Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Tai lieu thi triết học phần II, vận DỤNG TRIẾT học mác LÊNIN để NHẬN THỨC và GIẢI QUYẾT NHỮNG vấn đề THỰC TIỄN 28 câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.88 KB, 80 trang )

Phần II
VẬN DỤNG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ĐỂ NHẬN THỨC VÀ GIẢI
QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
MỤC LỤC
Câu 1: Vì sao nói, sự nghiệp đổi mới đất nước phải tơn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn?
Câu 2: Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm phát triển trong sự
nghiệp CM ở VN hiện nay?
Câu 3: Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vào
phân tích quan điểm của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự
chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế?
Câu 4: Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào phân tích q trình
xây dựng CNXH “bỏ qua chế độ tư bản CN” ở VN?
Câu 5: Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào xây dựng nền văn
hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc?
Câu 6: Tư tưởng triết học HCM về con người?
Câu 7: Vận dụng quan điểm của triết học Mác-Lênỉn, tư tưởng HCM vào
xây dựng con người VN hiện nay?
Câu 8: Nhận thức mói về đấu tranh giai cấp ở VN hiện nay?
Câu 9: Nhận thức và giải quyết các mồi quan hệ lớn trong quá trình đổi
mới ở nước ta?
Câu 10: KTTT định hướng XHCN ở VN?
Câu 11: Quan điểm của ĐCS VN về phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn
dân tộc trong q trình phát triển đất nước?
Câu 12: Tác động của cuộc CM công nghiệp lần thứ tư (4.0) đối với sự phát
triển của LLSX ở VN hiện nay?
Câu 13: Cơ sở thực tiễn nhận thức về CNXH và con đường lên CNXH ở
VN?
Câu 14: Vai trò của tổng kết thực tiễn đối với sự phát triển của lý luận?
Câu 15: Nhân thức về mâu thuẫn XH ở nước ta hiên nay?
Câu 16: Những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình thực hiện đấu


tranh giai cấp ở nước ta hiện nay trên cơ sở ỉý luận của quy luật thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập?
Câu 17: Cơ sở triết học trong đường lối của Đảng về phát triển KT nhiều
thành ở nước ta từ khỉ đổi mói đất nước đến nay?
Câu 18: Cơ sở triết học trong đường lối của Đảng về phát triển KT tư nhân,
coi KT tư nhân là động lực quan trọng ở nước ta hiện nay?
Câu 19: Tại sao phải đổi mới đồng bộ giữa KT và chính trị?
Câu 20: Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể để phân tích việc phát huy
nhân tố con người ở VN hiện nay?
1


Câu 21: Vận dụng phép biện chứng duy vật trong nhận thức CN tư bản?
Câu 22: Vận dụng phép biện chứng duy vật trong việc nhận thức CNXH?
Câu 23: Tính khoa học và CM của CN Mác-Lênin?
Câu 24: Những giá trị bền vững của CN Mác-Lênin?
Câu 25: Sự lựa chọn con đường phát triển XHCN của Đảng và nhân dân ta
là hoàn toàn đúng đắn?

2



Phần II
VẬN DỤNG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ĐỂ NHẬN THỨC VÀ GIẢI
QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
Câu 1: Vì sao nói, sự nghiệp đổi mới đất nước phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn?
Đại hội VI (1986) - Đại hội đề ra đường lối đổi mới tồn diện đất nước. Đến năm
2016, cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã trải qua 30 năm (1986-2016). Đại

hội XII của Đảng nhìn lại 30 năm đổi mới, đánh giá những thành tựu đạt được, chỉ
rõ những hạn chế, khuyết điểm, rút ra những bài học. Thực tế chỉ rõ: Ba mươi năm
đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta,
đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, NN và nhân dân ta. Đổi mới mang
tầm vóc và ý nghĩa CM, là q trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự
nghiệp CM to lớn của tồn Đảng, tồn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh". Trong các Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đã đưa ra
những quan điểm chỉ đạo tồn bộ q trình nhận thức và hoạt động thực tiễn về quá
trình đổi mói đất nước. Những quan điểm này dựa trên cơ sở phương pháp luận của
triết học Mác-Lênin và quá trình tổng kết 30 năm đổi mới đất nước. Đó là: "đổi mới
phải... tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn...".
Đổi mới phải tôn trọng quy luật khách quan
- Bất cứ lĩnh vực nào của thể giới vật chất đều có những quy luật khách quan, từ
quy luật của tự nhiên đến các quy luật XH; từ quy luật chung, có tính bao qt đến
những quy luật trong từng lĩnh vực cụ thể. Do vậy, trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người chỉ có thề vận dụng quy luật
khách quan để nâng cao việc quả hoạt động của mình chứ con người khơng thề
chống lại được quy luật. Nếu nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phù
hợp với quy luật khách quan thì hoạt động sẽ đem lại hiệu quả, cịn nếu khơng phù
hợp với quy luật khách quan thì hoạt động thực tiễn sẽ thất bại,
- Thực tế lịch sử cho thấy, mỗi khi làm trái quy luật, con người đều phải trả giá,
thậm chí trả giá đắt. Bài học của thời kỳ bao cấp trước đây đã cho thấy, không thể
lấy nguyện vọng tốt đẹp thay cho thực tế khách quan mà phải xuất phát từ hiện thực
khách quan và phải hành động theo quy luật. Chẳng hạn, không thể giải quyết tốt
mối quan hệ giữa LLSX và QHSX nếu xuất phát từ đổi mới QHSX, mà phải xuất
phát từ trình độ của LLSX. Như vậy, muốn nhận thức hay cải tạo sự vật phải xuất
phát từ chính bản thân nó. Con người không thể áp đặt cho sự vật những cái mà vốn
nó khơng có hoặc nó chưa thể có. Con người chỉ có thể phân tích chính bản thân sự
vật, nhận thức bản chất của nó để từ đó có thể tìm ra phương thức cải tạo nó, làm

ngược lại nhất định sẽ thất bại.
Đổi mới phải bám sát thực tiễn
- Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách lược CM và
sự cụ thể hóa đường lối đó bằng các chủ trương, chính sách và pháp luật, nếu bị sự


