính từ 4 - 16
ngày so với mức chỉ đáp ứng được 60 – 70% nhu cầu dinh dưỡng.
- Điều kiện bên ngồi: Những giống lợn ni ở vùng khí hậu ơn đới và
hàn đới thường thành thục về tính muộn hơn những giống lợn ni ở vùng khí
hậu nhiệt đới nóng ẩm. Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành
thục về tính của gia súc.
Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng tới sự thành thục về tính của
lợn cái hậu bị. Nếu ta để một con đực đã thành thục về tính ở gần ô chuồng
của con cái hậu bị thì sẽ thúc đẩy nhanh sự thành thục về tính của chúng. Nếu
cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với lợn đực 2 lần/ngày, với thời gian 15 - 20 phút
thì 83% lợn cái (ngoài 90kg) động dục lúc 165 ngày tuổi.
Lợn cái hậu bị được ni chăn thả sẽ có tuổi động dục ngắn hơn lợn cái
hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục. Vì lợn ni có thời gian chăn thả sẽ tăng cường
trao đổi chất, tổng hợp được sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực nên có tuổi
động dục lần đầu sớm hơn.
* Sự thành thục về thể vóc
Thành thục về thể vóc là tuổi có sự phát triển về ngoại hình và thể vóc
đạt mức độ hồn chỉnh, xương cốt hóa hồn tồn, tầm vóc ổn định. Thời gian
thành thục về thể vóc thường chậm hơn thành thục về tính, nghĩa là sau khi
sinh, con vật được thành thục về tính thì vẫn tiếp tục lớn lên. Đây là đặc điểm
cần chú ý trong chăn nuôi không nên cho gia súc sinh sản q sớm vì khi đó
cơ thể mẹ chưa phát triển đầy đủ về thể vóc sẽ gây ảnh hưởng xấu như: trong
thời gian mang thai có sự phân tán chất dinh dưỡng, ưu tiên phát triển cho bào
thai ảnh hưởng xấu đến sự phát triển cơ thể mẹ và cũng ảnh hưởng đến sự
phát triển của bào thai. Kết quả là mẹ yếu, con nhỏ.
7
Mặt khác khung xương chậu chưa phát triển hoàn toàn, nhỏ hẹp làm
con vật khó đẻ. Cho nên việc quy định tuổi và khối lượng phối giống lần đầu
rất có ý nghĩa trong chăn nuôi. Các nhà khoa học khuyến cáo với lợn ngoại
nên bỏ qua 1 đến 2 chu kỳ động dục đầu, nên phối ở chu kỳ động dục thứ 2
hoặc thứ 3 tùy thuộc vào khối lượng đạt được. Với lợn ngoại khoảng 8 - 9
tháng tuổi và đạt 110 - 120 kg, lợn nội 6 - 7 tháng tuổi đạt 40 - 50 kg (Lê
Xuân Cương (1986) [2]).
Khi lợn cái đã thành thục đầy đủ về tính đồng thời với sự thành thục về
thể vóc ở mức độ nhất định, đây là lúc phối giống thích hợp nhất. Việc xác
định thời gian phối giống thích hợp cho lợn cái nhằm tăng thời gian ni hữu
ích (giảm thời gian không sản xuất trước khi đẻ lứa đầu) không làm ảnh
hưởng đến năng suất của con vật ở giai đoạn sau.
2.2.1.2. Chu kỳ động dục
Lợn nái sau khi thành thục về tính thì bắt đầu có biểu hiện động dục, lần
thứ nhất thường biểu hiện không rõ ràng, cách sau đó 15-16 ngày lại động dục,
lần này biểu hiện rõ ràng hơn và sau đó đi vào quy luật mang tính chu kỳ.
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [15], chu kỳ động dục của lợn nái bình
quân là 21 ngày (18-24 ngày). Một chu kỳ tính của lợn nái thường chia làm 4
giai đoạn, đó là giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau
động dụng và giai đoạn yên tĩnh. Giai đoạn trước động dục thường kéo dài 12 ngày và được tính từ khi thể vàng của lần động dục trước tiêu biến đến lần
động dục tiếp theo. Đây là giai đoạn chuẩn bị cho đường sinh dục cái tiếp
nhận tinh trùng, đón trứng rụng và thụ tinh. Giai đoạn động dục kéo dài từ
ngày thứ hai đến thứ ba gồm có 3 thời kỳ nhỏ là hưng phấn, chịu đực và hết
chịu đực, giai đoạn này dài hay ngắn tùy theo từng giống lợn, lợn nội thường
kéo dài 3-4 ngày, lợn ngoại và lơn lai thường kéo dài 4-5 ngày. Giai đoạn sau
động dục là giai đoạn kéo dài từ ngày thứ 3-4 tiếp theo của giai đoan động
dục, lúc này dấu hiệu hoạt động sinh dục bên ngoài giảm dần, âm hộ teo lại,
lợn nái không muốn gần đực, ăn uống tốt hơn. Giai đoạn yên tĩnh thường bắt
đầu từ ngày thứ 4 sau khi trứng rụng và không được thụ tinh đến khi thể vàng
tiêu biến kể từ lúc rụng trứng. Đây là giai đoạn dài nhất trong cả chu kỳ sinh
dục, con vật khơng có biểu hiện về hành vi sinh dục, là giai đoạn nghỉ ngơi
yên tĩnh chuẩn bị cho chu kỳ động dục tiếp theo.
