Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

(TIỂU LUẬN) thảo luận nhóm TMU PHÂN TÍCH cơ sở lý LUẬN HÌNH THÀNH tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH CHỈ RA TIỀN đề lý LUẬN GIỮ VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH TRONG VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.12 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH
----------

HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN: : PHÂN TÍCH CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. CHỈ RA TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN GIỮ VAI TRỊ
QUYẾT ĐỊNH TRONG VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH.

Giáo viên hướng dẫn

: NGƠ THỊ MINH NGUYỆT

Mã LHP
: 2184HCMI0111
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 7

1

0

0


BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHĨM 7

STT

Họ và tên



Ý thức

Cơng việc

1

Phan Thị Tâm

Tốt

Mở đầu, Kết
luận, Vận dụng

2

Nông Thị Xuân
Thương

Tốt

Chủ nghĩa
Mác-Lênin

3

Nguyễn Thị Kim
Thanh

Tốt


Tinh hoa văn
hóa Phương Tây

4

Đỗ Thị Thảo

Tốt

Giá trị cốt lõi
của dân tộc Việt
Nam

5

Lê Thị Thảo

Tốt

Tinh hoa văn
hóa Phương Đơng

6

Lưu Thị Thu Hằng

Tốt

Làm PPT


7

Hồng Đức Tâm
(nhóm trưởng)

Tốt

Tổng hợp word

8

Nguyễn Phương Thảo

Tốt

Tiền đề lý luận
giữ vai trò quyết
định

9

Nguyễn Thị Phương
Thảo

Tốt

Làm đề cương
đề tài phụ


10

Phạm Thị Phương
Thảo

Tốt

Thuyết trình.

Nhận xét

2

0

0


Contents
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................5
PHẦN 2: NỘI DUNG...............................................................................................6
I. Cơ sở lý luận..........................................................................................................6
1 Giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam...................................................................6
1.1 Tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh kiên cường,bất khuất để dựng nước
và giữ nước:.........................................................................................................6
1.2

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời.........7

1.3 Dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham

học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại....................8
1.4
2

Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết,tương thân,tương ái............8

Tinh hoa của nhân loại...................................................................................9
2.1

Tinh hoa văn hóa Phương Đơng:...............................................................9

2.1.1

Nho giáo..................................................................................................9

2.1.2 Phật giáo...................................................................................................11
2.1.3 Lão giáo....................................................................................................13
2.2
3

Tinh hoa văn hóa phương Tây.....................................................................13
Chủ nghĩa Mác-Lênin...................................................................................14

II Tiền đề lý luận giữ vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh................................................................................................16
1 Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận
thức và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh.................................................17
2 Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã trờ thành ngươi cộng sản với
tầm vóc trí tuệ lớn.................................................................................................17
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung,

phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới............18
PHẦN 3: KẾT LUẬN............................................................................................20

3

0

0


PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta, con người Việt Nam đang được sống dưới mái nhà bình yên, được
độc lập tự do, từ đâu mà chúng ta có được điều đó? Đó chính là nhờ cơng lao to lớn
của chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta, Người đã vạch
ra con đường cứu nước đúng đắn, Người không chỉ khai thơng bể tắc trong đường
lối giải phóng dân tộc mà còn giải quyết đúng đắn , sáng tạo và lãnh đạo thực hiện
thắng lợi các vấn đề trong yếu nhất của cách mạng nước ta, chính đường lối cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người đã tạo nên sức mạnh
tổng hợp và phát huy tác dụng, đưa tới những thắng lợi rực rỡ của cách mạng nước
ta. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Người đã để lại cho chúng ta và các thể hệ
mai sau một di sản tinh thần vô giá, đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đến nay vẫn ln là ánh sáng soi sáng con đường phát
triển của dân tộc Việt Nam, là kim chi nam cho mọi hành động của Đảng và nhân
dân ta. Để thấy rõ hơn, hiểu sâu sắc hơn, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh thì ta
nên có sự hiểu biết rõ về các cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó
nắm được tiền đề lý luận quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh.

4


0

0


PHẦN 2: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1 Giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam
Là quốc gia nằm ở phía Đơng, thuộc bán đảo Đơng Dương, khu vực Đơng Nam
Á, châu Á; có diện tích 331.698 km2, bao gồm khoảng 327.480 km2 đất liền và
4.500 km2 biển nội thủy... Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới và một phần xích
đạo nên có những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông
nghiệp; là nơi giao thoa của nhiều nền văn minh trên thế giới, điển hình là văn minh
Trung Quốc và Ấn Độ với cốt lõi là hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo. Quy mô dân số
gần 92,5 triệu người (năm 2016), đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực
Đông Nam Á, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, gồm 54 dân tộc, trong đó, dân tộc
Kinh (Việt) chiếm đa số, 53 dân tộc còn lại là các dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc đều
có những nét văn hóa riêng mang đậm bản sắc địa phương, nhưng 54 dân tộc anh
em cùng gắn bó chặt chẽ với nhau trong vận mệnh chung của cuộc đấu tranh, hòa
hợp lâu dài, lấy tộc người Việt làm trung tâm. Điều này đã tạo nên văn hóa dân tộc
Việt Nam thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa của các dân tộc với những
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp.
1.1
Tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh kiên cường,bất khuất để dựng
nước và giữ nước:
Đây là một trong những tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Hồ Chí Minh
lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam đã có q trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu sắc
như: yêu nước gắn liền với yêu quê hương, yêu con người Việt Nam, yêu truyền

thống văn hóa quý giá. Thời kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung quân ái
quốc, lợi ích giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động trong sự
nghiệp chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước đối
với Người là gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lịng thương u nhân dân và
nhân loại của Người khơng bao giờ thay đổi…Người có một ham muốn tột bậc là
làm sao nước ta được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Người
đã nêu ra chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân” và phát triển những nội dung
mới của chủ nghĩa yêu nước. Đó là yêu nước dựa trên quan điểm giai cấp cơng
nhân, u nước mở rộng ra thành tình u vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao
5

0

0


động, những người cùng khổ, đối với giai cấp công nhân các nước trên thế giới.
Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp công nhân, Người đã nêu ra nội dung mới: Yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân gắn liền với u chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội thì
nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm.

