Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LV ths luật học pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở từ thực tiễn quận đống đa thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.13 KB, 96 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI
ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở; PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT Ở

1.1.

Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở

6
6

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm đất ở

6

1.1.2. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở

9

1.1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất ở

12


1.1.4. Phân biệt hỗ trợ, tái định cư với bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất ở
1.2.

14

Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất ở

16

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
1.2.2

nước thu hồi đất ở

16

Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở

18

1.2.3. Nội dung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở

21

1.2.4. Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất ở và các yêu cầu đặt ra


24

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI
ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở QUA THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.

34

Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở

30


2.1.1. Sơ lược lịch sử pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở

30

2.1.2. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở
2.2.

33

Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất ở trên địa bàn quận Đống Đa thành phố Hà Nội


2.2.1. Vài nét về quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

49
49

2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở

50

2.2.3. Đánh giá việc áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất ở qua thực tiễn áp dụng tại Quận
Đống Đa, Thành phố Hà Nội

58

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở

3.1.

Định hướng

65
65

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở phải phù hợp với quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng


65

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở phải đảm bảo hài hịa lợi ích của Nhà nước, lợi
ich của doanh nghiệp và lợi ich hợp pháp của người sử dụng đất,
đảm bảo cơng bằng xã hội

65

3.1.3. Hồn thiện pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở phải đảm bảo cho người dân có nơi ở tái định
cư bằng hoặc tốt hơn nơi ở mới

66

3.1.4. Chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đồng
bộ, thống nhất, khách quan đảm bảo lợi ích cho các bên có liên quan

66


3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở phải đảm bảo tính bền vững

66

3.1.6. Hồn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở đảm bảo sự đồng thuận và nâng cao sự đồng
thuận của người dân đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định


3.2.

67

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất ở

68

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất ở

68

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở

71

3.2.3. Một số giải pháp đảm bảo công tác thi hành pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở trên địa bàn
quận Đống Đa, Hà Nội trong thời gian tới

73

KẾT LUẬN

77


TÀI LIỆU THAM KHẢO

81

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

NNTHĐ

: Nhà nước thu hồi đất

TĐC

: Tái định cư

THĐ

: Thu hồi đất

UBND

: Ủy ban nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam với đặc thù là một nước đang phát triển, trong điều kiện hiện nay
chúng ta đang tiến hành cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu
về xây dựng các cơng trình phục vụ mục đích an ninh quốc phịng, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng ngày càng gia tăng, điều này đồng nghĩa với việc Nhà nước phải
tiến hành thực hiện thu hồi đất (THĐ) của nhân dân phục vụ cho công cuộc đổi mới,
đồng thời Nhà nước cũng phải tiến hành việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
(TĐC) sau khi THĐ, đặc biệt là đất ở cho người dân. Vì vậy, Luật đất đai năm 2013
ra đời thay thế Luật đất đai năm 2003 đã quy định một cách cụ thể hơn về vấn đề
bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) ở. Tuy nhiên, thực tiễn
chứng minh những quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều vướng mắc như:
điều kiện hỗ trợ, bồi thường về đất, giá trị bồi thường, hỗ trợ đất, nhà ở, tài sản khác
trên đất, vấn đề TĐC, các điều kiện sinh hoạt của người dân phải di dời, những vấn
đề phát sinh sau khi thực hiện chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó, các cơ quan áp dụng
pháp luật về bồi thường hỗ trợ, TĐC khi THĐ ở còn bị động, thiếu linh hoạt, nhiều
vi phạm pháp luật trong giải quyết bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi THĐ ở vẫn đang
diễn ra, gây nhiều bức xúc trong dư luận, tình trạng khiếu kiện cịn nhiều phức tạp,
địi hỏi cần có các giải pháp đồng bộ, hồn thiện quy định pháp luật về bồi thường
hỗ trợ, TĐC khi THĐ ở, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc thực thi pháp luật
trong lĩnh vực này.
Từ thực trạng nêu trên việc nghiên cứu, nhận diện, đánh giá thực trạng pháp
luật về bồi thường hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là việc làm cần thiết và có ý nghĩa.
Đặc biệt, việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ ở tại quận Đống Đa - thành phố Hà Nội càng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng bởi vị trí địa lý quận Đống Đa nằm trên trục phát triển phía Tây thành phố Hà
Nội, nơi có nhiều dự án giải phóng mặt bằng (GPMB) nhất nhì thành phố. Vì thế,

1



học viên đã chọn đề tài: "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở từ thực tiễn quận Đống đa - thành phố Hà Nội" làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đến nay, vấn đề bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ ở đã thu hút được
sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Có
thể đề cập đến một số cơng trình, bài báo tiêu biểu như:
- Cuốn chuyên khảo: Pháp luật về định giá trong bồi thường giải phóng
mặt bằng ở Việt Nam, PGS.TS Doãn Hồng Nhung (chủ biên), Nxb Tư pháp, 2013.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường (2013): Pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất - thực trạng và hướng hoàn thiện, của
TS. Nguyễn Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn thạc
sĩ Luật học, của Nguyễn Vinh Diện, năm 2006;
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
(qua thực tiễn thi hành hành tại thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Nguyễn Duy Thạch, năm 2007;
- Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Tân Cảnh, năm 2017;
- Pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Lê Thành Long, năm 2017;
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ
thực tiễn tỉnh Tây Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Tất Đắc, năm 2018;
- Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh
Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Lê Phú Lượng, năm 2018;
- Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, của Phạm Thu Thủy, năm 2014;
- Nhà tái định cư: vừa ở vừa…run, của Nguyễn Thiêm ,Báo Công an nhân
dân, số ra ngày 21/5/2005;