8
2.2.2. Những hiểu biết về quy trình ni dưỡng và chăm sóc lợn nái sinh sản
2.2.2.1.Quy trình ni dưỡng và chăm sóc lợn nái đẻ
- Quy trình ni dưỡng:
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [15], thức ăn dùng cho lợn nái đẻ
phải là những thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa. Khơng cho lợn
nái ăn thức ăn có hệ số chốn cao gây chèn ép thai gây ra đẻ non, đẻ khó,
hoặc ép thai chết ngạt. Một tuần trước khi lợn đẻ phải căn cứ vào tình trạng
sức khỏe cụ thể của lợn nái để có kế hoạch giảm dần lượng thức ăn. Đối với
những lợn nái có sức khỏe tốt thì một tuần trước khi đẻ giảm 1/3 lượng thức
ăn, đẻ trước 2 - 3 ngày giảm 1/2 lượng thức ăn. Đối với những lợn nái có sức
khỏe yếu thì khơng giảm lượng thức ăn mà giảm dung tích của thức ăn bằng
cách tăng cường cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa. Những ngày lợn đẻ phải
căn cứ vào thể trạng của lợn nái, sự phát dục của bầu vú mà quyết định chế độ
dinh dưỡng cho hợp lý. Ngày lợn nái cắn ổ đẻ, cho lợn nái ăn ít thức ăn tinh
(0,5 kg) hoặc không cho thức ăn tinh nhưng uống nước tự do. Ngày lợn nái đẻ
có thể khơng cho lợn nái ăn mà chỉ có uống nước ấm có pha muối hoặc ăn
cháo loãng. Sau khi đẻ 2 - 3 ngày không cho lợn nái ăn nhiều một cách đột
ngột mà tăng từ từ đến ngày thứ 4 - 5 thì cho ăn đủ tiêu chuẩn. Thức ăn cần
chế biến tốt, dung tích nhỏ, có mùi vị thơm ngon để kích thích tính thèm ăn
cho lợn nái.
- Quy trình chăm sóc:
Việc chăm sóc lợn nái mẹ có vai trị quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất và sức khỏe của cả lợn mẹ và lợn con. Chuồng trại phải được
vệ sinh sạch sẽ. Trước khi lợn đẻ 10 - 15 ngày cần chuẩn bị đầy đủ chuồng đẻ.
Tẩy rửa vệ sinh, khử trùng tồn bộ ơ chuồng, nền chuồng, sàn chuồng dùng
cho lợn con và lợn mẹ. Yêu cầu chuồng phải khơ ráo, ấm áp, sạch sẽ, có đầy đủ
ánh sáng. Sau khi vệ sinh tiêu độc nên để trống chuồng từ 3 - 5 ngày trước khi
lợn nái vào đẻ. Chuồng đẻ cần phải trải đệm lót, có che chắn và thiết bị sưởi ấm
trong những ngày mùa đông giá rét. Trước khi đẻ 1 tuần, cần vệ sinh lợn nái
sạch sẽ, lợn nái được lau rửa sạch sẽ đất hoặc phân bám dính trên người, dùng
khăn thấm nước xà phòng lau sạch bầu vú và âm hộ. Làm như vậy tránh được
nguy cơ lợn con mới sinh bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc trực tiếp với lợn mẹ có vi
khuẩn gây bệnh. Sau khi vệ sinh sạch sẽ cho lợn nái, chúng ta chuyển nhẹ
9
nhàng từ chuồng bầu sang chuồng đẻ để lợn quen dần với chuồng mới.
Trong q trình chăm sóc lợn nái đẻ, cơng việc cần thiết và rất quan
trọng đó là việc chuẩn bị ơ úm lợn cho lợn con. Ơ úm rất quan trọng đối với
lợn con, nó có tác dụng phòng ngừa lợn mẹ đè chết lợn con, đặc biệt những
ngày đầu mới sinh lợn con còn yếu ớt, mà lợn mẹ mới đẻ xong sức khỏe còn
rất yếu chưa hồi phục. Ô úm tạo điều kiện để khống chế nhiệt độ thích hợp
cho lợn con, đặc biệt là lợn con đẻ vào những tháng mùa Đơng. Ngồi ra, ô
úm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập ăn sớm cho lợn con (để máng ăn vào ô
úm cho lợn con lúc 7 - 10 ngày tuổi) mà không bị lợn mẹ húc đẩy và ăn thức
ăn của lợn con.
Theo dõi thường xuyên sức khỏe của lợn mẹ, quan sát bầu vú, thân
nhiệt lợn mẹ liên tục trong 3 ngày đầu sau khi đẻ để phát hiện sát nhau, sốt
sữa hoặc nhiễm trùng... và có biện pháp xử lý kịp thời khi sảy ra.