can thiệp, áp đặt cùa ý muốn chủ quan tự phát sẽ làm nguy hại nghiêm trọng đến sự
phát triển của đất nước, mà trước mắt cũng như lâu dài, hậu quả của nó khó có thể
lường trước được, về vấn đề này, V.I.Lênin đã cảnh báo: Đối với một chính Đảng
vơ sản, khơng sai lầm nào nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý
muốn chủ quan. Định ra một sách lược vô sản trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho
sách lược đó bị thất bại.
- Do vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn bao giờ cũng phải xuất phát từ
những điều kiện, những hoàn cảnh thực tế, đặc biệt là từ điều kiện vật chất. Mọi
mục tiêu đặt ra cho hoạt động của con người cũng đều phải xuất phát từ những tiền
đề vật chất đã có. Khi điều kiện KT còn thấp kém, lạc hậu mà đề ra những đường
lối, chính sách với mục tiêu q cao là khơng phù hợp, không thể thực hiện được.
Ngược lại các mục tiêu đặt ra quá thấp so với điều kiện KT hiện có lại làm hạn chế
khả năng của con người khơng thúc đẩy được việc khai thác những tiềm năng đã
có.
- Trước năm 1986, nhiều quan điểm, đường lối phát triển KT-XH ở VN đã vi
phạm quy luật khách quan, bệnh chủ quan, duy ý chí chi phối q trình nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
+ Trong mối quan hệ giữa KT và chính trị những năm trước đồi mới, chúng ta đã
áp đặt các mệnh lệnh hành chính thay cho các quy luật KT khách quan. Điều này đã
dẫn đến bệnh quan liêu trong tư duy KT và bộ máy các cơ quan NN, cản trở sự phát
triển KT-XH, tạo ra nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng về KT-XH.
+ Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa LLSX và QHSX, chúng ta đã nhận thức
không đúng về thực tiễn phát triển LLSX và vai trò của QHSX đối với sự phát triển
của LLSX. Chúng ta đã xây dựng QHSX với quy mơ lớn để nhanh chóng xây dựng

chế độ cơng hữu - cơ sở KT của CNXH. Trong khi đó trình độ LLSX ở VN lại thấp
và khơng đồng đều giữa các vùng, các miền, các ngành nghề, các lĩnh vực, các
thành phần KT. Do vậy, nó đã tạo ra sự khơng phù hợp giữa QHSX với trình độ
phát triển của LLSX, qua đó cản trở sự phát triển của LLSX, làm cho sản xuất đình
đốn, đời sống của nhân dân vơ cùng khó khăn, tỷ lệ lạm phát tăng cao, XH mất ổn
định.
- Trước thực trạng đó, Đại hội VI của Đảng đã đưa ra quan điểm có ỷ nghĩa quyết
định đối với sự phát triển của đất nước, đó là đổi mới phải “xuất phát từ thực tế
khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Chỉ trên cơ sở xuất
phát từ tình hình thực tế của đất nước, nhận thức đúng các quy luật khách quan thì
đường lối, chính sách phát triển KT-XH mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Đảng ta xác định, đổi mới trước hết là đồi mới tư duy, trong đó tư duy về KT giữ
vai trị quyết định. Chúng ta đã xác định lại các quy luật KT khách quan và nhận
thức rõ các quy luật ấy trong đường lối, chính sách phát triển, trong đó đặc biệt là
việc nhận thức rõ về quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX; nhận thức rõ về vai trò của KTTT đối với việc giải phóng sức sản xuất XH;
nhận thức rõ hơn về sự tác động của quy luật giá trị trong nền KT... Chính nhận
thức này đã tác động rất lớn đến việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển KT-


XH và nó đã tạo cơ sở cho những thành cơng to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước của VN từ năm 1986 đến nay.
Như vậy, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, khi nhận thức và hoạt động thực tiễn
cần nắm vững ngun tắc khách quan địi hỏi phải tơn trọng sự thật, tránh thái độ
nóng vội, định kiến khơng trung thực và chủ quan duy ý chí đồng thời phải tôn
trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan.
Câu 2: Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm phát triển trong sự nghiệp
CM ở VN hiện nay?
Theo triết học duy vật biện chứng thì phát triển là một phạm trù triết học dùng để
khái quát quá trình vận động từ thấp lên cao, từ kém hồn thiên đến hoàn thiên hơn

của tự nhiên, của XH và của tư duy.
- Nguồn gốc của sự phát triển là quá trình giải quyết mâu thuẫn trong bản thân sự
vật. Quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng khơng chỉ có những
biến đổi theo chiều hướng đi lên, nhiều khi còn bao hàm cả những biến đổi thụt lùi;
là q trình tích lũy về lượng đến mức nào đó sẽ làm thay đổi về chất trong sự vật,
hiện tượng. Khuynh hướng của sự phát triển là quá trình phủ định của phủ định, cái
mới ra đời thay thế cái cũ. Phát triển còn là xu hướng chung của sự vận động, mang
tính khách quan, tính đa dạng và tính phổ biến:
+ Phát triển mang tính khách quan, đó là q trình tự thân của sự vật, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Nguồn gố, động lực của sự phát triển
nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng; việc giải quyết mâu thuẩn sẽ làm cho sự vật,
hiện tượng vận động và phát triển.
+ Phát triển mang tính phổ biến, vì nó diễn ra cả trong tự nhiên, XH và tư duy,
trong mọi khơng gian và thời gian. Tính phổ biến của sự phát triển theo nghĩa nó là
khuynh hướng chung, phổ biến và diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực từ tự nhiên đến XH
và tư duy, từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh
hiện thực ấy.
+ Phát triển mang tính đa dạng, phong phú, tức là tùy thuộc vào hình thức tồn
tại cụ thể của vật chất mà phát triển diễn ra nhiều hình thức khác nhau. Mỗi sự vật,
hiện tượng được cấu tạo, hình thành khơng giống nhau, tồn tại trong khơng gian,
thời gian khác nhau.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi, khi nhận thức sự vật phải nhận thức được khuynh
hướng của nó trong mớ hỗn độn các sự kiện, hiện tượng ngẫu nhiên. C.Mác và
Ph.Ăngghen ghi nhận công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
của các học giả tư sản trước đó. Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm thấy tính
tất yếu của CM và nền chuyên chính, cũng như sự ra đời của CN cộng sản từ những
“mớ hỗn độn” các sự kiện ngẫu nhiên của các XH tư bản CN. Trong thư gửi
Vâyđơmâye (1850) C.Mác viết, đấu tranh giai cấp nhất thiết dẫn đến chun chính
vơ sản và bản thân nền chun chính này cũng chỉ là bước quá độ để đi đến thủ tiêu
mọi giai cấp. Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn nhấn mạnh rằng, cuộc CM do