2


- Vấn đề việc làm cho người bị thu hồi đất ở nơng thơn trong q trình xây
dựng, phát triển các khu cơng nghiệp, của Đỗ Đức Qn, Tạp chí Kinh tế và Dự
báo, số 8 (412), tháng 8 năm 2007, tr. 33-35;
- Vì sao dân chưa đồng thuận, của Đức Tâm, Báo điện tử Kinh tế và Đô
thị, số ra ngày 19/8/2008;
- Bức xúc thu hồi đất không chỉ do giá đền bù, của Lan Hương, Báo điện tử
Dân trí, số ra ngày 03/10/2008;
- Một số ý kiến hồn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất, của ThS. Lê Ngọc Thạnh, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 11 (73), tháng
6 năm 2009, tr. 40-43;
- Dân bức xúc vì sự vơ cảm của chính quyền, của nhóm phóng viên điều
tra, Báo điện tử Nhà báo và Cơng luận, số ra ngày 17/9/2009...
Nói chung, các cơng trình, bài báo nêu trên đều nghiên cứu về bồi thường
khi NNTHĐ ở mức độ và phạm vi khác nhau. Có cơng trình, bài báo nghiên cứu đi
sâu phân tích, bình luận một số khía cạnh pháp lý về bồi thường khi NNTHĐ; có
cơng trình, bài báo nghiên cứu vấn đề này ở phạm vi rộng nhằm đánh giá khái quát
pháp luật và thực trạng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ. Bên cạnh đó, lại có
cơng trình nghiên cứu vấn đề này thông qua việc đánh giá thực trạng áp dụng pháp
luật tại địa bàn cụ thể của một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương…
Tuy nhiên, chưa có bất kỳ cơng trình nào nghiên cứu vấn đề pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở theo quy định của Luật đất đai năm 2013
qua việc khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ ở tại quận Đống Đa - thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về

pháp luật bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở. Nghiên cứu thực trạng pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở qua các vụ việc, tình huống cụ thể tại địa
bàn quận Đống Đa - thành phố Hà Nội.

3


3.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ ở để xác định rõ bản chất nội dung của vấn đề.
+ Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
theo quy định Luật đất đai năm 2013. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở qua khảo sát tại quận Đống Đa - thành phố Hà
Nội. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, TĐC khi NNTHĐ ở và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là các quy định của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở theo quy định của Luật đất đai năm 2013 và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Đống Đa - thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ ở trên địa bàn quận Đống Đa - thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn này sẽ sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
và phương pháp logic làm phương pháp luận cơ bản và xuyên suốt trong quá trình
nghiên cứu, cùng với một số phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác, cụ thể là:
Phương pháp phỏng vấn sâu được sử dụng chủ yếu trong Chương 2, phỏng
vấn là phương pháp quan trọng để thu thập dữ liệu về các yêu cầu của hệ thống
thông tin. Việc phỏng vấn nhằm phát hiện thông tin về các ý kiến của người được

phỏng vấn về những vấn đề xung quanh việc THĐ ở.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong Chương 1, Chương 2.
Phương pháp quy nạp và diễn dịch sử dụng trong cả 3 chương.
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp từ các nguồn liên quan và
đáng tin cậy, được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 và Chương 3.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Luận văn cung cấp một cách tồn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở.
Luận văn là nguồn tư liệu tổng hợp về thực trạng pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở. Cung cấp thêm các luận cứ khoa học trong công tác bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở tại quận Đống Đa - thành phố Hà Nội trong thời
gian tới. Luận văn có giá trị tham khảo đối với sinh viên đại học, cao học luật và
hành chính, có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, nghiên
cứu ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, hoặc làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến vấn đề này. Những đề xuất, giải pháp của luận văn là tư liệu
tham khảo để các nhà hoạch định chính sách pháp luật tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở qua thực tiễn nghiên cứu tại quận Đống
Đa - thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất ở.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở qua thực tiễn áp dụng tại quận Đống Đa - thành phố Hà Nội.

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở; PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở
1.1. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm đất ở
* Khái niệm đất ở
Đất ở nói riêng và đất nói chung cịn gọi chung là đất đai là một loại vật
chất có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với vịng tuần hồn phát triển của thời gian thì
con người xuất hiện và tác động vào loại vật chất này, cải tạo chúng và biến chúng
từ sản phẩm của tự nhiên nhưng mang trong mình sức lao động của con người, để
chúng cũng được coi là một sản phẩm của xã hội.
Theo cách hiểu truyền thống, đất ở thường được coi là vị trí đất nơi mà con
người cư ngụ, sinh sống, cũng như là nơi xây dựng những cơng trình phục vụ cho
sinh hoạt đời sống thường nhật. Trên thực tế, đất ở khơng chỉ là nơi con người sinh
sống mà cịn bao gồm diện tích các loại đất khác được coi là đất ở. Đất ở - hay còn
gọi là Đất thổ cư cũng là một thuật ngữ được sử dụng nhiều và phổ biến nhất trong
các văn bản quy phạm pháp luật Đất đai ở nước ta.
Theo Các Mác viết: "Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện
để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản
trong nơng, lâm nghiệp". Do vậy, nếu khơng có đất ở thì khơng có bất kỳ một nơi
nào mà con người có thể cư trú, sinh sống cũng như khơng thể tiến hành sản xuất ra
của cải vật chất để duy trì cuộc sống và duy trì nịi giống đến ngày nay
Dưới góc độ pháp luật, đất ở được xem là một loại tài sản thuộc quyền sở

hữu, quyền sử dụng và định đoạt của con người. Luật Đất đai năm 1993 của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: "Đất đai là tài nguyên quốc gia vô
cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của