Bảng 2.1. Những biểu hiện khi lợn nái sắp đẻ
Trước khi đẻ
Dấu hiệu
0 - 10 ngày
Vú căng lên và cứng, âm hộ xung huyết
2 ngày
Bầu vú cương cứng hơn và tiết ra chất lỏng trong
12 - 14 giờ
Nái bồn chồn, tuyến vú bắt đầu tiết sữa
6 giờ
Sữa tiết ra nhiều hơn qua 2 lỗ tia sữa
2 - 4 giờ
Các vú đều có sữa non vọt thành tia dài
30 phút - 2 giờ
Tăng nhịp thở, đi lại không yên
15 - 30 phút
Âm hộ tiết ra dịch nhờn màu hồng có lẫn phân su
Nái nằm nghiêng 1 bên, hơi thở đứt quãng, ép bụng,
15 giây - 5 phút
ép đùi, quẩy đi rặn đẻ
2.2.2.2. Quy trình ni dưỡng và chăm sóc lợn nái ni con
- Quy trình ni dưỡng:
Thức ăn cho lợn nái nuôi con phải là những thức ăn có tác động tốt đến
sản lượng và chất lượng sữa. Đó là các loại thức ăn xanh non như rau xanh,
các loại củ quả như bí đỏ, cà rốt, đu đủ. Thức ăn tinh tốt như gạo tấm, cám
gạo, bột mỳ, các loại thức ăn bổ sung đạm động: đạm thực vật, các loại
khống, vitamin... Khơng cho lợn nái nuôi con ăn các loại thức ăn thối mốc,
10
biến chất, hư hỏng. Thức ăn hỗn hợp cho lợn nái nuôi con dùng trong chăn
nuôi công nghiệp phải đảm bảo đủ protein, năng lượng và các thành phần
vitamin, khoáng theo đúng tiêu chuẩn quy định như năng lượng trao đổi 3100
kcal, protein 15%, Ca từ 0,9 - 1,0%, photpho 0,7%.
Lượng thức ăn cho lợn nái ni con cũng đóng vai trò quan trọng và
ảnh hưởng trưc tiếp đến sinh trưởng và khả năng điều tiết sữa của lợn mẹ,
chính vì vậy ta cần phải có một khẩu phần ăn hợp lý và đầy đủ dinh dưỡng
cho lợn mẹ.
Trong quá trình ni con, lợn nái được cho ăn như sau:
- Đối với lợn nái ngoại
+ Ngày cắn ổ đẻ: Cho lợn nái ăn ít thức ăn hỗn hợp hồn chỉnh (0,5 kg)
hoặc không cho ăn, nhưng cho uống nước tự do.
+ Sau ngày đẻ thứ 1 và 2, cho ăn thức ăn hỗn hợp với lượng thức ăn từ
1 - 2 kg chia ra làm 2 bữa.
+ Ngày đẻ thứ 3 đến ngày đẻ thứ 6 cho ăn mỗi ngày tăng thêm 1kg thức
ăn hỗn hợp chia làm 3 bữa.
+ Một ngày trước ngày cai sữa lượng thức ăn của lợn mẹ giảm đi 20 - 30%.
+Ngày cai sữa cho lợn nái ăn 0,5kg (thức ăn sau khi tách con).
- Đối với lợn nái nội:
+ Cơng thức tính nhu cầu thức ăn cho lợn nái nội nuôi con/1 ngày đêm
Lợn nái nội có khối lượng cơ thể dưới 100 kg, mức ăn trong 1 ngày
đêm được tính như sau:
Thức ăn tinh = 1,2 kg + (số lợn con theo mẹ x 0,18 kg).
Thức ăn thô xanh: 0,3 kg.
Lợn nái nội có khối lượng cơ thể từ 100 kg trở lên, mức ăn cho 1 ngày
đêm giai đoạn nuôi con được tính như sau:
Thức ăn tinh = 1,4 kg + (số con theo mẹ x 0,18 kg).
Thức ăn thô xanh: 0,4 kg.
- Quy trình chăm sóc:
Vận động và tắm nắng là điều kiện tốt giúp cho lợn nái nhanh hồi phục
sức khỏe và nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ. Do vậy sau khi lợn đẻ được từ
3 -7 ngày, trong điều kiện chăn ni có sân vận động, nếu thời tiết tốt thì có thể
cho lợn nái vận động, thời gian vận động lúc đầu là 30 phút/ngày, sau tăng dần
11
số giờ vận động lên. Trong chăn nuôi công nghiệp, hầu hết lợn nái nuôi con
đều bị nhốt trong các cũi đẻ, khơng được vận động, vì vậy cần phải chú ý đến
thành phần dinh dưỡng của thức ăn, đặc biệt các chất khoáng và vitamin.
Chuồng trại của lợn nái nuôi con yêu cầu phải đảm bảo luôn khô ráo,
sạch sẽ, khơng có mùi hơi thối, ẩm ướt. Do vậy hàng ngày phải vệ sinh
chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Chuồng lợn nái ni con phải có ơ
úm lợn con và ngăn tập ăn sớm cho lợn con. Nhiệt độ chuồng ni thích hợp
là 18 - 200C, độ ẩm 70 - 75%.
2.2.2.3. Đặc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ
- Đặc điểm về sinh trưởng, phát dục:
Trong giai đoạn này lợn con sinh trưởng rất nhanh, tầm vóc và thể
trọng tăng dần theo tuổi.
Từ lúc sơ sinh đến lúc cai sữa, trọng lượng của lợn con tăng từ 10 đến
12 lần. So với các gia súc khác thì tốc độ sinh trưởng của lợn con tăng nhanh
hơn gấp nhiều lần. Các cơ quan trong cơ thể lợn con cũng thay đổi và tăng lên
nhanh chóng. Hàm lượng nước giảm dần theo tuổi, vật chất khô tăng dần, các
thành phần hóa học trong cơ thể lợn con thay đổi nhanh chóng. Hàm lượng
sắt trong cơ thể lợn con mới sinh ra là 187 nhưng đến ngày 20 giảm xuống
cịn 40,58 sau đó tăng dần lên 60 ngày bằng lúc mới đẻ ra. Một đặc điểm
quan trọng nhất của lượn con theo mẹ là: Sản lượng sữa mẹ tăng dần từ khi
mới đẻ ra đến ngày thứ 15. Tại thời điểm này sản lượng sữa cao và ổn định
nhất cho tới ngày thứ 20 sau đó giảm dần cho tới ngày thứ 60 là ở mức thấp
nhất. Nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng, trong khi đó sữa mẹ
sau 3 tuần tuổi giảm đi rõ rệt, dẫn tới lợn con thiếu dinh dưỡng nếu như
khơng có thức ăn bổ xung thêm.