giai cấp vô sản tiến hành không thể thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng. Do
vậy, cuộc CM do giai cấp vơ sản cịn có những khó khăn và cả thất bại tạm thời ở


những thời kỳ lịch sử, mỗi quốc gia nhất định. Nhưng theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
sự thắng lợi của CM vô sản là tất yếu. Tính tất yếu đó do sự chi phối bởi các quy
luật khách quan. Đây là điều hết sức quan trọng đối với việc củng cố niềm tin vào
thắng lợi của người CM.
- Quan điểm phát triển còn đòi hỏi tư duy phản ánh sự phát triển của sự vật cũng
phải “mềm dẻo”, linh hoạt, phải luôn được bổ sung, thay đổi cho phù hợp với sự
phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng. Nắm vững điều này sẽ khắc phục được
nhận thức cứng nhắc, máy móc về sự phát triển.
- Tư tưởng về CM khơng ngừng của CN Mác- Lênin đã cho thấy rất rõ về quan
điểm phát triển. Khi luận chứng về mặt lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng,
quá trình CM do giai cấp vô sản tiến hành phát triển không ngừng nhưng phát triển
qua từng giai đoạn tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể mà có những yêu càu và nhiệm
vụ cụ thể cần giải quyết. Do đó, lý luận CM của C.Mác và Ph.Ảngghen đã liên tục
có sự bổ sung, phát triển để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn CM. Điều này đã được
V.I.Lênin tiếp tục thể hiện trong lý luận của minh về sự biến đồi của CN tư bản giai
đoạn đế quốc CN và tính tất yếu CM dân chủ tư sản kiểu mới ờ Nga.
- Trên cơ sở phương pháp luận của quan điểm phát triển, ĐCS VN nhận định,
trong những năm tới, tinh hình thế giới và trong nước sẽ còn nhiều diễn biến phức
tạp.
+ Chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, khó lường; cục diện thế giới
theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn.
+ Những vấn đề tồn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh
nguồn nước, an ninh lương thực, biến đồi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn
biến phức tạp; KT thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và cịn
có nhiều biến động khó lường.
+ Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp

tục diễn ra gay gắt, phức tạp.
+ Cùng với đó là những khó khăn, hạn chế trong nước mà chúng ta đang phải đối
mặt, đó là: KT phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu
và thực tế nguồn lực được huy động; việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.
+ Bốn nguy cơ mà Hội nghị ĐB tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
(1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí,
“diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là việc
chúng triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên Internet để chống
phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hỏa” trong nội bộ. Niêm tin
của cán bộ, đang viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút. Điều này
tạo ra cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề
mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất
nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của TQ. Tuy
nhiên, trên cơ sở của quan điểm phát triển Đảng ta vẫn khẳng định: “Đường lối đổi
mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù


hợp với thực tiễn của VN và xu thế phát triền của lịch sử”. “Theo quy luật tiến hóa
của lịch sử, loài người nhất định tiến lên CNXH”.
Câu 3: Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vào
phân tích quan điểm của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự
chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế?
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra rằng, mọi sự vật đều
chứa đựng những mặt (những yếu tố, những thuộc tính, những bộ phận) có đặc
điểm, hoặc khuynh hướng vận động trái ngược nhau tồn tại khách quan trong sự vật
gọi là những mặt đối lập. Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Các
mặt đối lập vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau làm mâu thuẫn được
giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.

- Nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập giúp cho chúng
ta biết được nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, qua đó
tìm biện pháp tác động phù hợp, tạo điều kiện cho sự vật phát triển.
- Quy luật cũng yêu cầu khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét tồn diện các mặt
đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triên của chúng để có biện pháp giải quyết
mâu thuẫn tốt nhất; mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi,
khơng được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; mâu
thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh, chứ khơng phải bằng điều hịa
mâu thuẫn.
Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vào phân tích
quan điểm của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế. Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011),
Đảng ta xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ
lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”. Văn kiện
ĐH XII của Đảng lại nhấn mạnh và cụ thể hơn là mối quan hệ “giữa độc lập tự
chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.
Để nhận thức đúng và xử lý tốt mối quan hệ đó, Đảng đã chỉ rõ nguyên tắc và
phương châm, phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn đất nước, chú trọng
nghiên cứu dự báo xu hướng phát triển của của đất nước và thế giới, những diễn
biến của khu vực, quốc tế tác động tới nước ta trên cả hai mặt thuận lợi và khó
khăn, tích cực và tiêu cực để đón kịp, tận dụng thời cơ, chủ động vượt qua thách
thức và nguy cơ, tôn trọng quy luật khách quan, “không phiến diện, cực đoan, duy
ý chí.
Cụ thể vận dụng giải quyết mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế, cần lưu ý những nội dung sau:
- Trong điều kiện của thế giới hiện nay, tồn cầu hóa với sự tác động của CM khoa
học - công nghệ, hội nhập quốc tế trở thành một tất yếu khách quan.
Hiện nay, thế giới đang có những biến đổi to lớn và sâu sắc, bên cạnh những thuận
lợi và cơ hội cũng cịn khơng ít khó khăn và thách thức, điều đó địi hỏi chúng ta
phải biết phân tích mâu thuẫn và tìm biện pháp tốt nhất để giải quyết mâu thuẫn