1.2

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời.

Đây là giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc được sinh dưỡng trong chính đau thương,
mất mát qua các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống lam lũ hàng ngày từ
nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước của dân tộc Việt Nam. Điều dễ nhận thấy
về biểu hiện lòng nhân ái của dân tộc ta được bắt nguồn từ một chữ “tình” - Trong

gia đình đó là tình cảm đối với đấng sinh thành “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, tình anh em “như thể tay chân”, tình nghĩa vợ
chồng “đầu gối, tay ấp”; rộng hơn là tình làng xóm láng giềng và bao trùm hơn cả là
tình yêu thương đồng loại “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước
phải thương nhau cùng”… Lòng yêu thương và sống có nghĩa tình cịn được biểu
hiện trong sự tương trợ, giúp đỡ nhau; sự khoan dung, vị tha dành cho cả những
người đã từng lầm đường lạc lối biết lấy công chuộc tội. Không chỉ biểu hiện trong
đời sống hàng ngày, tình yêu thương, sự khoan dung, độ lượng với con người của
dân tộc Việt Nam còn được nâng lên thành những chuẩn tắc trong các bộ luật của
Nhà nước; đồng thời là cơ sở của tinh thần yêu chuộng hồ bình và tình hữu nghị
với các dân tộc trên thế giới. Trong lịch sử, nhân dân ta luôn đề cao và coi trọng việc
giữ tình hồ hiếu với các nước, tận dụng mọi cơ hội có thể để giải quyết hồ bình
các xung đột, cho dù ngun nhân từ phía kẻ thù ... Ngày nay, truyền thống nhân
nghĩa đó khơng bị mai một hay mất đi, ngược lại tiếp tục được khẳng định và củng
cố khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện đường lối nhất quán “Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc
lập và phát triển”. Ý thức đầu tiên về sự cố kết cộng đồng của người Việt Nam đã
được dân gian thần thánh hóa bằng thiên truyền thuyết đẹp với hình ảnh “bọc trăm
trứng” để lý giải cùng chung nguồn cội con cháu Rồng Tiên - Truyền thuyết Lạc
Long Quân và u Cơ. Trải qua thực tiễn trong cuộc sống lao động cũng như chiến
đấu, tinh thần đoàn kết dân tộc bền chặt càng được đề cao và đã trở thành một triết
lý nhân sinh sâu sắc “Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết/Thành cơng, thành cơng, đại
thành cơng”. Trong 86 năm qua kể từ khi có Đảng lãnh đạo, thực tiễn cách mạng
Việt Nam thêm một lần nữa đã thể hiện sức sống kỳ diệu và chứng minh chân lý
đúng đắn về sức mạnh vĩ đại của tinh thần đại đồn kết dân tộc. Sức mạnh đó chính
là mạch nguồn của các thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám (1945), kháng chiến
chống Pháp (1946 - 1954) và chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)... Trong bối cảnh
6

0


0


hội nhập quốc tế, tinh thần đoàn kết dân tộc càng có ý nghĩa hơn đối với sự nghiệp
đổi mới đất nước, do đó tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam luôn được Đảng ta nhấn mạnh “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế… phát huy cao độ nội lực, đồng
thời phải tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”. Như
vậy, biểu hiện về tinh thần đại đoàn kết cộng đồng đã trở thành một truyền thống tốt
đẹp, có giá trị lý luận và thực tiễn cách mạng sâu sắc. Phát huy đại đoàn kết dân tộc
là đồn kết rộng rãi và lâu dài, đó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam “Một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta”.
1.3
Dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo,
ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Người việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hịi, thủ cựu, thói bài ngoại
cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc,
tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng
của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa
tinh thần cộng đồng, một lối sống thành thực, thân ái, những thuần phong mỹ tục,
trở thành những yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra
quyết liệt, người đã nói đến đời sống mới của một người, một nhà, một làng và khắp
cả nước. Xoay quanh hạt nhân của đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí
Minh đã nói đến thuần phong mỹ tục, khơng có cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm
cắp.Người nhắc đến tục ngữ “lá lành đùm lá rách”, “đói cho sạch rách cho thơm”.
Và, nếu một mình no ấm mà nỡ để đồng bào xung quanh đói rét…, thì dù giàu cũng
khơng hưởng được. Người nói: Cách cư xử đối với đồng bào thì nên thành thực,
thân ái, sẵn lịng giúp đỡ…Nhiều lần, Người nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát

triển thuần phong mỹ tục, tức là phát triển một trong những giá trị truyền thống. Mặt
khác, khi trân trọng giữ gìn thuần phong mỹ tục, Hồ Chí Minh ln gắn với việc phê
phán, bài trừ đồi phong, bại tục.
Người đã nói đến việc “khơi phục vốn cũ” với một tinh thần trân trọng các giá
trị của người xưa để lại như: tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với
dân…Song, Người u cầu xóa bỏ cái xấu (tính lười biếng, tham lam…), sửa đổi
các phiền phức (cúng bái, cưới hỏi quá xa xỉ…).

7

0

0


1.4

Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết,tương thân,tương ái

Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống
đoàn kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình
thành một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hồn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết
liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm.
Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm. Hồ Chí Minh đã
kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng
minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã từ lâu sống với nhau có tình có
nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng
bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý luận
Mác-Lênin-đỉnh cao của trí tuệ nhân loại-cũng phải trên nền tảng của giá trị truyền
thống. Người nhấn mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình,

có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống khơng có tình nghĩa thì sao gọi là
hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là
phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con người, là cứu
nước, độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển.
Trong văn hóa đạo đức Việt Nam, chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ phải, ngay thẳng.
Nguyễn Trãi đã từng nói: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên
“công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”, Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa để phân rõ bạn
thù. Ai làm điều gì có lợi cho nhân dân, cho Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều
gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc đều là kẻ thù.