Khả năng miễn dịch của lợn con trong giai đoạn này cũng có những đặc
điểm đặc biệt. Lợn con mới đẻ trong máu khơng có globulin nhưng sau khi
bú sữa có chứa hàm lượng globulin ca, khi đó hàm lượng kháng thể trong
máu tăng lên một cách nhanh chóng. Sau 3 đến 4 tuần tuổi hàm lượng
globulin giảm xuống, đến 5 tháng lại tăng lên, trong 100ml máu có 65mg
globulin. Ngồi ra, hệ vi sinh vật trong đường ruột của lợn con(microflora)
cũng là hệ thống ngăn ngừa các nhân tố gây bệnh xâm nhập vào đường ruột
(Nguyễn Quang Linh, 2005 [8]).
12
- Đặc điểm phát triển của cơ quan tiêu hóa
Cơ quan tiêu hóa của lợn con giai đoạn theo mẹ phát triển nhanh về cấu
tạo và hoàn thiền dần về chức năng tiêu hóa, biểu hiện:
Dung tích của dạ dày lợn lúc 10 ngày tuổi có thể tăng gấp 3 lần lúc sơ
sinh, lúc 20 ngày tuổi tăng gấp 8 lần và lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 60 lần
(dung tích lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít).
Dung tích ruột non của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh,
lúc 20 ngày tuổi tăng gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột
non lúc sơ sinh khoảng 0,11 lít).
Dung tích ruột già của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ sinh,
lúc 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột già
lúc sơ sinh khoảng 0,04 lít) (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [15].
Một đặc điểm cần lưu ý ở lợn con là có giai đoạn khơng có axit HCl
trong dạ dày. Giai đoạn này được coi như một tình trạng thích ứng tự nhiên.
Nhờ vậy nó tạo được khả năng thẩm thấu các kháng thể có trong sữa đầu của
lợn mẹ. Trong giai đoạn này dịch vị khơng có khả năng phân giải protein mà
chỉ có khả năng làm vón sữa đầu và sữa. Còn huyết thanh chứa albumin và
globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu vào máu.
Ở lợn con từ 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu axit HCl ở dạ dày
khơng cịn gọi là trạng thái bình thường nữa. Việc tập cho lợn con ăn sớm có
tác dụng thúc đẩy bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh và sớm hồn
thiện. Vì thế sẽ rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl. Bởi vì khi được bổ sung
thức ăn thì thức ăn sẽ kích thích tế bào vách dạ dày tiết ra HCl ở dạng tự do
sớm hơn và tăng cường phản xạ tiết dịch vị (giai đoạn con non khác với con
trưởng thành là chỉ tiết dịch vị khi thức ăn vào dạ dày).
Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [19] cho rằng: Lợn con dưới 1
tháng tuổi, dịch vị khơng có HCl tự do, lúc này lượng axit tiết ra rất ít và
nhanh chóng kết hợp với dịch nhày của dạ dày, hiện tượng này gọi là
hypohydric. Do dịch vị chưa có HCl tự do nên men pepsin trong dạ dày lợn
chưa có khả năng tiêu hóa portein của thức ăn. Vì HCl tự do có tác dụng kích
hoạt men pepsinnogen khơng hoạt động thành men pepsin hoạt động và men
này mới có khả năng tiêu hóa protein.
13
Enzym trong dịch vị dạ dày lợn con đã có từ lúc mới đẻ, tuy nhiên lợn
trước 20 ngày tuổi khơng thấy khả năng tiêu hóa của dịch vị có enzym, sự tiêu
hao của dịch vị tăng theo tuổi một cách rõ rệt khi cho ăn các loại thức ăn khác
nhau, thức ăn hạt kích thích tiết ra dịch vị mạnh. Hơn nữa dịch vị thu được
khi cho thức ăn hạt kích thích HCl nhiều hơn và sự tiêu hóa nhanh hơn dịch vị
thu được khi cho uống sữa. Đây là cơ sở cho việc bổ sung sớm thức ăn và cai
sữa sớm cho lợn con.
Thực nghiệm còn xác nhận rằng nhiều loại vi khuẩn đường ruột đã sinh
ra các chất kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh, khi lợn con
sinh ra hệ vi sinh vật đường ruột chưa phát triển đầy đủ số lượng vi khuẩn có
lợi, chưa có khả năng kháng lại vi khuẩn gây bệnh nên rất dễ nhiễm bệnh
đường tiêu hóa. Vi khuẩn gây bệnh phó thương hàn, vi khuẩn gây thối rữa ở
lợn con mới sinh.
- Đặc điểm về cơ năng điều tiết của lợn con
Cơ năng điều tiết thân nhiệt của lợn con chưa hồn chỉnh vì vỏ đại não
của lợn con chưa phát triển hồn thiện. Do đó việc điều tiết thân nhiệt và năng
lực phản ứng kém, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường (nhiệt độ, độ ẩm).