nhằm thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
- Q trình hội nhập quốc tế ln chứa đựng nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Hội
nhập quốc tế trong một mơi trường cạnh tranh quyết liệt về chính trị, KT, sự chi
phối của các nước lớn và những diễn biến phức tạp, hết sức khó lường của thế giới,
đòi hỏi phải giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lành thổ đất
nước.
- Mỗi quốc gia và mỗi giai cấp nắm chính quyền đều theo đuổi các mục tiêu và lợi
ích khác nhau, thậm chí đối lập, nên hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì tính phức
tạp của q trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh càng gia tăng.
- Đảng ta luôn quan tâm sâu sắc đến việc phân tích bối cảnh quốc tế, bám sát bước
đi của nhân loại, tận dụng sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đưa đất nước
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, vừa phát triển nhanh, bền vững, vừa bảo đảm
an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN. Để làm được
điều đó, cần xác định rõ những tác động hai mặt của hội nhập quốc tế và đưa ra
những định hướng, chính sách xác đáng.
* Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vào hội
nhập QT, cần lưu ý những nội dung sau:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế phải thực hiện vừa hợp tác vừa đấu tranh. Hợp tác mà
khơng có đấu tranh thì mất độc lập, tự chủ; đấu tranh mà khơng hợp tác thì khơng
“kết hợp được các mặt đối lập”.
+ Giữa các mặt đối lập vẫn có những nhân tố “giống nhau” “đồng nhất” với nhau.
Chính vì có những nhân tố “giống nhau”, “đòng nhất” với nhau này mà trong sự
triển khai mâu thuẫn đến một lúc nào đó và ở một điều kiện nào đó (khi nhân tố
“giống nhau”, “đồng nhất” nhau này chiếm xu thế chi phối của mặt đối lập) thì mặt
đối lập này có thể chuyển hóa sang mặt đối lập kia hoặc chuyển hóa sang một mặt
đối lập khác - khi xét trong một mối quan hệ cụ thể nào đó. Chẳng hạn, sự phát
triển KT tư bản CN là phục vụ giai cấp tư sản, nhưng rõ ràng là sự phát triển KT tư

bản CN này lại tạo ra những tiền đề vật chất để xây dựng CNXH.
+ Không nên hiểu một cách giản đơn rằng, nếu hai mặt đối lập với nhau trong một
mâu thuẫn thì mặt này khơng thể hàm chứa những yếu tố thuộc mặt đối lập kia.
Thực tế cũng cho thấy, trong những người cộng sản, ln có thể nảy sinh những
yếu tố của mặt đối lập với nó (tức đối lập với những người cộng sản). Cũng tương
tự như vậy, khơng thể nói trong giai cấp tư sản khơng có những yếu tố, thuộc tính,
đặc điểm tích cực nào của giai cấp vô sản. Hay như trong CN tư bản khơng có
những yếu tố, thuộc tính của CNXH.
+ Tất nhiên, như V.I.Lênin nói, “những yếu tố, thuộc tính, đặc điềm giống nhau
này, tương đồng, đồng nhất với nhau này là phải có điều kiện “khơng phải chỉ là sự
thống nhất của các mặt đối lập, mà còn là những chuyển hóa của mỗi quy định, chất
đặc trưng, mặt, thuộc tính sang mồi cái khác [sang cái đối lập với nó?]”.
+ Cũng chính vì vậy, đối với V.I.Lênin: “Phép biện chứng là học thuyết vạch ra
rằng những mặt đổi lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất -


trong những điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau, tại
sao lý trí con người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là
sinh động, có điều kiện, năng động, chuyền hóa lẫn nhau” 2. Chỉ trên tinh thần này
của V.I.Lênin chúng ta mới hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, mơi trường hịa bình, ổn
định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc lập, tự
chủ. Là một dân tộc đã trải qua nhiều năm chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, VN hiểu rõ
và khát khao hơn bất cứ quốc gia, dân tộc nào sự hịa bình, ổn định để chấn hưng
đất nước. Chúng ta đều rõ, hiện nay trên bình diện an ninh, đang nổi lên nhiều vấn
đề an ninh đáng lo ngại như CN khủng bố, xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, CN
ly khai, nguy cơ bất ổn chính trị… Những vấn đề này đang đe dọa trực tiếp đến sự
ổn định và phát triển của từng quốc gia cũng như từng khu vực và cả thế giới. Điều
này địi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cùng một cơ chế thống nhất
có hiệu quả trên cơ sở hợp tác giữa các nước, giữa các khu vực cũng như toàn thế

giới. Muốn vậy các nước phải cùng nhau hợp tác.
Thứ hai, hội nhập tạo nên sự phụ thuộc, làm xuất hiện điều kiện, thời cơ để giữ
vững độc lập, tự chủ.
+ Cục diện chính trị thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, quan hệ quốc tế có
những thay đổi mang tính bước ngoặt.
+ Hiện nay, các nước khơng cịn duy trì các chính sách ngoại giao cứng nhắc, “một
chiều” mà tập hợp lực lượng cơ động, linh hoạt tùy theo vấn đề, thời điểm khu vực
trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc của mình.
+ Các nước lớn vẫn ln duy trì trạng thái “vừa hợp tác vừa cạnh tranh” theo
phương châm: đấu tranh nhưng tránh xung đột, đối đầu trực tiếp, hịa hỗn nhưng
tránh sa vào liên minh chống nước khác, xu thế đa phương ngày càng nở rộ với
hàng trăm sự tập hợp khu vực, liên khu vực, toàn cầu.
+ Các nước lớn đều đã có những sự điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm thực
hiện mục tiêu riêng của mình trong cục diện chính trị những năm đầu thế kỷ XXI.
+ VN cũng cần xử lý tốt các mối quan hệ quốc tế để tạo điều kiện, tiền đề giữ
vững độc lập, tự chủ. Những năm qua, trên tinh thần đó, Đảng và NN ta đã thực
hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Trong đó xác định, quan hệ
quốc tế được thực hiện đối với tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ chính trị.
Trong các quan hệ quốc tế VN luôn xác định các mối quan hệ cơ bản, trọng yếu,
chiến lược, có những mối quan hệ là đối tác chiến lược, có quan hệ là hợp tác tồn
diện lâu dài, láng giềng, đồng chí đặc biệt.
Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để huy động
nguồn lực bên ngoài cho phát triển KT-XH trong nước. Để phát triển KT-XH, giữ
vững độc lập, tự chủ, chúng ta phải phát huy cao độ nội lực, xem đó là nhân tố
quyết định đối với sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy phải coi


trọng huy động các nguồn lực bên ngoài. Muốn phát huy được các nguồn lực bên
ngồi thì phải thơng qua hội nhập và hợp tác quốc tế. Chính hội nhập quốc tế cho
chúng ta những điều kiện để tận dụng được lợi thế của các nguồn lực bên ngoài