2
2.1

Tinh hoa của nhân loại
Tinh hoa văn hóa Phương Đơng:
2.1.1
Nho giáo

Nho giáo ảnh hưởng nhiều nhất đến tư tưởng Hồ Chí Minh vì:

- Bác là con một vị đại Nho: Nguyễn Sinh Sắc, Bác sinh ra và lớn lên trong một
gia đình có truyền thống Nho học và một vùng đất mà dù đã có cành Hán học suy
tan trước sự tấn công của văn hóa phương Tây, nhưng nền Nho học vẫn được bảo
tồn và không bị lép vế so với Tây học.
- Bác sinh ra ở Nghệ An, một vùng đất hiếu học, đề cao truyền thống bất khuất
anh dũng chống giặc ngoại xâm, cần cù, chăm chỉ, không ngại gian khổ, truyền
thống hiếu học.
- Lúc nhỏ Bác đã học cùng những nhà Nho yêu nước khác tinh thần yêu nước.
8


0

0


- Tuổi thơ của Bác là ở kinh thành Huế, kinh đô triều Nguyễn (khu ngự trị của
nhà Nguyễn sùng Nho giáo)
- Qua quá trình tự học của Bác, tiếp xúc, đọc sách của Khổng Tử.
-Nho giáo là hay còn được gọi là đạo Nho hoặc đạo Khổng, là một hệ thống đạo
đức, triết học xã hội, giáo dục, chính trị do Khổng Tử thành lập và được các đệ tử
của ơng trên khắp nơi phát triển với mục đích tạo dựng một xã hội tốt đẹp với
những con người có đạo đức và lễ nghi chuẩn mực từ đó tạo thành nền móng vững
chắc để phát triển đất nước. Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế trở thành hệ tư
tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm.
Từ thế kỷ thứ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác
như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Nho giáo xuất phát từ Khổng Tử, ơng vốn là một người Trung Quốc vì vậy
chúng ta có thể kết luận Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Hoa hay cịn gọi là Trung
Quốc.


Tính tích cực của Nho giáo:

- Điểm ảnh hưởng tích cực đầu tiên của Nho giáo đến đất nước chúng ta không
thể không nói đến đó chính là kho tàng văn học đồ sộ như ngày nay. Rất nhiều
những nha văn, nhà thơ trong lịch sử đất nước chúng ta đều là các Nho sĩ sống và
suy nghĩ theo những quan điểm của Nho giáo cùng với sự chiêm nghiệm của bản
thân mà đã cho ra đời không biết bao nhiêu tác phẩm mang tính thời đại.
- Thứ Hai, Nho giáo đã giúp xây dựng xã hội, thiết lập các mối quan hệ trong
các triều đại phong kiến khiến cho nó có thể phát triển rộng rãi. Nho giáo đã dạy

cho con người thời đại đó tinh thần yêu nước cũng như những lễ nghi, chuẩn mực
đạo đức xã hội là nền móng cho việc phát triển những triều đại phong kiến vĩ đại
trong lịch sử đất nước ta.
-Thứ Ba, Nho giáo đã tạo ra ở Việt Nam hệ thống giáo dục rõ ràng với nhiều cấp
bậc giúp đất nước tuyển được nhiều nhân tài góp phần xây dựng và phát triển.


Tính tiêu cực của Nho giáo:

- Không đề cao giá trị người phụ nữ
- Tiếp theo tuy tạo ra khơng ít những người tài giỏi cho đất nước những với lối
giáo dục lấy văn chương làm chủ yếu mà coi nhẹ các lĩnh vực khác trong đời sống
cũng khiến cho khơng ít những nhân tài trong nhiều lĩnh vực bị bỏ phí không được
phát triển.
9

0

0


- Nho giáo cũng tạo nên sự trung thành mù quáng của những đại thần, nho sĩ của
một triều đại đã suy tàn đứng lên chống lại triều đại mới khiến cho cảnh nội chiến
là dân chúng lầm vào cảnh chết chóc, đói khổ.
- Tư tưởng của Nho giáo đã quá đề cao danh vọng. Điều tốt có chỗ tốt là giúp
cho con người biết phấn đấu, tranh giành địa vị nhưng lại khiến cho con người mù
quáng chạy theo danh vọng mà quên mất luân thường đạo lý.


Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh:


Hồ Chí Minh đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù, mệnh đề, có giá trị và sức
sống của Nho giáo, đồng thời đã bổ sung, phát triển những nội dung mới, phù hợp
với thời đại. Hồ Chí Minh phân tích: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong
học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng song những điều hay trong đó
thì chúng ta nên học. Hồ Chí Minh đã khai thác mặt tích cực của Nho giáo như
Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm...Việc Hồ Chí Minh cải tạo các phạm trù của Nho
giáo thể hiện rõ nhất ở hai phạm trù Trung và Hiếu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức,
ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức
cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”. Ở Hồ
Chí Minh, nếu chữ Trung mang một nội hàm hoàn toàn mới, từ Trung với vua trở
thành Trung với nước, thì chữ Hiếu lại được mở rộng trên cơ sở phổ quát hoá đạo
đức cá nhân, trong đó gốc của Hiếu với Dân phải là Hiếu với cha mẹ
Những mệnh đề tư tưởng của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng nhiều lần
như: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”; “Phú quý bất năng dâm; Bần tiện
bất năng di; Uy vũ bất năng khuất”, “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi
lạc nhi lạc”, v.v..
Những mệnh đề trên được Hồ Chí Minh tiếp thu, và trong nhiều trường hợp,
được Hồ Chí Minh khẳng định chính là những phẩm chất của những người cách
mạng, những người cộng sản trong thời đại mới. Điều đó cho thấy, trong quan
niệm của Hồ Chí Minh, mặt giá trị, tính thời đại của Nho giáo là rất lớn.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành một số nguyên tắc tư duy của Nho giáo.
Phương pháp tư duy biện chứng của Nho giáo (của Khổng Tử, Mạnh Tử, và đặc
biệt là Kinh Dịch) thể hiện rất đậm nét ở Hồ Chí Minh. Phương pháp tư duy triết
học - chính trị của Nho giáo với các nguyên tắc: Coi trọng tính chủ thể của con
người; coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức, coi đức là gốc; từ cải tạo;
tự cải tạo con người đi đến cải tạo xã hội, v.v..cũng được Hồ Chí Minh kế thừa, sử
dụng một cách nhuần nhuyễn trong tư duy, trong thực tiễn cách mạng. Có thể dẫn
ra một số luận điểm của Hồ Chí Minh để chứng minh cho nhận định trên: “Muôn
10