Theo Từ Quang Hiển và cs (2001) [6]: Ở lợn con, khả năng sinh trưởng
và phát triển nhanh, yêu cầu về dinh dưỡng ngày càng tăng cao. Trong khi đó
sản lượng sữa của lợn mẹ tăng dần đến 2 tuần sau khi đẻ và sau đó giảm dần cả
về chất và lượng. Đây là mâu thuẫn giữa nhu cầu dinh dưỡng của lợn con và
khả năng cung cấp sữa của lợn mẹ. Nếu không kịp thời bổ sung thức ăn cho lợn
con thì lợn sẽ thiếu dinh dưỡng dẫn đến sức đề kháng yếu, gầy còm, nhiều lợn
con mắc bệnh. Vì vậy nên tiến hành cho lợn con tập ăn sớm để khắc phục tình
trạng khủng hoảng trong thời kỳ 3 tuần tuổi và giai đoạn sau cai sữa.
Lợn con dưới 3 tuần tuổi cơ năng điều tiết thân nhiệt chưa hoàn
chỉnh nên thân nhiệt chưa ổn định, nghĩa là sự thải nhiệt và sinh nhiệt chưa
đạt cân bằng.
Khi còn là bào thai, các chất dinh dưỡng được mẹ cung cấp qua nhau
thai, điều kiện sống tương đối ổn định. Lợn con sơ sinh gặp điều kiện sống
hoàn toàn mới, nếu chăm sóc khơng tốt rất dễ mắc bệnh, cịi cọc và chết.
Ngoài ra lớp mỡ dưới da của lợn con còn mỏng, lượng mỡ glycogen dự
trữ trong cơ thể lợn cịn thấp, trên cơ thể lợn con lơng cịn thưa, mặt khác diện
14
tích bề mặt cơ thể so với khối lượng cơ thể chênh lệch tương đối cao nên lợn
con dễ bị mất nhiệt và khả năng cung cấp nhiệt cho lợn con chống rét còn
thấp dẫn đến lợn con rất dễ mắc bệnh khi thời tiết thay đổi.
Ở điều kiện nhiệt độ thấp, độ ẩm khơng khí cao gây ra hiện tượng tăng
tỏa nhiệt ở lợn con bằng phương thức bức xạ. Vì thế ở nước ta vào cuối mùa
đơng đầu mùa xuân, khí hậu lạnh và ẩm, lợn con sẽ bị toả nhiệt theo phương
thức này, làm cho nhiệt lượng cơ thể mất đi, lợn bị lạnh. Đây là điều kiện
thuận lợi dẫn đến phát sinh bệnh, nhất là bệnh đường tiêu hoá.
- Đặc điểm về khả năng miễn dịch của lợn con
Phản ứng miễn dịch là khả năng đáp ứng của cơ thể. Phần lớn các chất
lạ là mầm bệnh. Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể lợn con tương đối dễ dàng,
do chức năng của các tuyến chưa hồn chỉnh. Ở lợn con lượng enzym tiêu hố
và lượng HCl tiết ra cịn ít, chưa đủ để đáp ứng cho q trình tiêu hố, gây rối
loạn trao đổi chất, dẫn tới khả năng tiêu hoá kém, hấp thu kém. Trong giai
đoạn này các loại mầm bệnh (Salmonella spp, E. coli…) dễ dàng xâm nhập
vào cơ thể qua đường tiêu hoá và gây bệnh.
Lợn con mới đẻ ra trong cơ thể hầu như chưa có kháng thể. Lượng
kháng thể tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu của lợn mẹ. Cho
nên khả năng miễn dịch của lợn con là hoàn toàn thụ động, phụ thuộc vào
lượng kháng thể hấp thu được nhiều hay ít từ sữa đầu của lợn mẹ.
Theo Trần Văn Phùng và cs, 2004 [15]: Trong sữa đầu của lợn mẹ hàm
lượng protein rất cao. Những ngày đầu mới đẻ, hàm lượng protein trong sữa
chiếm 18 - 19%, trong đó lượng - globulin chiếm số lượng khá lớn (30 35%). Nó có tác dụng tạo sức đề kháng, vì vậy sữa đầu có vai trò quan trọng
đối với khả năng miễn dịch của lợn con. Lợn con hấp thu lượng - globulin
bằng con đường ẩm bào. Quá trình hấp thu nguyên vẹn nguyên tử - globulin
giảm đi rất nhanh theo thời gian. Nó chỉ có khả năng hấp thu qua ruột non của
lợn con rất tốt trong 24 giờ đầu sau khi đẻ ra nhờ trong sữa đầu có kháng men
antitripsin làm mất hoạt lực của men tripsin tuyến tụy đồng nhờ khoảng cách
tế bào vách ruột của lợn con khá rộng, cho nên 24 giờ sau khi được bú sữa
đầu, hàm lượng - globulin trong máu lợn con đạt tới 20,3 mg/100 ml máu.
Sau 24 giờ, lượng kháng men trong sữa đầu giảm dần và khoảng cách giữa
các tế bào vách ruột của lợn con hẹp dần, sự hấp thu - globulin kém hơn,
15
hàm lượng - globulin trong máu lợn con tăng lên chậm hơn. Đến 3 tuần tuổi
chỉ đạt khoảng 24mg/100ml máu (máu bình thường của lợn trưởng thành có
khoảng 65 mg/100 ml máu), do đó lợn con cần được bú sữa đầu càng sớm
càng tốt. Nếu lợn con không được bú sữa đầu thì từ 20 - 25 ngày tuổi mới có
khả năng tự tổng hợp kháng thể, những lợn con khơng được bú sữa đầu thì
sức đề kháng kém, dễ mắc bệnh, tỷ lệ chết cao.