như nguồn lực vốn, nguồn lực kỹ thuật, nguồn lực quản lý. Tất cả những thuận lợi
này cũng như các nguồn lực bên ngồi chỉ được phát huy có hiệu quả thơng qua
nội lực. Do vậy, phải chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế.
Thứ ba, phải thấy rằng, ngay trong sự thống nhất của các mặt đôi lập, với bản chất
của mình, các mặt đối lập ln có xu hướng phát triển trái ngược nhau, bài trừ
nhau. Do vậy, đến một thời điểm nhất định, các mặt đôi lập ấy sẽ trở nên gay gắt
với nhau - tức tạo thành mâu thuẫn - đấu tranh với nhau. Điều này có nghĩa là, ngay
trong sự thống nhất của các mặt đối lập ấy cũng hàm chứa những yếu tố dẫn tới đấu
tranh của các mặt đối lập. Do vậy, các mối quan hê quốc tế không bất biến, cần
nhận diện và phân tích các mối quan hệ cụ thể trong điều kiện cụ thể và phải có sự
điều chỉnh linh hoạt phù hợp với mục đích đặt ra.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện thành cơng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển KT tri thức. Chính q trình tồn cầu
hóa đang làm thay đổi phân công LĐ trên từng khu vực và trên tồn thế giới.
Chúng ta có thể tận dụng sự tái phân công LĐ này để phát huy mặt mạnh và lợi thế
so sánh cho phát triển KT. Trên cơ sở đó, rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Chủ động hội nhập KT quốc tế sẽ cho
chúng ta những cơ hội để rút ngắn quá trình này. Bởi lẽ, hội nhập KT trong điều
kiện tồn cầu hóa sẽ có cơ hội tiếp nhận và ứng dụng nhanh chóng những thành
tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để rút ngắn quá trình phát triển.
Thứ tư, một sự vật, hiện tượng có thể có nhiều mâu thuẫn cơ bản nhưng trong
cùng một thời điểm, một điều kiện, một mối liên hệ xác định chỉ có một mâu thuẫn
cơ bản. Bởi mâu thuẫn cơ bản phải là mâu thuẫn quy định bản chất sự vật, hiện
tượng tồn tại với tư cách là chính nó. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết, thì sự
vật, hiện tượng sẽ chuyển sang trạng thái tồn tại khác của nó. Tất nhiên, trong một
sự vật, hiện tượng có thể có nhiều mâu thuẫn khác nhau (xét trong các mối liên hệ
khác nhau) cùng tồn tại. Các mâu thuẫn này có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và
giải quyết các mâu thuẫn này đều có ảnh hưởng tới giải quyết mâu thuẫn cơ bản của
sự vật, hiện tượng. Nhưng giải quyết các mâu thuẫn không cơ bản này chưa thể làm
cho sự vật, hiện tượng thay đồi về chất. Ở trạng thái khác, sự vật hiện tượng lại có

mâu thuẫn cơ bản mới trong điều kiện mới, trong mối liên hệ mới. Trên tinh thần
đó, khi giải quyết các vấn đề, các mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế, cần phải có thái
độ bình tĩnh, thận trọng, có sự phân tích, phân loại các mâu thuẫn để có quan điểm
và giải pháp phù hợp với luật pháp quốc tế và lợi ích của VN
Thứ năm, phê phán quan điểm chỉ nhấn mạnh hợp tác quên đấu tranh, dẫn tới mất
cảnh giác; hoặc chỉ nhấn mạnh đấu tranh quên hợp tác, dẫn tới quan đỉểm cứng
nhắc, khó hội nhập.


Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ, sâu rộng
hơn vào các thể chế KT thế giới cũng như thể chế KT khu vực, như Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB)... Trên cơ sở đó, góp phần thúc đẩy phát triển KT và
giữ vững độc lập, tự chủ. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Triển khai mạnh mẽ
định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập
quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên
cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức
mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập KT là trọng tâm, hội
nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập KT; hội nhập là quá
trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống,
khơng thể rơi vào thế bị động, đối đầu bất lợi”.
Ngoài ra, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế cịn tạo điều kiện, cơ hội cho chúng
ta xuất khẩu LĐ. Khi xuất khẩu được LĐ, chúng ta sẽ có cơ hội để nguồn LĐ được
tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của những nước khác; tiếp
thu được phong cách làm việc; phương thức tổ chức sản xuất của các nước. Điều
này góp phần trực tiếp vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, thực hiện đột phá về nhân lực chất lượng cao. Hơn nữa, XKLĐ
cịn tạo thêm cơng việc cho số LĐ có tay nghề. Điều này góp phần giải quyết việc
làm, giảm thiểu thất nghiệp, trên cơ sở đó giảm thiểu tệ nạn XH. Đồng thời, XKLĐ
cịn góp phần tăng thu nhập trực tiếp cho người LĐ, tăng thu ngân sách cho quốc

gia.
Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng. Độc lập, tự chủ trong
quan hệ quốc tế và đối ngoại thể hiện trước hết ở tư duy, nhận thức độc lập, sáng
tạo, xuất phát từ lợi ích tối cao của đất nước - dân tộc, khơng giáo điều, rập khn,
máy móc trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, trong xác
định đối tác, đối tượng và tập hợp lực lượng quốc tế. Hệ thống các quan hệ đối
ngoại rộng lớn hiện nay của VN là kết quả của một quá trình thực hiện các bước đột
phá: từ phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hố quan hệ với các nước lớn, cải
thiện quan hệ với các nước trong khu vực..., đến thực hiện chính sách đối ngoại
rộng mở, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, là bạn với tất cả các nước, tích cực, chủ
động hội nhập quốc tế.
Trước thềm đại hội XIII của Đảng, trong dự thảo các văn kiện lấy ý kiến chuẩn bị
trình đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhận định sau gần 35 năm đổi mới và gần 30
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, từ
nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã chỉ rõ nhiều mối quan hệ diễn
biến hết sức nhanh chóng, đan xen, phức tạp, khó lường,… địi hỏi tồn Đảng phải
nâng cao quyết tâm chính trị, dự báo chính sách tình hình, chủ động thích ứng với
mọi tình huống, tiếp tục đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc độc
lập,chủ quyền,thống nhất, toàn vẹn lãnh thỗ của Tổ quốc và những thành quả phát
triển đã đạt được. Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là “Kết hợp sức mạnh dân tộc với