0

0


việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”; “Khổng Tử nói: “Mình
phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị
quốc bình thiên hạ” được. Trị quốc bình thiên hạ đây tức là ta kháng chiến đánh
Pháp, kiến quốc xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình thế giới. Muốn cải tạo
xã hội thì lịng mình phải cải tạo. Nếu lịng mình khơng cải tạo thì đừng nói đến cải
tạo xã hội. Lịng mình cịn tham ơ, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”...
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành triết lý sống của các bậc đại Nho với các
nguyên tắc tư nhân, nhập thế, tự nhiệm, dĩ thân vi giáo, v.v... Có thể dẫn ra một số
thí dụ. Hồ Chí Minh nói: “Một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền”. Người nói như vậy và luôn thực hành nguyên tắc này,
chẳng hạn việc Hồ Chí Minh ln nghiêm khắc thực hiện ngun tắc “tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách”
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo phải trên cơ sở quán triệt quan
điểm duy vật biện chứng về lịch sử, phải trên quan điểm với thái độ trân trọng, kế
thừa, phát triển có chọn lọc, khoan dung trong xem xét, đánh giá, ứng xử với các
hệ thống tư tưởng khác nhau. Khơng tuyệt đối hố, khơng “độc quyền tư tưởng”,
thì mới có thể chấp nhận những cái khác khác biệt để trân trọng và tiếp biến. Kế
thừa, đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lý xã hội và phát triển quan
niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó cơng bằng, bác
ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại
đồng với hịa bình, khơng có chiến tranh, các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp
tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo
đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người; trong
công tác xây dựng Đảng về đạo đức.

2.1.2 Phật giáo
- Phật giáo là một tơn giáo rất cổ, có từ lâu đời, kể từ lúc nhân loại hình thành nếp
sống quần tụ thành xã hội. Cách đây khoảng 2600 năm,Tất Đạt Đa Cồ Đàm ra đời ở
nước Ấn Độ, tu hành chuyên nhất trong hơn 6 năm, đắc đạo thành Phật. Chứng ngộ
được giáo lý Tứ Diệu Đế, giúp con người giải khổ, và giải thốt khỏi vịng Ln hồi
sinh tử, mở ra một con đường mới thích hợp với trình độ tiến hóa của nhân sinh thời
đó, vì Đạo Bà-La-Môn lúc bấy giờ rất suy tàn, giáo lý bị sửa cải nhiều làm cho xã
hội Ấn Độ có những bất bình đẳng trầm trọng, khiến con người xa vịng Thiên
lương, trầm luân trong bể khổ. Tất Đạt Đa Cồ Đàm đem giáo lý mà Ngài chứng ngộ
được giảng giải cho chúng sinh trong suốt 45 năm, tạo thành một nền Phật giáo rất
cao siêu, làm Giáo Chủ. Phật giáo lưu truyền từ đó đến ngày nay.
11

0

0


- Phật giáo được vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ II trước công
nguyên. Do tiếp thu P trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên
âm trực tiếp thành Bụt được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt
Nam lúc ấy mang của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp
người tốt, trứng xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ IV-V, do ảnh hưởng của Đại thừa đến
từ Trung Qu Bụt bị mất đi và được thay thế bởi từ Phật. Trong tiếng Hán, từ Buddha
được p thành Phật đà, Phật đồ rồi được rút gọn thành Phật. Đến đời nhà Lý, nhà
Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là có ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề
trong cuộc sống. Sang đến đời Hậu Lê rất Nguy thì Phật Giáo phải nhường bước cho
Nho giáo, lúc ấy đang chiếm vai trị độc tơn. Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời
vua Tự Đức thì mất chủ quyền, nư vào vịng đơ hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam
vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơ bối cảnh đó, Kitơ giáo đã du nhập vào Việt Nam và

dân tộc Việt Nam lại t thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy tinh thần khai
phóng dung hợp Giáo suốt mấy thế kỷ qua khơng cịn được thể hiện trong chính
sách quốc gia, văn xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo vẫn là tơn giáo chính của
dân tộc, đóng và giải giữa các thế lực tranh chấp, góp phần xây dựng tinh thần dân
tộc, bảo vệ nền của quốc gia.


Tính tích cực của Phật giáo:

- Giá trị nhân bản thể hiện trong thuyết “Duyên sinh vô ngã” và những quan điểm
về con người. Giá trị nhân bản của Phật giáo là một giá trị lớn trong số những giá trị
của nó. Giá trị này được thể hiện rõ trong Nhân bản luận của Phật giáo với thuyết
“Duyên sinh vô ngã”. Đây không phải là giá trị tư tưởng mà còn là giá trị văn hóa,
tơn giáo tích cực trong xã hội. Qua q trình phát triển, Phật giáo bảo tồn những giá
trị căn bản của phật giáo Nguyên thủy đồng thời không ngừng bổ sung và hoàn thiện
qua các luận tạng. Thể hiện sự phát triển từ Giáo lý Tiểu thừa đến khuynh hướng
Đại thừa hiện đại hóa ngay trong nội bộ Phật giáo.
- Giá trị nhân bản của Phật giáo là độc đáo hơn so với Phương Tây và các hệ tư
duy khác. Với Phật giáo, con người chỉ có được hạnh phúc khi thốt khỏi nã bằng
giác ngộ Vơ ngã. Phật giáo chỉ ra con đường tu dưỡng Bát Chính Đạo là sự kết hợp
của tam pháp tu trên cơ sở phối hợp ba phương diện: đạo đức- thực hành thiền- trí
tuệ.