2.2.3. Những hiểu biết về phịng, trị bệnh cho vật ni
2.2.3.1. Phịng bệnh
Với phương châm‘‘Phịng bệnh hơn chữa bệnh’’‚ nên khâu phịng bệnh
ln được đặt lên hàng đầu, nếu phịng bệnh tốt thì có thể hạn chế hoặc ngăn
chặn được bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng
đầu, xoay quanh các yếu tố môi trường, mầm bệnh, vật chủ. Do vậy, việc
phòng và trị bệnh phải được thực hiện cùng nhau để hạn chế tối đa dịch bệnh.
- Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc ni dưỡng tốt:
Theo Nguyễn Ngọc Phụng (2005) [16], bệnh xuất hiện trong một đàn
lợn thường do nguyên nhân phức tạp, có thể là bệnh truyền nhiễm, hoặc
khơng truyền nhiễm hoặc có sự kết hợp cả hai. Có rất nhiều biện pháp đã
được đưa ra áp dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh tật trên đàn
lợn. Phần lớn các biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các
tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn.
Theo Lê Văn Tạo và cs (1993) [17], vi khuẩn E. coli gây bệnh ở lợn là
vi khuẩn tồn tại trong mơi trường, đường tiêu hố của vật chủ. Khi môi
trường quá ô nhiễm do vê sinh chuồng trại kém, nước uống thức ăn bi nhiễm
vi khuẩn, điều kiện ngoại cảnh thay đổi, lợn giảm sức đề kháng dễ bi ̣cảm
nhiễm E. coli, bệnh sẽ nổ ra. Vì vậy, khâu vê ̣sinh, chăm sóc có một ý nghĩa
to lớn trong phịng bệnh. Trong chăn ni việc đảm bảo đúng quy trình kỹ
thuật là điều rất cần thiết, chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc
khoẻ mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật tốt và ngược lại. Ô chuồng lợn nái
phải được vê sinh tiêu độc trước khi vào đẻ. Nhiệt đô ṭ rong chuồng phải đảm
bảo 27 - 30 0C đối với lợn sơ sinh và 28 – 30 0C với lợn cai sữa. Chuồng phải
ln khơ ráo, khơng ẩm ướt,việc giữ gìn chuồng trại sạch sẽ kín, ấm áp vào
mùa đơng và đầu xn là cần thiết. Nên dùng các thiết bị sưởi điện hoặc đèn
16
hồng ngoại trong những ngày thời tiết lạnh ẩm để đề phòng bệnh lợn con
phân trắng mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi.
Theo Trần Văn Phùng và cs (2004) [15]: Từ 3 - 5 ngày trước dự kiến
đẻ, ô chuồng lợn nái đã được cọ rửa sạch, phun khử trùng bằng hóa chất như
Crezin 5% hoặc bằng loại hóa chất khác nhằm tiêu độc khử trùng chuồng lợn
nái trước khi đẻ.
- Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi: Chuồng trại phải đảm bảo
phù hợp với từng đối tượng vật ni, thống mát mùa hè, ấm áp mùa đông,
đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh. Tẩy uế chuồng trại sau mỗi lứa
nuôi bằng phương pháp: Rửa sạch, xả vơi để khơ sau đó phun sát trùng bằng
các loại thuốc sát trùng và trống chuồng ít nhất 7 ngày với vật nuôi thương
phẩm, 10 ngày đối với vật ni sinh sản. Với những chuồng ni có vật nuôi
bị bệnh truyền nhiễm, cần phải vệ sinh tổng thể và triệt để bằng cách: sau khi
đưa hết vật nuôi ra khỏi chuồng, xử lý theo hướng dẫn của thú y, cần phun sát
trùng kỹ (pha dung dịch sát trùng và phun theo hướng dẫn khi chống dịch)
toàn bộ chuồng nuôi từ mái, các dụng cụ và môi trường xung quanh, để khô
và dọn, rửa. Các chất thải rắn trong chăn nuôi cần thu gom để đốt hoặc ủ sinh
học, chất thải lỏng, nước rửa chuồng cần thu gom để xử lý, khơng thải trực
tiếp ra ngồi mơi trường. Cần phun sát trùng 1 - 2 lần/tuần trong suốt thời
gian trống chuồng, ít nhất trong 10 ngày. Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần
rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát
trùng xung quanh chuồng ni.
- Phịng bệnh bằng vắc xin: Đây là biện pháp phịng bệnh chủ động
có hiệu quả nhất.
Theo Nguyễn Bá Hiên và cs (2012) [7], vắc xin là một chế phẩm sinh
học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phịng cho một bệnh truyền nhiễm
nào đó ( mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật liệu di truyền
như ARN, ADN…) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng các tác nhân
vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc xin thế hệ
mới, vắc xin cơng nghệ gen). Lúc đó chúng khơng cịn khả năng gây bệnh cho
đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây ra đáp ứng
miễn dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm gây bệnh
của mầm bệnh tương ứng.
17
Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh
ngay mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch.
2.2.3.2.Điều trị bệnh
Theo Nguyễn Bá Hiên và cs 2012 [7]:
- Nguyên tắc để điều trị bệnh là:
+ Toàn diện: Phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc.
+ Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đốn chính xác bệnh để sớm khỏi bệnh
và hạn chế lây lan.
+ Diệt căn bệnh là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng.
+ Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức đề kháng của cơ
thể, làm cho cơ thể có khả chống lại mầm bệnh thì bệnh mới chóng khỏi, ít bị
tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền.