6


môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế,
văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao
công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay!".
Theo quy định tại Luật đất đai 2013, đất ở là để chỉ đất sử dụng cho mục
đích sinh sống, cư trú của con người trên đó. Đất ở thuộc nhóm đất phi nơng
nghiệp, bao gồm đất ở đơ thị và đất ở nông thôn. Đây là loại đất dùng để xây dựng
nhà ở, xây dựng các cơng trình phục vụ cho đời sống; đất vườn ao gắn liền với nhà
ở trong cùng một thửa đất thuộc khu dân cư (kể cả trường hợp vườn, ao gắn liền với
nhà ở riêng lẻ) đã được công nhận là đất ở.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về đất ở như sau: Đất ở
bao gồm tổng thể diện tích các loại đất, có đặc tính sử dụng giống nhau, được nhà
nước giao cho người dân sử dụng với vai trò là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ
cho mục đích cư trú, sinh hoạt và xây dựng các cơng trình phục vụ hoạt động sống
thường nhật của con người.
* Đặc điểm của đất ở
Thứ nhất, về tính cố định. Đất ở cũng như các loại đất đai thơng thường, do
vậy nó có tính cố định về vị trí, khơng thể di chuyển được, tính cố định vị trí quyết
định tính giới hạn về quy mơ theo không gian và chịu sự chi phối của các yếu tố mơi
trường nơi có đất. Mặt khác, đất đai khơng giống các hàng hóa khác có thể sản sinh qua
quá trình sản xuất do đó, đất đai là có hạn. Tuy nhiên, giá trị của đất ở tại các vị trí khác
nhau lại khơng giống nhau. Đất ở tại khu vực đơ thị có giá trị lớn hơn ở nơng thôn và
vùng sâu, vùng xa; đất ở tại những nơi tạo ra nguồn lợi lớn hơn, các điều kiện cơ sở hạ
tầng hồn thiện hơn sẽ có giá trị lớn hơn những đất đai có điều kiện kém hơn. Chính

vì vậy, khi vị trí đất ở, điều kiện đất đai từ chỗ kém thuận lợi nếu các điều kiện xung
quanh nó trở nên tốt hơn thì đất đó có giá trị hơn. Vị trí đất ở hoặc điều kiện đất ở
không chỉ tác động đến đời sống cá nhân người dân có quyền sử dụng đất mà cịn
ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo nên lợi thế thương mại cho một
công ty, một doanh nghiệp đồng thời nó cịn có ý nghĩa đối với một quốc gia.

7


Thứ hai, về sự bất biến và tăng lên về giá trị. Một trong những đặc trưng
riêng của loại đất ở này cũng giống như các loại đất đai khác thì đây cũng là một tài
sản khơng hao mịn theo thời gian và giá trị kinh tế của nó ln có xu hướng tăng
lên theo thời gian. Với vị trí là một dạng vật chất tự nhiên và cố định, do đó, tác
động của con người lên đất ở chỉ nhà những tác động trên bề mặt của diện tích đất
đó. Những tác động này khơng thể làm xói mịn hay biến mất diện tích đất này đi
mà chỉ có thể làm biến dạng hoặc thay đổi lượng đất trên diện tích đất đó. Đồng
thời, chính những tác động của con người trên diện tích đất ở nhất định cũng đồng
thời làm tăng thời lượng sử dụng thực tế của đất và làm cho giá trị của đất cũng vì
thế mà tăng lên.
Thứ ba, về sự đa dạng. Cũng như tất cả các loại vật chất được con người cải
tạo, đất có tính đa dạng phong phú tùy thuộc vào mục đích sử dụng và sự phù hợp
với từng vùng miền địa lý, đối với đất đai sử dụng vào mục đích nơng nghiệp thì
tính đa dạng phong phú của đất đai do khả năng thích nghi của các loại cây, con
quyết định và đất tốt hay xấu xét trong từng loại đất để làm gì, đất tốt cho mục đích
này nhưng lại khơng tốt cho mục đích khác. Cịn đối với đất ở thì tính đa dạng
phong phú của nó phụ thuộc vào tính chất khu vực nơi tồn tại loại đất này mà được
gọi là đất ở nông thôn hoặc đất ở đô thị.
Thứ tư, về sự liên kết chặt chẽ với con người. Đất đai là một tư liệu sản xuất
gắn liền với hoạt động của con người. Do đó, đất ở cũng khơng phải ngoại lệ. Con
người tác động vào đất đai nhằm thu được sản phẩm để phục vụ cho các nhu cầu

của cuộc sống. Tác động này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp và làm thay đổi tính
chất của đất đai có thể chuyển đất hoang thành đất sử dụng được hoặc là chuyển
mục đích sử dụng đất. Tất cả những tác động đó của con người biến đất đai từ một
sản phẩm của tự nhiên thành sản phẩm của lao động. Trong điều kiện sản xuất tư
bản chủ nghĩa, những đầu tư vào ruộng đất có liên quan đến các quan hệ kinh tế - xã
hội. Trong xã hội có giai cấp, các quan hệ kinh tế - xã hội phát triển ngày càng làm
các mâu thuẫn trong xã hội phát sinh, đó là mối quan hệ giữa chủ đất và nhà tư bản

8


đi thuê đất, giữa nhà tư bản với công nhân... Đối với đất ở, con người sử dụng sức
lao động của mình để chế biến, cải tạo đất đai biến chúng trở thành công cụ phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt cư trú của mình. Chính việc cải tạo này đã tạo nên mối gắn
kết bền chặt, lâu dài giữa đất ở và con người. Sự gắn kết ấy có thể kéo dài đến suốt
cuộc đời người cải tạo.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất đai phong phú hơn rất nhiều,
quyền sử dụng đất được trao đổi, mua bán, chuyển nhượng và hình thành một thị
trường đất đai. Lúc này, đất đai được coi như là một hàng hóa và là một hàng hóa
đặc biệt. Thị trường đất đai có liên quan đến nhiều thị trường khác và những biến
động của thị trường này có ảnh hưởng đến nền kinh tế và đời sống dân cư, đặc biệt
là những người cư trú đến mảnh đất đó
1.1.2. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Thông thường, quan hệ pháp luật Đất đai cũng như quyền sử dụng đất của
người dân được phát sinh dựa trên cơ sở việc nhà nước trao quyền sử dụng thông
qua các phương thức giao đất hoặc cho thuê đất. Do vậy, quan hệ pháp luật Đất đai
cũng sẽ bị chấm dứt bằng việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành một
quyết định hành chính thể hiện mục đích chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể đối với một diện tích đất đai nhất định, đây được coi là biện pháp THĐ do
nhà nước tiến hành. Thông qua biện pháp này, nhà nước thể hiện rõ quyền định đoạt