Mặt hạn chế của Phật giáo:

- Thiền Phật giáo khơng thể trực tiếp mở rộng sang các lĩnh vực khoa học tự
nhiên và kỹ thuật hiện đại.

12


0

0


- Phật giáo không thấy được sự hồi sinh của con người thông qua các hoạt động
thực tiễn và sáng tạo khoa học đây là hạn chế trong thiện, tốt và khơng phân biệt
đảng cấp.
- Tính ích kỷ trong phật giáo Tiểu thừa với chủ trương cứu rỗi các thể. Tuy nhiên
hạn chế nhanh chóng khắc phục với sự xuất hiện của phật giáo Đại Thừa. Hạn chế
lớn nhất là chưa giải thích đúng đắn các bản chất của các hiện tượng xã hội, chưa
tìm ra ngun nhân đích thực nỗi khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Chưa chỉ ra biện
pháp cải tạo xã hội một cách đúng đắn có hiệu quả để xóa bỏ tận gốc rễ đau khổ và
bát công trong xã hội đương thời.


Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh:

Lịng u thương con người, quên mình vì mọi người: Trong giáo lý đạo Phật, “từ
bi” là ước vọng mãnh liệt nhổ tận gốc rễ tất cả khổ đau và giải thoát cho con người
thoát khỏi đau khổ mà họ phải gánh chịu trong cuộc sống, để con người và cả thế
giới được an vui. “Bác ái” là lòng thương yêu hết thảy mọi người, mọi loài. “Vị tha”
hiểu theo nghĩa rộng là khơng chỉ "vì người khác", mà cịn phụng sự nhân sinh vì
tình yêu lớn với nhân loại. Trải qua nhiều năm bơn ba thế giới, Người đã tìm ra con
đường đúng đắn lãnh đạo nhân dân đấu tranh, giải phóng dân tộc, bước lên đài vinh
quang, là con đường cách mạng vơ sản. Người khẳng định: “Tơi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
Với Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời khơng có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích

cho nhân dân”, “việc gì có lợi cho nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân
phải hết sức tránh”. Triết lý đó đã giúp Người vượt qua “tự ngã”, khơng chỉ là tình
thương cho dân tộc mà trải rộng tình thương cho tồn nhân loại. Khi trực tiếp lãnh
đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Người ln nghĩ cách sao để ít đổ máu hy
sinh nhất, kể cả ta và địch. Người đã vận động mọi thế lực chính trị, quân sự trên thế
giới hãy vì hịa bình, hợp tác đẩy lùi chiến tranh; khơng muốn những người lính,
người dân vơ tội phải chết vì mục đích ích kỷ, phi nghĩa.
Ln tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức của con người: Hồ Chí Minh
khẳng định, đạo đức là gốc của người cách mạng; để làm cách mạng, mỗi cán bộ,
đảng viên phải luôn nêu gương trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức theo các tiêu chí:
Cần (là cần cù, chăm chỉ, siêng năng), kiệm (là tiết kiệm tiền của, thời gian, công
sức), liêm (là liêm khiết, thanh liêm, không tham địa vị, tiền tài), chính (là ngay
thẳng, cơng minh, chính trực), chí cơng vơ tư. Theo Người, “chí cơng vơ tư” nghĩa
là người cán bộ, đảng viên phải hồn tồn vì nhân dân, vì đất nước, khơng vì cá
nhân mình; phải trung với nước, hiếu với dân, điều này tương đồng với “hạnh vô
13

0

0


ngã vị tha” của đạo Phật. Người viết: “Chính nghĩa là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn,
đứng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn, tức là tà”; cần, kiệm, liêm là gốc rễ
của chính. Thực hiện tốt đức “chính” là cơ sở để xây dựng xã hội dân chủ, văn
minh, phát triển. Các đức tính đó là đạo đức cách mạng, đối lập với đạo đức cách
mạng là chủ nghĩa cá nhân; do đó, nâng cao đạo đức cách mạng không thể tách rời
chống chủ nghĩa cá nhân.
Luôn gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân: Trong giáo lý Phật, tự giác là
đức hạnh nền tảng của người tu hành; phải tự giác nghiên cứu kinh pháp để áp dụng

vào đời sống, thực hành “từ bi, hỷ xả” nhằm mang lại hạnh phúc cho con người.
“Nói đi đơi với làm” là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và thực
tế Người cũng ln là tấm gương sống gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Người nhắc nhở: “Nói cái gì phải cho tin, nói và làm cho nhất trí, làm thế nào cho
dân tin”; muốn thực hiện được điều đó thì mỗi cán bộ phải tự giác tiên phong đi
trước, làm trước.
2.1.2 Lão giáo
Đối với Lão giáo (hoặc Đạo giáo), Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư
tưởng của Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với
thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ mơi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân
dân ta trồng cây, tổ chức "Tết trồng cây" để bảo vệ mơi trường sinh thái cho chính
cuộc sống của con người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thốt mọi
ràng buộc của vịng danh lợi trong Lão giáo. Người khun cán bộ, đảng viên ít
lịng tham muốn về vật chất; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; hành
động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội, khơng
chỉ vì mục đích cá nhân mà phải sống có trách nhiệm với cộng đồng. Thái độ khiêm
nhường, lối sống giản dị, Người sống ở một ngôi nhà sàn nhỏ bằng gỗ, ln thấu
hiểu, đồng cảm với những khó khăn của nhân dân.
Là một nhà cách mạng, Hồ Chí Minh luôn lạc quan, yêu đời, thư thái. Thái độ
khiêm nhường. Trong suốt cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh ln day dứt với suy
nghĩ chưa làm trịn nghĩa vụ cách mạng với dân, với Nước vì vậy mà Người từ bỏ
mọi danh hiệu, phần thưởng mà Đảng và Nhà nước trao tặng, Người chờ đến ngày
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hịa bình, thống nhất đất nước.
Hồ Chí Minh cịn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của các trường phái
khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác như Mặc Tử, Hàn Phi
Tử, Quản Tử, v,v...Và, Hồ Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu những trào lưu tư tưởng
tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Gandhi, chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo các quan điểm về
14