+ Phải có quan điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những gia súc có thể
chữa lành mà không giảm sức kéo và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém
vượt quá giá trị gia súc thì không nên chữa.
+ Những bệnh nguy hiểm cho người không có thuốc chữa thì khơng nên chữa.
-Các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là:
+ Hộ lý: Cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ
sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp,
phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối
phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh.
+ Dùng kháng huyết thanh: Chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy
thường dùng để can thiệp trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa
bệnh bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị
sẵn, có tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh
kháng độc tố).
+ Dùng hóa dược: Phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng
và một số hóa dược dùng chữa ngun nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm
bệnh. Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều lồi vi
khuẩn có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và
tính chất quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối
hợp nhiều loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị, vì nếu một loại thuốc chưa
có tác dụng đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn.
18
+ Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng
ngăn cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, sử dụng
kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị ứng,
do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố, làm
giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn gây
nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của kháng
sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần lưu ý những nguyên tắc sau đây:
- Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ
chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn.
- Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác
định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng.
- Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để
phát huy tác dụng của kháng sinh.
- Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và
độc tính của từng loại, làm diện tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác
dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc.
- Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt,
dùng thêm các vitamin, tiêm nước sinh lý...
2.2.4. Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản và lợn con theo mẹ
2.2.4.1.Một số bệnh thường gặp trên lợn nái sinh sản
* Bệnh bại liệt sau đẻ
Là bệnh mà lợn mẹ mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai.
❖Nguyên nhân gây bệnh
- Do thai quá to, tư thế và chiều hướng của thai khơng bình thường.
- Q trình thủ thuật kéo thai q mạnh hay khơng đúng thao tác…
Từ đó gây tổn thương thần kinh tọa hoặc ảnh hưởng đến đám rối hông
khum dẫn đến lợn mẹ bị bại liệt.
❖Biểu hiện bệnh
- Lúc đầu lợn mẹ đi lại khó khăn, về sau không đứng lên được mà nằm
bẹp 1 chỗ.
- Bệnh thường kế phát với 1 số bệnh ở hệ tiêu hóa, hô hấp như: chướng
bụng đầy hơi, viêm phế quản cấp.
19
- Nếu bệnh kéo dài, con vật dễ bị loét từng mảng da phía tiếp xúc với
nền chuồng.
- Sau 3 - 4 tuần con vật gầy dần và chết.
- Triệu chứng:
Ban đầu lợn nái khơng có triệu chứng tồn thân, khơng thấy vết thương
cục bộ nhưng đi lại khó khăn hay nằm bẹp một chỗ. Nếu bệnh kéo dài thì lợn
mẹ khơng đứng dậy được, rất có thể bị lt da do tiếp xúc với nền chuồng,
nếu kéo dài 3 - 4 tuần lợn gầy dần rồi chết.
❖Biện pháp khắc phục
Tiêm bắp, điều trị liên tục 3 – 5 ngày.
- Thao tác can thiệp kịp thời, đúng kỹ thuật.
- Hằng ngày trở mình cho lợn mẹ, tránh bầm huyết, hoại tử da và kế
phát với chướng bụng, đầy hơi.
- Tăng cường thức ăn có bổ sung nguyên tố vi lượng nhất là canxi và photpho.
- Tiêm Mg - calcium cho lợn. Đồng thời kết hợp với châm cứu.
Theo Ngô Đức (2018) [5]: Trường hợp bệnh xảy ra có thể thực hiện các
bước sau:
Tiêm CALCIFORT vào tĩnh mạch tai heo, liều 5- 10ml/ 20kg thể trọng,
ngày tiêm 1 lần, liên tục từ 3-5 ngày.
Heo nái sau khi sinh có biểu hiện sốt, nên sử dụng thuốc hạ sốt và
kháng sinh chống phụ nhiễm như:
ANAGIN 25%: liều 1ml/15kg thể trọng, ngày tiêm 1 lần.
NAVET-ANAGIN 30%: liều 1ml/10 - 15kg TT, ngày tiêm 1 lần.
NAVET-ANAGIN C: liều 1ml/15kg TT, ngày tiêm 1 lần.
NAVET-AMOXY 15: liều 1ml/10kg TT, ngày tiêm 1 lần liên tục từ 35 ngày để phòng những bệnh nhiễm trùng gây bại liệt sau khi sinh và các
bệnh viêm vú, viêm tử cung, mất sữa.
❖ Biện pháp phòng bệnh
Bổ sung vitamin AD3E trong thời gian mang thai, các trại nên đưa vào
qui trình tiêm cho heo nái mang thai VITAJECT ADE liều 1-6ml/con
Cung cấp đầy đủ nhu cầu Calci, phospho trong giai đoạn mang thai, bổ
sung vào thức ăn VITACACIUM liều 10g/con/ngày cho ăn liên tục trong một
tuần lễ, mỗi tháng lặp lại 1 lần trong suốt quá trình mang thai.
20
Cẩn thận trong việc di chuyển heo trong giai đoạn mang thai, nền chuồng
phải sạch, tránh trơn trượt dễ gây liệt chân trong thời gian mang thai. Nên có ánh
sáng vào chuồng trại. Tiêm phòng đầy đủ các bệnh do virus và vi trùng.
* Bệnh viêm tử cung
Bệnh viêm tử cung thường xảy ra ở lợn nái sau đẻ, có thể xảy ra ở lợn
nái sau khi phối giống và ít xảy ra ở lợn nái hậu bị. Thời gian hay xảy ra nhất
là sau khi đẻ 1 - 10 ngày.