đất đai với tư cách là chủ thể đại diện cho chủ sở hữu đối với đất đai. Theo quy định
tại Khoản 11 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thơng qua ngày
29/11/2013 và đã có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2014 thì: "Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao
quyền sử dụng đất hoặc thu lại quyền sử dụng đất của người sử dụng đất vi phạm
pháp luật về đất đai".
Do vậy có thể hiểu, THĐ ở là việc nhà nước ra quyết định hành chính để
thu lại đất ở và quyền sử dụng đất ở đã giao cho chủ thể sử dụng đất theo quy định
của pháp luật Đất đai. Việc THĐ ở này luôn gây ra những hậu quả nghiêm trọng

9


ảnh hưởng tiêu cực đến người bị thu hồi đât. Họ sẽ là người bị tước đoạt mất tư liệu
sản xuất, nơi để sinh sống cư trú cũng khơng cịn, đời sống thường ngày bị xáo trộn
dẫn đến cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn bởi họ đang rơi vào tình trạng khơng đáp
ứng đủ điều kiện sống cơ bản của một con người bình thường. Vì vậy, việc THĐ ở
khi được nhà nước tiến hành sẽ luôn đi đôi với việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC cho
người sử dụng đất trước đó nhằm giúp họ sớm vượt qua khó khăn để ổn định cuộc
sống và tìm kiếm chỗ ở mới.
Pháp luật về đất đai hiện hành đã quy định rằng, trách nhiệm bồi thường
được đặt ra khi Nhà nước tiến hành THĐ để sử dụng vào các mục đích mang tính
chất cộng đồng, cơng cộng như vì mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích cơng cộng hay vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Thông thường, khi
nhắc đến "Thu hồi" chúng ta thường nghĩ đến đây là chế tài, hình phạt dành cho các
chủ thể thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên việc THĐ này không phát
sinh từ lỗi của người sử dụng đất trước đó mà nó được căn cứ vào mục đích của
việc thu hồi. Trong khi đó, người tiến hành hoạt động thu hồi là cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và người sử dụng đất chính là chủ thể chịu thiệt hại từ việc thu hồi này,
do đó, Nhà nước phải có trách nhiệm và phải thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ

TĐC.
Thuật ngữ "Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư" đã được sử dụng và lưu hành từ
rất lâu trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là trong các
văn bản quy phạm pháp luật về đất đai. Sau khi Luật Đất đai 1987 ra đời, Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 186/HĐBT ngày
31/05/1990 quy định "Về đền bù thiệt hại đất nơng nghiệp, đất có rừng khi chuyển
sang sử dụng vào mục đích khác". Thuật ngữ "Đền bù thiệt hại" được sử dụng thay
cho thuật ngữ "Bồi thường". Có thể thấy, mặc dù quy định của pháp luật khi ấy
không đưa ra sự lý giải rõ ràng, chi tiết về vấn đề này, nhưng cũng có thể hiểu "Đền
bù thiệt hại" khi NNTHĐ là việc bù đắp lại những tổn thất do việc THĐ gây ra,
hoàn trả lại một khoản tương đương với giá trị quyền sử dụng đất và công sức mà

10


người sử dụng đất đã bỏ ra trong suốt quá trình tơn tạo, sử dụng đất. Thuật ngữ này
được tiếp tục sử dụng trong Luật Đất đai 1993, Luật sử đổi bổ sung một số điều của
Luật đất đai năm 1998 và các Văn bản hướng dẫn thi hành.
Đến khi Luật Đất đai 1993 sửa đổi, bổ sung 2001 được Quốc hội ban hành,
thuật ngữ "Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư" mới được các nhà làm luật nhìn nhận ra
ý nghĩa và giá trị của nó. Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật đất đai
2003, Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ "Về bồi thường,
hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất" cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành
khác. Sự thay đổi này hoàn toàn hợp lý bởi nội hàm của hai thuật ngữ "Đền bù thiệt
hại" và "Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư" không giống nhau. Mặc dù đều cùng mục
đích và bản chất là bù đắp những thiệt hại đã gây ra, tuy nhiên Đền bù thiệt hại chỉ
mang tính bù đắp ngang bằng (đền bù 100% giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi)
còn bồi thường, hỗ trợ, TĐC ngoài việc bù đắp giá trị đất và các tài sản trên đât bị
thiệt hại, nhà nước còn tiến hành các hoạt động khác nhằm giúp người bị THĐ sớm
ổn định cuộc sống thông qua các biện pháp hỗ trợ và TĐC.