sức mạnh thời đại, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực,
trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất. Trên
cơ sở đó, Đảng ta đề ra 5 định hướng sau:
- Giữu vững độc lập, tự chủ trong xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát
triển KT đất nước.
- Phát triển doanh nghiệp VN lớn mạnh, làm nòng cốt của KT đất nước; giữ vững
các cân đối lớn, bảo đảm an ninh KT; không ngừng tăng cường tiềm lực KT quốc

gia.
- Đa phưng hóa, đa dạng hóa quan hệ KT quốc tế, thực hiện nhiều hình thức hội
nhập quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.
- Nâng cao khả năng chống chịu của nền KT trước tác động tiêu cực từ những tác
động của nền KT thế giới, khu vực; chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ
thống phòng vệ, bảo vệ nền KT, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với
các cam kết quốc tế.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương
mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Xây dựng nền
ngoại giao KT phục vụ phát triển đất nước.
Câu 4: Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào phân tích quá trình xd
CNXH “bỏ qua chế độ TBCN” ở VN?
Quy luật phủ định của phủ định
- Quy luật phủ định của phủ định dùng để chỉ khuynh hướng của sự vận động, phát
triển của sự vật, ít nhất thơng qua hai lần phủ định biện chứng, sự vật dường như
quay trở lại điểm xuất phát ban đầu nhưng ở trình độ mới cao hơn.
- Phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là
điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo, tạo ra đường “xoáy ốc” của sự
phát triển.
- Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để hiểu sự ra đời của cái mới, mối liên hệ
giữa cái mới và cái cũ, góp phần xây dựng quan điềm kế thừa biện chứng.
- Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra rằng, phát triển là quá trình phức tạp, theo
đường xốy ốc đi lên. Do vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần bình tĩnh,
chủ động, khắc phục khó khăn đề thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ.
Phân tích q trình xd CNXH “bỏ quan chế độ TBCN” ở VN trên cơ sở vận
dụng quy luật phủ định của phủ định
- Phủ định CNTB bằng tư duy biện chứng. Trước đây, đã có thời kỳ, các nước
XHCN phủ định “sạch trơn” CNTB. Điều này không chỉ cản trở việc kế thừa
CNTB trong xây dựng CNXH mà cịn hình thành tư duy siêu hình, cản trở sự phát
triển cùa chính các nước XHCN. C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng, chúng ta

không thể thủ tiêu một LLSX nếu điều kiện cho sự tồn tại của nó chưa mất đi, nên
chúng ta không thể phù định CNTB bằng khát vọng, bằng ý muốn.
- Cần nhận thức đúng về vai trò, địa vị lịch sử của giai cấp tư sản đối với sự phát
triển của nền văn minh nhân loại.


+ Các nhà kinh điển của CN Mác đã chỉ ra, ở mỗi hình thái KT-XH có một giai
cấp đứng ở trung tâm của thời đại. Ở thời kỳ hình thành, phát triển và thống trị của
CN tư bản, thì giai cấp tư sản chính là giai cấp ấy.
+ Khi còn là giai cấp CM, giai cấp tư sản đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
LLSX trong CN tư bản; góp phần phá bỏ thành lũy phong kiến, thống nhất quốc gia
dân tộc tư sản; thúc đẩy giải phóng con người, giải phóng tư tưởng sau sự thống trị
chuyên quyền, độc đoán của CN phong kiến.
+ Giai cấp tư sản hết vai trị lịch sử khi nó bộc lộ tính chất lỗi thời, phản động, cản
trở sự phát triển của LLSX. Khi đó giai cấp vơ sản xuất hiện và thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình là giải phóng XH lồi người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất cơng.
+ Theo nghĩa đó, cần thấy vai trị lịch sử của giai cấp tư sản và cần tranh thủ giai
cấp này trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
- Khẳng định tính quy luật của sự phát triển lịch sử.
+ Tồn bộ sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghe thơng qua học thuyết hình thái
KT-XH đã đi đến khẳng định: “Sự phát triển các hình thái KT-XH là quá trình lịch
sử - tự nhiên”, có nghĩa là sự phát triển này theo quy luật tất yếu khách quan, không
chịu sự chi phối bởi ý muốn chủ quan của bất kỳ giai cấp nào trong lịch sừ.
+ Tuy nhiên, trong Lời tựa cho bộ Tư bản xuất bản lần thứ nhất, C.Mác vạch rõ:
“một XH, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của sự vận động của
nó,... cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc
lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó. Nhưng nó có thể, rút ngắn và làm dịu bớt được
những cơn đau đẻ”. Khi Ph.Angghen nghiên cứu về tình hình nước Nga và CM
1875, trong tác phẩm vấn đề XH Nga, Ph.Ăngghen đã đưa ra tư tưởng về sự phát
triển rút ngắn lên CNCS. Khi C.Mác tìm hiểu sâu về nước Nga, ông đã đồng ý với

Ph.Ăngghen về quan điểm đó. Quan điểm của V.I.Lênin sau này cũng thống nhất
với những ý kiến đó. Ơng khẳng định quan điểm về khả năng phát triển rút ngắn
ngay ở những nước chưa trải qua chế độ tư bản CN. Điều này vẫn là quá trình lịch
sử - tự nhiên.
- Tránh tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh về vấn đề phủ định CNTB. Tư tưởng tả
khuynh, nóng vội khi phủ định CNTB, dẫn đến những sai lầm nguy hại to lớn trong
lịch sử, thì tư tưởng hữu khuynh, mơ hồ khi cho rằng không cần phải đấu tranh giai
cấp, thực hiện “dung hợp giai cấp” để xây dựng “XH siêu giai cấp”... thì cũng phá
hoại thành quả của CNXH.
- Xác định đúng những nội dung cốt yếu để phủ định CNTB. Trong điều kiện hiện
nay, Đảng ta đã khẳng định, con đường xây dựng CNXH ở VN là “bỏ qua chế độ tư
bản CN”, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của QHSX và kiến trúc thượng
tầng TBCN, còn chúng ta vẫn kề thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được trong
CNTB.
- Phủ định CNTB là q trình khó khăn, phức tạp nên càn có quan điểm phương
pháp luận khoa học, tránh vấp váp, rủi ro. Chế độ phong kiến mất 400 năm để phủ
định chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ tư bản mất gần 300 năm để phủ định về đại
thể chế độ phong kiến. Do vậy, chế độ XHCN – chế độ XH phủ định hoàn toàn chế