❖ Nguyên nhân:
Từ nghiên cứu của Phạm Sỹ Lăng và cs 2002 [10]: Do dụng cụ thụ tinh
nhân tạo cứng trong quá trình thụ tinh ko cẩn thận gây xây xát và tạo ra các ổ
viêm nhiễm trong âm đạo tử cung. Do tinh dịch bị nhiễm khuẩn và dụng cụ
thụ tinh không vô trùng đã đưa vi khuẩn vào gây viêm nhiễm bộ phận sinh
dục của lợn nái. Do lợn đực bị viêm niệu quản và dương vật, khi nhảy trực
tiếp sẽ truyền sang lợn nái.
Nguyên nhân gây ra bệnh viêm tử cung chủ yếu là do vi khuẩn tụ cầu
vàng (Staphylococcus aureus),liên cầu dung huyết (Streptococcus hemolitica)
và các loại Proteus vulgais, Klebriella, E. coli…(Đoàn Thị Kim Dung, Lê
Thị Tài (2002) [3]).
Kết quả theo dõi của Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004) [11]
cho ta biết, trong quá trình mang thai lợn ít được vận động lại ăn nhiều chất
dinh dưỡng nên cơ thể béo dẫn đến khó đẻ. Hoặc do thiếu chất dinh dưỡng
lợn nái sẽ ốm yếu, sức đề kháng giảm nên không chống lại được vi trùng gây
bệnh cũng gây nên viêm. Cũng có khi nái bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm
như: bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis),
Parvovines và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cho cơ thể lợn nái yếu dần
dẫn đến việc sảy thai, thai chết lưu gây viêm tử cung, đẻ non.
Theo Lê Văn Năm (1999) [13]: Có rất nhiều nguyên nhân từ ngoại cảnh
gây bệnh như: Do thức ăn nghèo dinh dưỡng, do can thiệp đỡ đẻ bằng dụng
cụ hay thuốc sản khoa sai kỹ thuật dẫn đến muxin của chất nhầy các cơ quan
sinh dục bị phá hủy hoặc kết tủa, kết hợp với việc thiếu sự vận động và chăm
sóc ni dưỡng bất hợp lý đã dẫn đến làm chậm quá trình thu teo sinh lý của
dạ con (trong điều kiện cai sữa bình thường, dạ con trở về khối lượng kích
21
thước ban đầu khoảng 3 tuần sau đẻ). Đây là điều kiện tốt để vi khuẩn xâm
nhập vào tử cung gây bệnh.
Lợn đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc bằng dụng cụ trợ sản, thao tác
của người thực hiện không đảm bảo mặt kỹ thuật làm tổn thương cổ tử cung
bị xây xát, tạo điều kiện cho vi khuẩn bên ngồi xâm nhập vào gây viêm.
Lợn nái khơng được vệ sinh sạch sẽ trước và sau khi đẻ, để nền, sàn
chuồng bẩn, dây rốn lợn con và nhau thai nhiễm trùng rồi co thụt vào gây
viêm tử cung, sót nhau (Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Quế Côi (2005) [17]).
❖ Triệu chứng:
Nguyễn Văn Thanh (2007) [20] cho biết: khi lợn nái bị viêm các chỉ
tiêu lâm sàng như tần số hô hấp, thân nhiệt đều tăng. Lợn bị sốt theo quy luật
lên xuống: sáng sốt nhẹ 39 - 39,5°C; chiều 40 - 41°C. Con vật kém ăn, sản
lượng sữa giảm, có khi con vật cong lưng rặn như rặn đái. Từ cơ quan sinh
dục chảy ra niêm dịch lẫn nhiều lợn cợn, mùi hơi tanh, có màu trắng đục,
hồng hay nâu đỏ. Khi nằm lượng niêm dịch chảy ra nhiều hơn. Trong trường
hợp thai chết lưu âm đạo đỏ, sưng tấy, có chứa dịch tiết màu vàng sẫm, nâu và
có mùi hơi thối. Xung quanh âm hộ và mép đi dính bết niêm dịch, có khi
niêm dịch khơ, đóng thành vẩy trắng, lợn nái mệt mỏi đi lại khó khăn.
Viêm tử cung ở lợn nái có các thể sau:
+ Thể nhẹ (+) gọi là viêm tử cung nhờn: thân nhiệt bình thường, có khi
hơi cao 39 - 39,5°C. Lợn kém ăn, có dịch tiết ra từ âm hộ, 12 - 72 giờ sau đẻ,
dịch lỏng có màu trắng đục hoặc xanh dạng sợi mùi hơi tanh. Thể viêm này ít
ảnh hưởng đến sản lượng sữa của lợn mẹ.
+ Thể vừa (++) thuộc dạng viêm tử cung mủ: thân nhiệt cao 39,5 40°C. Lợn ăn ít hoặc bỏ ăn, hay nằm lỳ. Khi nằm có dịch từ âm hộ chảy ra
màu vàng xen lẫn mủ trắng đục, mùi tanh thối.
Khi soi đường sinh dục, vùng âm đạo có dính váng mủ, niêm mạc có
vùng nhạt đỏ khơng đều, niêm dịch chảy từ cổ tử cung ra có mùi hơi thối.
+ Thể nặng (+++) thuộc dạng viêm tử cung mủ: thân nhiệt của lợn nái
tăng cao 39,5 - 40°C. Lợn ủ rũ, hay nằm, bỏ ăn, dịch tiết ra từ âm hộ mùi tanh
thối có dạng mủ xanh vàng sệt, có khi lẫn máu.