0

0


dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản
thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của con người và dân tộc
Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Là nhà macxit sáng tạo, Hồ Chí Minh
đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng, văn hóa phương Đơng để
giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời hiện đại.
2.2

Tinh hoa văn hóa phương Tây

- Hồ Chí Minh tiếp cận văn hóa phương Tây khá sớm và trên hành trình tìm
đường giải phóng dân tộc, Bác đã tiếp thu những giá trị tích cực, tiến bộ của văn
minh phương Tây.
+ Bác kể rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp:
Tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thuở ấy, tơi rất muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”
- Bác đã thừa kế và phát triển những quan điểm:
+ Tư tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của
nhân quyền, dân quyền của Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ.
+ Tư tưởng tự do, bình đẳng, tiếp thu lý tưởng nhân quyền, dân quyền và pháp
quyền của các nhà Khai sáng Pháp và vận dụng nó vào cuộc đấu tranh, phê phán chế
độ thực dân, đòi các quyền ấy cho các dân tộc thuộc địa của Tuyên ngôn nhân quyền
dân quyền năm 1791 của Pháp.
- Hồ Chí Minh Nghiên cứu văn hóa nhân loại tại những trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa lớn ở các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Nga…:
+ Nguyễn Ái Quốc thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt ở Câu lạc bộ

Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô. Chính ở đây Nguyễn Ái Quốc đã làm quen với những
nhân vật nổi danh như chính trị gia Léon Blum (sau này là Thủ tướng Pháp), nhà
văn Vaillant Couturier, giáo sư Marcel Cachin, nghị viên Mac Saugnier, nữ văn hào
Colette... thảo luận về mọi vấn đề, từ thiên văn, địa lý, chính trị, văn học cho đến
cách trồng cải xoong và nuôi ốc sên, cả những vấn đề thôi miên, bản năng, siêu
hình, phụ đồng, mộng mị, về sự chết, thuyết luân hồi...
+ Paris, thủ đô của nước Pháp, là trung tâm văn hóa - nghệ thuật của châu Âu.
Các trào lưu triết học và các trường phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều
được hình thành và ra mắt tại đây. Bác có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm
lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ
của nước Pháp. Người chỉ làm việc vào buổi sáng để kiếm tiền sinh sống, còn buổi
15

0

0


chiều Người dành để đi đến thư viện hoặc đến dự những buổi nói chuyện chính trị,
buổi tối thì đi mít-tinh.
3

Chủ nghĩa Mác-Lênin

+ Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta: Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ
Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng
của học thuyết này. Từ đó, trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người
khơng những đã vận dụng sáng tạo, mà cịn bổ sung, phát triển và làm phong phú
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới để giải quyết thành

công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
+ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa
Mác - Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng
Hồ Chí Minh. Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ và
sáng tạo ở Người khi vận dụng những lý luận cách mạng của thời đại vào hồn cảnh
ở Việt Nam. Điều đó khiến Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản với tầm vóc trí
tuệ lớn, vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước cùng thời
+ Dưới ánh sáng tấm gương cách mạng tháng 10 Nga và Luận cương của Lê Nin,
Người đã rút ra kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vơ sản. Đó là con đường cách mạng dân chủ
tư sản kiểu mới do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ
đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, sau đó tiến lên làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng Sản. Chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
giai cấp cơng nhân trên tồn thế giới. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập
dân tọc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm đi tới mục
tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.”
+ Cụ thể, cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định rằng:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.
+ Quyết định bước chuyển từ chủ nghĩa yêu nước đến tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn, một chiến
sĩ cách mạng nhiệt thành; thương yêu với những người cùng khổ; sẵn sàng hy sinh
vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào. Với sự vận dụng và phát
16

0

0



triển sáng tạo mà Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự phát triển lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, Người đã cùng với Đảng đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề về
chiến lược cũng như sách lược, giải quyết được cuộc khủng hoảng đường lối cứu
nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dẫn
đến các thắng lợi lịch sử điển hình là cách mạng tháng Tám. Người kết luận rằng
việc giành được những kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước hết là
nhờ cái vũ khí khơng gì thay thế được là chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí
Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng đắn. Từ chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đều có những luận điểm bổ sung để phát triển, sáng
tạo, quán triệt trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; chủ nghĩa
xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam… Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
bước nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
II Tiền đề lý luận giữ vai trị quyết định trong việc hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, cùng với những hoạt động sát
cánh với các tầng lớp cơng nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa, là tiền đề
có tính quyết định việc Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc
tế III) và thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ
XVIII tổ chức ở thành phố Tours, tháng 12/1920. Từ đây, Người chính thức trở
thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong hành
trình tìm đường cứu nước của Người, đánh dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy
vọt, thay đổi về chất trong nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Người.


Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam; kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Từ khái niệm đã chỉ ra rõ bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là hệ thống toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
17

0

0


Việt Nam, đó là việc xác định con đường cách mạng Việt Nam đó là con đường cách
mạng vơ sản, mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đó là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
giải phóng nhân dân lao động trên tồn thế giới, lực lượng cách mạng là toàn thể
nhan dân Việt Nam yêu nước, giai cấp lịng cốt là giai cấp cơng nhân, Đảng Cộng
Sản chính là lực lượng lãnh đạo; xây dựng con người Việt Nam có năng lực và đạo
đức cách mạng, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở
quan hệ quốc tế hịa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển… Tư tưởng Hồ Chí
Minh có giá trị thực tiễn rất to lớn không những với cách mạng Việt Nam và cách
mạng giải phóng giai cấp trên tồn thế giới. Các lý luận trên là những sự tiếp thu và
chắt lọc từ chủ Nghĩa Mác-Lênin mà Người đã nghiên cứu và áp dụng sao cho phù
hợp với hồn cảnh đất nước mình. Người khảng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhấ là chủ nghĩa
Lênin”. Từ bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh ta thấy được
nó dựa trên nền tảng và phát triển từ Chủ nghĩa Mác-Lênin.

1 Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong
nhận thức và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác-Lênin là đỉnh cao tư duy nhân loại, và tư tưởng Hồ Chí Minh
thuộc hệ tư tưởng Mácxit. Người áp dụng tư duy về thới giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại để xây dựng lên hệ tư tưởng của riêng mình, mang tính thời
đại và giải quyết các vấn đề thời đại mà lúc đó chính là vấn đề giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh trong q trình hình thành tư tưởng, Người khơng
máy móc dập khn, khơng “phủ định sạch trơn” những tư tưởng cũ, mà Người tiếp
thu nó, kế thừa và phát triển nó theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện
chứng: khơng có sự vật, sự việc nào phát triển độc lập mà ln có sự tác động qua
lại giữa chúng, biết chắt lọc cái tốt và bài trừ cái xấu chính là con đường đưa đến sự
phát triển vượt bậc. Và từ sự học hỏi ấy Người đã đưa đến những quyết định hành
động cho cách mạng của Hồ Chí Minh, Người tìm ra con đường cứu nước chân
chính, đúng đắn nhất, con đường để đưa đất nước thốt khỏi ách đơ hộ và tiến tới
phát triển tồn diện đó là con đường cứu nước vơ sản và định hướng phát triển xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Tư tươnngr Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác-Lênin có quan
hệ khăng khít với nhau, nếu khơng có yếu tố “chủ nghĩa Mác-Lênin” thì khơng thể
có hệ “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Vì vậy Chủ nghĩa Mác-Lênin là tiền đề lý luận quan
trọng nhất, có vai trị quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

18

0

0


2 Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã trờ thành ngươi cộng sản
với tầm vóc trí tuệ lớn

Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận
thức và hành động cách mạng của Hồ Chí Minh
Như Lênin đã từng nói: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết
làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân
loại đã tạo ra”. Trong cuộc đời của Người, Người được sinh ra trong gia đình nho
giáo, giữa vùng đất địa linh nhân kiệt, theo cha đi khắp các miền đất, tiếp thu văn
hóa phương Đơng một cách chọn lọc, Người nói: “Học thuyết hổng Tử có ưu điểm
là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”, với Người yêu nước không phải trung quân ái
quốc mà trung với nước, hiếu với dân, tu dưỡng đạo đức chính là cần kiệm liêm
chính chí cơng vơ tư. Trở lại với cuộc đời của Bác, Người được thân sinh gửi đi học
ở trường học ở Vinh, lần đầu được tiếp xúc với văn hóa phương Tây, lần đầu tiếp
xúc với “Tự do, bình đẳng, bác ái”, từ đây tư tưởng yêu nước của Người thể hiện rõ
ràng hơn trong hành động và Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Có thể
nói con đường đi đến Chủ nghĩa Mác-Lênin của Người đầy khó khăn những cũng
gặt hái được rất nhiều vì Người đi qua rất nhiều quốc gia phương Tây, tiếp xúc với
nhiều nền văn hóa, tư tưởng, vốn tri thức của Người không chỉ dừng lại ở lý luận mà
còn là những kỹ năng nghề nghiệp, là sự hiểu biết nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới,
là lối sống mang tính khoa học, lý trí, đôi khi Người cũng thật thơ mộng với những
tập thơ của mình. Khi nói về Tơn giáo Giêsu, Người nói về lịng nhân ái cao cả và
đây chính là một điều tích cực trong tơn giáo mà con người cần rèn luyện để phát
triển toàn diện. Khi đã tiếp xúc và hiểu được Chủ nghĩa Mác-Lênin Người, phát
triển từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa Mác-Lênin, từ đây Người
với kho tri thức nhân loại không ngừng được chọn lọc và tiếp thu học hỏi chính thức
trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn, con đường mà Người tìm ra đã đưa
đất nước ta hồn tồn độc lập – tự do – hạnh phúc. Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lenin là
tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trị quyết định trong việc hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ
sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới
Cả Mác, Ăngghen, Lênin không bao giờ tự coi lý luận của các ông là “bất khả xâm

phạm”, là hệ thống khép kín, là chân lý tuyệt đích. Trái lại, các ơng ln địi hỏi những
người cộng sản phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản sao cho phù hợp với
điều kiện, hồn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa... của mỗi nước. Với chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phép biện chứng duy vật, chủ nghĩa duy vật lịch sử; thế giới quan gắn liền với
phương pháp luận khoa học, lý luận gắn liền với thực tiễn, hiện thực sống động chủ nghĩa
Mác -Lênin trở thành học thuyết của sự không ngừng đổi mới, sáng tạo và phát triển. Đó là
19