Đối với việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở, có thể được giải thích
bằng khái niệm: Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là việc Nhà nước hoặc tổ
chức, cá nhân được nhà nước trao quyền sử dụng đất phải bù đắp những tổn hại về
đất, tài sản trên đất và những thiệt hại khác có liên quan do hành vi THĐ ở gây ra
cho người sử dụng đất tuân theo những quy định của pháp luật Đất đai.
Tựu chung lại, bồi thường và hỗ trợ sau khi THĐ ở là những hoạt động
đương nhiên được thực hiện giữa một bên là chủ thể thu hồi - Nhà nước và một bên
là chủ thể bị thu hồi - người sử dụng đất phải chịu thiệt hại về quyền và lợi ích hợp
pháp do hành vi THĐ của nhà nước gây ra. Nhà nước đương nhiên phải có trách
nhiệm "Bồi thường" nhằm bù đắp, san sẽ những thiệt hại, tổn thất về quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị THĐ thơng qua việc "thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất bị thu hồi". Việc làm này đóng vai trị cốt yếu trong việc đề bù những tổn thất
của người bị THĐ và nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người sử

11


dụng đất bị thu hồi. Còn "Hỗ trợ" được coi như chuỗi các hoạt động mà Nhà nước
thực hiện nhằm giải quyết những hậu quả đối với đời sống của người bị THĐ xảy ra
sau khi bồi thường. Có thể xem "Hỗ trợ" cũng là một biện pháp mà nhà nước giúp
sức cho người dân giải quyết các vấn đề dân sinh, các thiệt hại vật chất và tinh thần
ngoài giá trị tài sản đã bị thu hồi, như thay đổi nơi cư trú, thay đổi việc làm, mất ổn
định cuộc sống, thiệt hại về mặt tinh thần,... Việc thực hiện "Bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư" có thể thấy là một trong những đường lối, chủ trương phù hợp với bản chất
của một quốc gia của dân, do dân và vì dân. Đồng thời đây là chuỗi những hoạt
động nhằm làm cho việc THĐ và giải quyết các hệ quả của việc THĐ được thực
hiện một cách toàn diện và triệt để nhất.
Như vậy: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ở là tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành, nhằm điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội giữa Nhà nước với người sử dụng đất

ở thuộc trường hợp bị thu hồi đất ở được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
1.1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Một là: Nhà nước giải quyết hậu quả và các hệ quả liên quan sau hoạt
động THĐ.
Việc thu hồi đât, đặc biệt là đât ở chỉ được thực hiện bởi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, do đó, khi nhắc đến chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện việc bồi
thường này khơng thể không nhắc đến Nhà nước. Sau khi thu hồi đât ở của người dân,
một hậu quả nghiêm trọng nhất xảy ra đó là người bị THĐ khơng cịn nơi cư trú,
khơng cịn giữ được sự ổn định cũng như tính an tồn cho đời sống thường nhật. Bởi
vậy, Nhà nước đương nhiên phải đứng ra giải quyết những hậu quả này. Những thiệt
hại cả về mặt vật chất và tinh thần mà người dân phải gánh chịu sau khi có sự THĐ từ
phía Nhà nước, đồng nghĩa với việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC cho người dân sau khi
THĐ ở là một khâu tất yếu của quá trình THĐ và giải quyết các vấn đề phát sinh.
Người dân có quyền được bồi thường và hưởng các điều kiện sống cơ bản,
về chỗ ở, về việc làm, về đời sống xã hội cũng như đời sống tinh thần. Trong quan

12


hệ pháp luật về đất đai, các chủ thể luôn có những quyền và lợi ích nhất định được
pháp luật quy định cụ thể trong hiến pháp và pháp luật Đất đai. Do vậy, bất kỳ chủ
thể nào có sự tác động nhằm xâm hại đến những quyền và lợi ích đó vì bất kỳ mục
đích gì, cũng buộc phải có những chế tài, biện pháp nhằm hồn trả, thanh tốn giá
trị tương xứng với quyền và lợi ích đã bị xâm hại của chủ thể có quyền. Nhà nước
cũng không phải là chủ thể loại trừ. Khi nhà nước tiến hành hành vi xâm hại trực
tiếp đến quyền và lợi ích của người dân mà cụ thể ở đây là hoạt động thu hồi đât ở
thì buộc Nhà nước phải thực hiện các biện pháp khắc phục nhằm hoàn trả lại giá trị
tương xứng cho người dân và thực hiện các hoạt động nhằm bù đắp những tổn thất
và thiệt hại xung quanh do việc THĐ gây ra.
Hai là: Nhanh chóng ổn định cuộc sống cho người dân bị THĐ nói chung

và ổn định trật tự xã hội nói riêng.
Đât đai là một dạng vật chất tự nhiên, bất biến theo thời gian và bất động
theo không gian. Trong khi đó, mối liên hệ giữa con người và đất đai là vô cùng
chặt chẽ, không thể tách rời. Con người sinh sống, lao động trên chính khoảng đất
đai hiện có và đất đai được coi như một loại tài sản của con người. Do vậy, khi có
bất cứ thay đổi nào đối với loại tài sản này, sự biến động đối với mỗi con người là
vô cùng lớn, đặc biệt hơn là đối với những biến động trên đất ở, mà cụ thể là việc
đất ở bị Nhà nước thu hồi. Khi bị nhà nước thu hồi phần đất nơi mình sinh sống,
người bị THĐ rơi vào tình trạng khơng có nơi cư trú. Các hoạt động thường nhật
thường được diễn ra trên diện tích đất bị thu hồi cũng bị tạm ngừng, người dân mất
đi một khoản tài sản lớn, đời sống mất ổn định, dễ dẫn đến những hậu quả xấu tiêu
cực về sau. Khi một cá nhân chịu những thiệt hại cả về mặt vật chất và tinh thần mà
không được bù đắp xứng đáng, đời sống, tinh thần của người đó bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, và khi nhiều cá nhân cũng phải chịu những thiệt hại trên mà khơng có
sự kiểm sốt nhất định dễ dẫn đến những bất đồng của nhóm đối tượng này đối với
chủ thể đã tiến hành THĐ - Nhà nước, dễ dẫn đến những hành vi tiêu cực cho xã
hội và cộng đồng. Bên cạnh đó, việc khơng bồi thường, hỗ trợ những người bị thu

13


hồi đât sẽ khiến chính họ tiếp chịu những tổn thất và thiệt hại ngày càng nghiêm
trọng hơn. Khi những người này khơng cịn giữ được sự ổn định và cân bằng cho
cuộc sống, đời sống và tâm lý của họ cũng sẽ dễ đẩy họ vào tình cảnh tiêu cực, phải
đối mặt với các tệ nạn xã hội, dịch bệnh, sự mất an tồn tính mạng,... Đây khơng
phải mục tiêu mà việc THĐ hướng tới - vì lợi ích cộng đồng, vì lợi ích của người dân.
Ba là: Đảm bảo cho việc THĐ và giải quyết các vấn đề phát sinh một cách
tồn diện, nhanh chóng, nâng cao uy tín của nhà nước trong lịng dân khi Nhà nước
tiến hành thực hiện Bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Quyền lực nhà nước được hình hành dựa trên ý chí đồng thuận của người

dân. Do đó, khi nhà nước thực hiện việc THĐ là đang thực hành quyền lực nhà
nước, đồng thời, việc giải quyết các hậu quả của hoạt động thu hồi cũng là việc nhà
nước đương nhiên phải làm dưới quyền lực mà nhân dân đã giao phó. Khi mục đích
của việc THĐ được xác định rõ vì lợi ích cộng đồng đi kèm với việc giải quyết
quyền và lợi ích của người dân thì việc nhân dân tin tưởng trao quyền lực cho nhà
nước thực hiện là hồn tồn đúng đắn. Khi đó, niềm tin và hy vọng mà người dân
đặt vào Nhà nước được củng cố, việc người dân hợp tác, hỗ trợ để nhà nước nhanh
chóng, dễ dàng thực hiện THĐ, tiến hành các dự án, chủ trương vì mục đích cơng
cộng là hồn tồn khả thi. Điều này đồng nghĩa với việc công tác THĐ và giải quyết
các hậu quả phát sinh cũng được giải quyết một cách tồn diện, nhanh chóng.
1.1.4. Phân biệt hỗ trợ, tái định cư với bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở
Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở đều là hậu quả pháp lý được phát
sinh do hành vi THĐ của nhà nước trực tiếp gây ra. Công tác bồi thường, hỗ trợ,
TĐC chỉ được thực hiện sau khi có quyết định THĐ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Việc NNTHĐ ở nhằm các mục đích chung của xã hội, vì lợi ích của cộng
đồng, Nhà nước thay mặt cho toàn thể tập thể người dân để thực hiện trách nhiệm
này. Do vậy, sau khi tiến hành THĐ, nhà nước phải thực hiện các hoạt động khơng
chỉ riêng việc bồi thường mà cịn phải thực hiện công tác hỗ trợ, TĐC cho người

14


dân nhanh chóng ổn định cuộc sống mới, giải quyết những khó khăn về đời sống kinh tế - xã hội của người bị thu hồi.
Hoạt động Bồi thường và Hỗ trợ TĐC không phải là một hoạt động chung
đồng nhất. Đây được coi là hai hoạt động trong cùng một khâu giải quyết hệ quả
của việc NNTHĐ ở. Và đương nhiên hai hoạt động này có sự khác biệt riêng.
Cho đến nay, Luật đất đai 2013 đã được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2013 đã quy định rõ tại Khoản 12 Điều 3 về giải thích từ ngữ như sau: "Bồi
thường về đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
thu hồi cho người sử dụng đất". Bồi thường khi NNTHĐ ở được xem như hoạt động

bù đắp ngang bằng (Đền bù 100% giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi) cho người
dân. Hay có thể hiểu một cách đơn giản rằng. Nhà nước khi THĐ của người dân sẽ
tiến hành trao trả cho người bị thu hồi một khoản tiền tương đương với giá trị diện
tích đất và các tài sản gắn liền trên đất đã bị thu hồi. Sự quy đổi ngang bằng này
mang tính chất hồn trả, bù đắp thiệt hại về mặt vật chất để người dân đồng ý và
chấp nhận cho việc thu hồi được diễn ra.
Ngoài việc bồi thường thiệt hại sau hoạt động THĐ, nhà nước đồng thời
cũng phải tiến hành các chính sách, biện pháp nhằm hỗ trợ, TĐC cho người dân sau
khi bị THĐ ở. Trong đời sống dân sự cũng như trong quá trình xây dựng và phát
triển xã hội, một cộng đồng vì lợi ích chung ln đặt mục tiêu "tương thân tương ai"
làm tôn chỉ cho hành động. Tinh thần đoàn kết của cả cộng đồng được thể hiện
thông qua sự hỗ trợ cả về mặt vật chất và tinh thần cho một đối tượng hoặc một
nhóm đối tượng trong xã hội để họ có thể nhanh chóng ổn định đời sống, sớm vượt
qua những khó khăn hay những rủi ro mà họ đang phải đương đầu. Đây là một nét
đẹp văn hóa của người dân Việt Nam ta từ xưa đến nay, đó là sự thể hiện tính nhân
văn, nhân đạo với đồng bào, dân tộc. Đây được xem như là một hoạt động hỗ trợ.
Như vậy, ta có thể hiểu hỗ trợ là sự trợ giúp, giúp đỡ của cả cộng đồng nhằm san sẻ,
hay cùng nhau góp phần giảm thiểu sự rủi ro, sự khó khăn mà một người hoặc một
nhóm người đang phải gánh chịu trong cuộc sống. Hoạt động này được thực hiện