0

0


một trong những đặc trưng vốn có quyết định sức sống và sự sáng tạo không ngừng, sức
sống truờng tồn của chủ nghĩa Mác -Lênin.Chính vì vậy chủ nghĩa Mác, phát triển thành
chủ nghĩa Mác -Lênin; chủ nghĩa xã hội từ khoa học trở thành hiện thực thực tiễn sống
động; chủ nghĩa Mác -Lênin trở thành học thuyết phát triển, sáng tạo không ngừng, là đỉnh
cao tri thức, khoa học, văn hóa nhân loại. Tiếp thu tinh thần đó, Hồ Chí Minh căn dặn
chúng ta, học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác -Lênin khơng phải là thuộc lịng từng câu
chữ, mà là nắm lấy "tinh thần" và "phương pháp" để ứng xử với con người và công việc
cho đúng.
Tiến sĩ John Callow, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ và Tưởng niệm Karl Marx ở Luân
Đôn nhận xét: “Chủ nghĩa Mác là một hệ tư tưởng mà một trong những vẻ đẹp của nó là có
thể thay đổi phù hợp với hồn cảnh mà khơng hề cứng nhắc. Điều tuyệt vời của chủ nghĩa
Mác là nó có thể điều chỉnh linh hoạt những con người khác nhau trên khắp thế iới; họ có
thể suy nghĩ về những tư tưởng của Mác, thay đổi chúng, làm mới chúng, đơi khi cịn say
mê phát triển chúng cho hợp với chính hồn cảnh của mình và đất nước mình. Hồ Chí
Minh, theo tơi nghĩ, là một trong những người quan trọng nhất đã làm được việc đó”.
Đúng như quan điểm của V.I.Lênin về mối quan hệ biện chứng khi xem xét các sự vật,
hiện tượng trong mối hiện hệ lịch sử để có thể đưa ra những lý luận phù hợp với thời đại,

xã hội.
Nghiên cứu về sự thay đổi của tình hình cách mạng thế giới từ sau Cách mạng Tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng thuộc địa là không phải
là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản (như các nước tư bản), mà trước hết phải tiến
hành đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc; có độc lập dân tộc rồi, mới có điều kiện để
giải phóng giai cấp. Theo quan điểm của Người, giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết,
trước hết; giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Theo Người, trong mối quan hệ dân tộc - giai cấp, dân tộc là tổng thể,
giai cấp là một bộ phận. Do đó, quyền lợi của giai cấp, (tức là quyền lợi của bộ phận) phải
phục tùng quyền lợi của dân tộc (bộ phận phục tùng tổng thể). Ðó là những quan điểm lý
luận sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa.
Khi Quốc tế cộng sản xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, năm 1924, Hồ Chí
Minh khẳng định, cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vơ
sản ở chính quốc, mà có thể giành thắng lợi trước. Hơn nữa, yêu cầu bức thiết của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc khơng cho phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách
mạng vô sản ở châu Âu để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Ðây là một
quan điểm cách mạng sáng tạo của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối
với phong trào cách mạng thế giới. Ðặc biệt, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm cách
mạng của Hồ Chí Minh đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình vận
động cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở
Việt Nam, là một minh chứng khẳng định luận điểm của Hồ Chí Minh hồn tồn đúng đắn.
20

0

0


- Phật giáo không thấy được sự hồi sinh của con người thông qua các hoạt động
thực tiễn và sáng tạo khoa học đây là hạn chế trong thiện, tốt và khơng phân biệt

đảng cấp.

- Tính ích kỷ trong phật giáo Tiểu thừa với chủ trương cứu rỗi các thể. Tuy nhiên
hạn chế nhanh chóng khắc phục với sự xuất hiện của phật giáo Đại Thừa. Hạn chế
lớn nhất là chưa giải thích đúng đắn các bản chất của các hiện tượng xã hội, chưa
tìm ra ngun nhân đích thực nỗi khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Chưa chỉ ra biện
pháp cải tạo xã hội một cách đúng đắn có hiệu quả để xóa bỏ tận gốc rễ đau khổ và
bát công trong xã hội đương thời.


Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh:

Lịng u thương con người, quên mình vì mọi người: Trong giáo lý đạo Phật, “từ
bi” là ước vọng mãnh liệt nhổ tận gốc rễ tất cả khổ đau và giải thoát cho con người
thoát khỏi đau khổ mà họ phải gánh chịu trong cuộc sống, để con người và cả thế
giới được an vui. “Bác ái” là lòng thương yêu hết thảy mọi người, mọi loài. “Vị tha”
hiểu theo nghĩa rộng là khơng chỉ "vì người khác", mà cịn phụng sự nhân sinh vì
tình yêu lớn với nhân loại. Trải qua nhiều năm bơn ba thế giới, Người đã tìm ra con
đường đúng đắn lãnh đạo nhân dân
đấu tranh, giải phóng dân tộc, bước lên đài vinh
0
0
quang, là con đường cách mạng vơ sản. Người khẳng định: “Tơi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta


muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"
Với Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời khơng có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích
cho nhân dân”, “việc gì có lợi cho nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân

phải hết sức tránh”. Triết lý đó đã giúp Người vượt qua “tự ngã”, khơng chỉ là tình
thương cho dân tộc mà trải rộng tình thương cho tồn nhân loại. Khi trực tiếp lãnh
đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Người ln nghĩ cách sao để ít đổ máu hy
sinh nhất, kể cả ta và địch. Người đã vận động mọi thế lực chính trị, quân sự trên thế
giới hãy vì hịa bình, hợp tác đẩy lùi chiến tranh; khơng muốn những người lính,
người dân vơ tội phải chết vì mục đích ích kỷ, phi nghĩa.
Ln tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức của con người: Hồ Chí Minh
khẳng định, đạo đức là gốc của người cách mạng; để làm cách mạng, mỗi cán bộ,
đảng viên phải luôn nêu gương trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức theo các tiêu chí:
Cần (là cần cù, chăm chỉ, siêng năng), kiệm (là tiết kiệm tiền của, thời gian, công
sức), liêm (là liêm khiết, thanh liêm, không tham địa vị, tiền tài), chính (là ngay
thẳng, cơng minh, chính trực), chí cơng vơ tư. Theo Người, “chí cơng vơ tư” nghĩa
là người cán bộ, đảng viên phải hồn tồn vì nhân dân, vì đất nước, khơng vì cá
nhân mình; phải trung với nước, hiếu với dân, điều này tương đồng với “hạnh vô
13

0

0



×