15


dưới hai hình thức chính: Hỗ trợ về mặt vật chất (tiền của hoặc các hiện vật), và hỗ
trợ về mặt tinh thần (động viên, thăm hỏi, an ủi,...).
Trong lĩnh vực pháp luật, và đặc biệt là pháp luật Đất đai, thuật ngữ hỗ trợ,
TĐC nói riêng và hoạt động hỗ trợ nói chung được sử dụng đóng vai trị rất quan
trọng trong các quan hệ pháp luật Đất đai, đặc biệt là hoạt động THĐ ở của Nhà
nước. Khi nói đến việc NNTHĐ ở, khơng thể khơng nhắc đến vấn đề hỗ trợ, TĐC
cho người dân, bởi đất đai là tư liệu sản xuất gắn liền với đời sống sinh hoạt và giá

trị của loại đất này vô cùng lớn, việc THĐ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng và tiêu cực
đến đời sống sinh hoạt của người dân. Do vậy, khi nhà nước thu hồi, người sử dụng
sẽ bị mất nơi cư trú, cuộc sống lâm vào hồn cảnh khó khăn như khơng có nơi để ở,
khơng có đủ các điều kiện sống cơ bản của một con người. Để có thể khắc phục
những thiệt hại đã gây ra cho người dân, Nhà nước buộc phải thực hiện việc hỗ trợ,
giúp đỡ người dân bị THĐ thông qua các hoạt động như cấp kinh phí để di dời đến
nơi ở mới, đào tạo nghề, bố trí nơi làm việc mới...
1.2. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất ở
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cũng giống như bất cứ
các hoạt động, hành vi khác xuất hiện trong đời sống dân sự, luôn cần một khuôn
khổ và sự điều chỉnh nhất định thơng qua những quy phạm chung mang tính ràng
buộc. Sự điều chỉnh này được thực hiện bởi các quy phạm pháp luật nhằm định
hướng các hoạt động đi theo một phương hướng đảm bảo một trật tự chung thống
nhất phù hợp với lợi ích chung của tồn xã hội, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích
của các bên liên quan và lợi ích của Nhà nước. Đối với hoạt động liên quan đến việc
NNTHĐ ở, pháp luật cũng ln có sự điều chỉnh bằng hàng loạt các quy phạm quy
định về nguyên tắc, điều kiện, nội dung và phương thức, quy trình, thủ tục tiến hành
THĐ và giải quyết các vấn đề hệ quả nảy sinh, trong đó có cơng tác bồi thường, hỗ
trợ, TĐC cho người dân sau khi bị THĐ.

16


Các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ ở là một phần quan trọng của pháp luật Đất đai Việt Nam nói chung và
pháp luật về THĐ, thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói riêng. Các quy định này
được Nhà nước thực hiện bằng việc tác động điều chỉnh vào chính hành vi của các
chủ thể tham gia quan hệ bồi thường, hỗ trợ, TĐC, nhằm giải quyết hài hịa các lợi

ích giữa các chủ thể tham gia mối quan hệ này.
Tóm lại, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất ở là tổng hợp các quy phạm quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất ở, nhằm giải quyết hài hịa các lợi ích của Nhà nước, lợi
ích của chủ đầu tư và của người bị thu hồi đất ở.
Với vai trị của mình, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
có những điểm đặc thù riêng trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai.
Cụ thể như sau:
- Đất đai theo quy định của pháp luật Việt Nam được xem là tài sản mang
tính sở hữu tập thể, là tài sản chung của cả cộng đồng dân tộc và Nhà nước được
cử ra làm đại diện hợp pháp của chủ sở hữu. Bởi vậy, việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC
khi NNTHĐ chịu sự chi phối của hình thức sở hữu tồn dân về đất đai. Vì vậy, pháp
luât về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ cho phép Nhà nước được toàn quyền
định đoạt trong việc THĐ phục vụ cho mục đích chính đáng và thực hiện các hoạt
động giảm thiểu, ngăn ngừa, khắc phục thiệt hại do việc THĐ gây ra.
- Những tổn thất nảy sinh liên quan đến hoạt động THĐ ở không chỉ dừng
lại ở những thiệt hại về vật chất, về giá trị tài sản bị thu hồi trên thực tế mà còn liên
quan đến những thiệt hại phi vật chất mà người dân phải gánh chịu khi NNTHĐ ở
tại thời điểm tiến hành thu hồi và thời gian dài sau đó. Bởi việc THĐ ở dẫn đến sự
biến động rất lớn trong đời sống của người bị thu hồi, người dân khơng cịn nơi cư
trú, khơng cịn tiến hành được những hoạt động sinh sống, sinh hoạt, kinh doanh
thường ngày, những điều kiện sống cơ bản không được đáp ứng đầy đủ do đó,

17


những tác động đến tâm lý của người dân là không hề nhỏ, và ảnh hưởng tiêu cực
đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân.
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở được xem như hoạt

động làm dung hịa lợi ích chung của cộng đồng và lợi ích cá nhân của người bị
THĐ. Điều này được thể hiện rõ thông qua mục đích của việc thu hồi và các biện
pháp khắc phục thiệt hại mà Nhà nước tiến hành. Mục đích của việc THĐ ở khi Nhà
nước thực hiện làm nhằm phục vụ cho cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đưa đời sống của người dân hướng tới chất lượng cuộc sống cao hơn trong
tương lai, đó là vì lợi ích chung của cộng đồng. Để thực hiện được mục tiêu trên,
Nhà nước phải tiến hành THĐ, và để đảm bảo quyền lợi cho những người dân bị
THĐ ở cho mục đích nêu trên, Nhà nước tiến hành hồi thường, hỗ trợ, TĐC giúp
cho người dân được đền bù xứng đáng với thiệt hại phải chịu và sớm lấy lại được
cuộc sống ổn định.
Tựu chung lại, pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, TĐC khi nhà nước THĐ luôn liên quan đến những vấn đề hết sức nhạy cảm.
Nó tác động trực tiếp đến đời sống của người dân không chỉ đời sống vật chất mà cả
đời sống tinh thần, và tạo ra những biến động lớn, do vậy sức thu hút sự quan tâm
của người dân là vô cùng lớn, đặc biệt là những người thuộc trong các trường hợp
bị NNTHĐ. Do đó, khi nhà nước thực hiện cơng tác THĐ cần tránh các tác động
tiêu cực đến tâm lý, tinh thần của người dân, giảm thiểu các mâu thuẫn, tranh chấp
và các nguy cơ mất ổn định trật tự chính trị - xã hội tiềm ẩn.
1.2.2. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
* Về nguyên tắc bồi thường
Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ trong Luật Đất
đai năm 2003 trên thực tế đã không thể thể chế, truyền tải hết các quy định mang
tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh
trong thực tiễn THĐ, bồi thường, hỗ trợ, TĐC tại các địa phương, các bộ, ngành.
Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về

18


đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi

NNTHĐ thành 02 điều riêng biệt (Điều 74 và Điều 88). Trong đó, quy định cụ thể
các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản
gắn liền với đất khi NNTHĐ để các bộ, ngành, địa phương và người THĐ căn cứ
vào đó thống nhất thực hiện.
- Nội dung cụ thể nguyên tắc bồi thường như sau:
"Điều 74. Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được
bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử
dụng với loại đất thu hồi, nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng
tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ, khách
quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật".
Nguyên tắc trên thể hiện khi nhà nước lấy đi phần lợi ích của người dân mà
có đầy đủ điều kiện được bồi thường thì Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường
thiệt hại.
Thứ nhất, người sử dụng đất (sáu đối tượng quy định tại Điều 75) nếu có đủ
các điều kiện quy định như Luật định sẽ được Nhà nước bồi thường theo thiệt hại thực
tế họ mắc phải khi gặp phải chính sách THĐ của Nhà nước. Điều đó thể hiện sự bình
đẳng của nhà nước đối với người sử dụng đất, họ được đối xử như nhau trên pháp luật.
Thứ hai, việc bồi thường sẽ ưu tiên bồi thường băng đất rồi sau đó đến trả
tiền (trừ một số trường hợp khác muốn lấy tiền hay buộc lấy đất). Khi Nhà nước lấy
đất thì bồi thường bằng đất cùng loại, nếu khơng có đất cùng loại thì được bồi
thường bằng tiền với giá trị tương đương. Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm
coi đất đai là tài sản có thể được trả thay bằng tiền bồi thường để mua được một
thửa đất tương đương. Quy định này cũng nhằm ngăn ngừa tình trạng người bị THĐ

19



đòi bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ việc chuyển mục đích sử
dụng đất hoặc do sự đầu tư của Nhà nước mang lại.
Thứ ba, việc bồi thường phải dân chủ, khách quan, tức là phảm đảm bảo khi
người dân bị THĐ mà có đủ các điều kiện thì phải được bồi thường một cách nhanh
chóng, hợp lý, cơng khai, cơng bằng như những người khác và phải tuân thủ theo
quy định của pháp luật.
- Tại Điều 88 quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản sản xuất,
kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất:
"1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với
đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.
2. Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt
Nam định cư ở nước ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phải ngừng sản
xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại".
Đây là một điểm mới của Luật đất đai 2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi
thường về đất không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và tư liệu sản
xuất. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa tài sản, đất đai còn là tài nguyên thiên nhiên, là
nguồn sống của con người; do đó khi THĐ ngồi việc bồi thường giá trị của đất còn
phải bồi thường thiệt hại về tài sản sản xuất, kinh doanh cho người dân là phù hợp.
* Về nguyên tắc hỗ trợ, tái định cư
Là một điểm mới của Luật Đất Đai 2013, Nhà nước đã quy định một cách
rõ ràng các nguyên tắc hỗ trợ khi NNTHĐ: cụ thể Khoản 1 Điều 83 Luật Đất đai
2013 quy định;
" . Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
a, Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngời việc được bồi thường
theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;
b, Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và
đúng quy định của pháp luật".

20



Thứ nhất, cũng giống như ở bồi thường, khi NNTHĐ của người dân ngoài
việc phải bồi thường lại phần của họ bị mất còn phải hỗ trợ cho người dân để họ
sớm khắc phục tình hình, nhanh chóng ổn định đời sống. Nguyên tắc này hoàn toàn
phù hợp và sự quan tâm của Nhà nước với người dân bị mất đất. Tại khoản 2 Điều
83 Luật này cũng quy định các khoản hỗ trợ khi NNTHĐ như: hỗ trợ ổn định đời
sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với
trường hợp THĐ nơng nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp; THĐ ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di
chuyển chỗ ở; hỗ trợ TĐC đối với trường hợp THĐ ở của hộ gia đình, cá nhân,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; và các hỗ trợ khác
Thứ hai, một trong các hình thức hỗ trợ là hỗ trợ về chỗ ở, TĐC.
Nhằm khắc phục tình trạng một số khu vực TĐC chất lượng cịn thấp, khơng đồng
bộ về cơ sở hạ tầng, chưa đảm bảo tiêu chí có điều kiện phát triển bằng hoặc tố hơn
nơi ở cũ. Nhiều địa phương chưa lập khu TĐC chung cho các dự án tại địa bàn nên
nhiều dự án chưa có khu TĐC đã thực hiện THĐ ở, thậm chí có những dự án mà
người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn chưa được bố trí
vào khu TĐC, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về lập và thực hiện dự án TĐC,
bố trí TĐC cho người bị THĐ ở mà phải di chuyển chỗ ở.
Thứ ba, tính dân chủ, cơng bằng, kịp thời, cơng khai và đúng quy định của
pháp luật. Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường cũng như hỗ trợ khi NNTHĐ đều đề
cập tới tính bảo đảm khách quan, cơng bằng, kịp thời, công khai minh bạch, dân
chủ, đúng pháp luật. Đây là một đòi hỏi khách quan trong quá trình thực thi các quy
định của pháp luật về bồi thường hỗ trợ TĐC khi NNTHĐ, vừa là cơ chế để kiểm
soát hoạt động này. Bởi tất cả nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục…bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ đều do pháp luật quy định [18].
1.2.3. Nội dung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất ở
Một là: điều kiện, đối tượng bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở.


21


×