độ người áp bức, bóc lột thì chắc chắn sẽ cịn khó khăn và phức tạp hơn.
Câu 5: Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào xây dựng nền văn hóa
VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc?
Quy luật phủ định của phủ định cho ta cơ sở để hiểu sự ra đời của cái mới, mối
liên hệ giữa cái mới và cái cũ, góp phần xây dựng quan điểm kế thừa biện chứng,
chống thái độ phủ định siêu hình, phủ định “sạch trơn”.
Hiện nay, bên cạnh nhiệm vụ phát triển KT-XH, chúng ta phải xây dựng một nền
văn hóa mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Ngày nay trước xu thế tồn cầu hóa, hợp tác hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống XH giúp cho chúng ta có cơ hội để tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân

loại, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc mình. Hơn nữa, trong q trình xây
dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN thì vấn đề giữ gìn nền văn hóa
mang đậm tính dân tộc ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng. Bên cạnh những mặt
tích cực, mặt trái của KTTT, hội nhập quốc tế đã và đang làm chao đảo nhiều giá trị
tinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức
tốt đẹp, thiêng liêng vốn có vị trí quan trọng trong hệ thống giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc VN đang có nguy cơ bị mai một và tha hóa. Đồng thời, ở nước ta
vẫn tồn tại những tàn dư của XH cũ để lại, đó là những hủ tục lạc hậu, bảo thủ,mê
tín dị đoan,...Chính vì vậy, việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trên cơ sở quán triệt quy luật phủ định của phủ định của CN duy vật biện
chứng là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và NN ta. Trong các Văn
kiện, Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng gần đây, Đảng ta đã nhận thức rõ điều
này và đã đưa ra quan điểm chỉ đạo cho việc xây dựng nền văn hóa mới: coi văn
hóa là nền tảng tinh thần của XH, là động lực, là mục tiêu của CNXH. Đặc biệt
trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII Đảng ta đã
khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Từ Đại
hội IX đến Đại hội XI, trực tiếp là Hội nghị Trung ương mười khóa IX ban hành kết
luận “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa
VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và Hội nghị TW chín khóa XI ban hành Nghị
quyết “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước”.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định đối với việc xây
dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được thể hiện ở những nội
dung sau:
- Kế thừa, phát huy những giá trị tích cực của truyền thống văn hóa VN.
+ Kế thừa là một trong hai đặc trưng của phủ định biện chứng. Phủ định biện
chứng bao hàm trong nó việc giữ lại những nhân tố tích cực của cái bị phủ định. Do
đó, phủ định biện chứng là phủ định có kế thừa - nó duy trì những nhân tố có ý
nghĩa tích cực đối với sự ra đời và phát triển của cái mới.
+ Quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách

quan là quá trình liên tục thực hiện những bước phủ định kế tiếp nhau. Sự phủ định
ấy không chỉ đơn thuần là thủ tiêu, phá hủy cái cũ, mà còn là sự giữ lại và phát triển


những nhân tố tích cực đã có, tức là kế thừa. Trong quá trình phát triển, giữa cái cũ
và cái mới, sự vật cũ và sự vật mới bao giờ cũng có mối liên hệ ràng buộc, tương
tác qua lại, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau và làm tiền đề của nhau. Cái
cũ, sự vật cũ khi mất đi khơng có nghĩa là mất đi hồn tồn, mà trong nó vẫn được
bảo tồn và giữ lại những yếu tố tích cực, những “hạt nhân hợp lý” để tạo tiền đề,
nền tảng cho sự phát triển tiếp theo. Thực chất nó là mắt khâu trung gian liên hệ
giữa cái cũ, sự vật cũ với cái mới, sự vật mới. Ngược lại, cái mới, sự vật mới phát
triển cao hơn không phải từ hư vô, trên mảnh đất trống không, mà là kết quả phát
triển hợp quy luật từ những gì hợp lý của cái cũ, sự vật cũ; là kết quả của sự đấu
tranh và kế thừa tất cả những yếu tố cịn tích cực của cái cũ, sự vật cũ.
+ V.I. Lênin viết: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định
không suy nghĩ, không phải sự phủ định hồi nghi, khơng phải sự do dự, cũng
không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng, - dĩ
nhiên, phép biện chứng bao hàm trong nó nhân tố phủ định, và thậm chí với tính
cách là nhân tố quan trọng nhất của nó, - khơng, mà là sự phủ định coi như là vòng
khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”.
+ Do vậy, kế thừa là đặc trưng rất quan trọng của phủ định biện chứng. Nó là sự
biểu hiện mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới (tự nhiên,
XH, tư duy) khi cái mới thay thế cái cũ nhưng vẫn giữ lại một hoặc một số yếu tố
của cái cũ cần thiết cho sự ra đời và phát triển của cái mới. Trong phủ định biện
chứng, kế thừa và phát huy những giá trị hợp lý có ý nghĩa quyết định khuynh
hướng phát triển của sự vật.
+ Những giá trị của văn hóa truyền thống cần kế thừa trong giai đoạn hiện nay là:
tinh thần u nước nồng nàn; lịng tự tơn, tự hào dân tộc; truyền thống cần cù LĐ;
lòng nhân ái khoan dung; tinh thần hiếu học; tinh thần đoàn kết...
- Phủ định những truyền thống lạc hậu, phản tiến bộ. Chủ tịch HCM khẳng định:

“Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở CM
tiến bộ”1. Chủ tịch HCM nhắc nhở đảng viên và cán bộ những căn bệnh sinh ra từ
CN cá nhân cần tránh như: Bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh
hiếu danh, thiếu kỷ luật, tư tưởng trọng nam khinh nữ, gia trưởng, hẹp hịi, ích kỷ,
tư tưởng cản trở cái mới, háo danh, địa vị, đẳng cấp, bệnh hình thức...
- Tiếp biến giá trị văn hóa nhân loại theo phương thức “gạn đục khơi trong” để hình
thành lối sống mới, tư tưởng mới, cách nhìn mới, qua đó cải biến, nâng tầm những
giá trị văn hóa VN và mở rộng sự ảnh hưởng của những giá trị văn hóa VN ra thế
giới.
- Xác định rõ chủ thể và tính mục đích của việc xây dựng nền văn hóa mới.
+ Chủ thể của nền văn hóa mới là quần chúng nhân dân - chủ nhân sáng tạo ra mọi
giá trị vật chất và tinh thần cho dân tộc, nhân loại.
+ Mọi sáng tạo văn hóa, tinh thần khơng gắn với chủ thể ấy thì cũng sẽ mất tính
mục đích, làm phai nhạt các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ấy.
- Phủ định truyền thống lạc hậu, xây dựng nền văn hóa mới là quá trình đấu tranh
lâu dài, phức tạp. Vì, trong XH có một bộ phận muốn giữ lại, thậm chí khơi phục


lại những mặt hạn chế, lỗi thời, lạc hậu của truyền thống, khôi phục cách sống cũ,
hủ tục lạc hậu để nhằm những mục đích nhất định. Điều này làm cho quá trình phủ
định truyền thống lạc hậu, xây dựng nền văn hóa mới là q trình đấu tranh lâu dài,
phức tạp hơn.
- Có thái độ đúng đắn, tiến bộ, có phương pháp khoa học để phủ định và kế thừa
truyền thống và xây dựng nền văn hóa mới.
- Cần tránh các khuynh hướng sau:
+ Giữ lại tất cả những gì thuộc về truyền thống, khơng phân biệt mặt tích cực và
hạn chế, lấy đó như là giá trị để định hướng cho sự suy nghĩ và hành động của
mình. Những người này thường có thái độ bảo thủ, hồi cồ, khư khư ơm lấy những
gì thuộc về q khứ, họ ngại thay đổi, không muốn thay đồi.
+ Một số người có quan điểm chiết trung, khơng có đủ trình độ để phân biệt, nhận

thức đâu là giá trị, đâu là lạc hậu, lỗi thời.
- Cần phân biệt cái mới thật và cái mới giả tạo. Cái mới giả tạo thực chất chỉ là cái
cũ, cái lỗi thời được ngụy trang. Trong điều kiện nào đó, để kéo dài sự tồn tại của
mình, cái cũ, cái lỗi thời có thể tái sinh dưới hình thức mới. Do vậy, khơng được lẫn
lộn cái cũ và cái mới. Nếu không chú ý đúng vấn đề này có thể dẫn đến việc kế
thừa, phát huy những yếu tố tiêu cực làm cản trở sự phát triển chung của sự vật.
- Tính kế thừa cịn bao hàm trong nó tính phê phán. Nghĩa là nó kế thừa trên cơ sở
phê phán, kế thừa có chọn lọc. Nếu bỏ qua tính phê phán có thể làm cho nội dung
kế thừa trở nên không phù hợp với sự phát triển. Theo đó, việc kế thừa cần phải
trên tinh thần phê phán. Phải biết gạt bỏ những truyền thống tư duy lỗi thời, cản trở
sự tiến bộ, sự phát triển của các chủ thể XH. Tất nhiên, tính phê phán địi hỏi phải
có quan điểm khách quan, trung thực. Nếu chủ thể thực hiện sự phê phán có quan
điểm trái với quan điểm của xu hướng tiến bộ XH, nó có thể thực hiện sự phê phán
khơng khách quan nhằm bôi đen đối tượng. Điều này không những khơng đảm bảo
tính kế thừa đúng đắn mà cịn cản trở sự phát triển của XH. Do vậy, tính chất, nội
dung kế thừa phụ thuộc vào nhiều yếu tố: địa vị và lợi ích giai cấp; tính khoa học
của những nội dung được kế thừa, tính CM, tiến bộ hay bảo thủ lạc hậu, phản động
của chủ thể thực hiện việc kế thừa đó.
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng
phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ
đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ
khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Vì vậy quá trình đổi
mới của nước ta cũng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Hiện nay, hội nhập là con
đường tất yếu, là lẽ sống của cả dân tộc. Vấn đề đặt ra là chúng ta hội nhập như thế
nào. Rõ ràng, chúng ta với tư thế chủ động, hội nhập trên cơ sở tự khẳng định mình,
nổ lực để vượt lên chính mình, nghĩa là, thơng qua q trình hội nhập, chúng ta có
thể nhận thức đầy đủ hơn, có ý thức hơn trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc của
dân tộc mình. Đồng thời trong quá trình đó, chúng ta sẽ thấy được những hạn chế
của những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ để tìm cách khắc phục. Một
khi đã nhận thức được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ kết hợp hài hòa các giá trị



truyền thống với các giá trị hiện đại, trên cơ sở bảo tồn bản sắc dân tộc, giữ lấy
những gì là tinh hoa, loại bỏ dần các yếu tố cốt lõi lỗi thời, tăng cường giao lưu,
học hỏi với bân ngồi thì sẽ vượt qua được những thử thách, sẽ khơi dậy được vai
trò động lực của giá trị truyền thống. Với tinh thần và bản lĩnh của người VN,
chúng ta sẽ “phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng XHCN”, kết hợp sức mạnh dân tộc với những ưu thế
của thời đại để phát triển đất nước và từng bước khẳng định vị thế bản lĩnh của dân
tộc mình trước cộng đồng.
Câu 6: Tư tưởng HCM về con người?
ưởng HCM về con người
Tư tưởng HCM về con người là một bộ phận quan trọng hợp thành hệ tư tưởng
HCM, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại trong việc xem xét, đánh giá và phát
huy vai trò to lớn của con người. Tư tưởng triết học đó là cơ sở để hình thành nên
lý luận giải phóng dân tộc, giải phóng con người và giải phóng XH. Đó là CN nhân
văn sâu sắc, là CN nhân đạo hiện thực.
ng nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ ChíMinh về con người
* Cách tiếp cận của Hồ Chỉ Minh về con người
- Con người đối với HCM vừa tồn tại với tư cách cá nhân, vừa là thành viên của
gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa,
phong phú. Người đã nêu: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, bầu bạn, họ
hàng. Nghĩa rộng, là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Con người, với
tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng với cộng đồng dân tộc và cả loài người trên thế giới.
- Tuy nhiên, HCM quan tâm trước hết và hơn cả là tuyệt đại bộ phận dân tộc, với
thành phần chủ yếu là toàn thể nhân dân LĐ. Nhân dân LĐ là tất cả những người
tham gia vào sự phát triển XH. Đó là cơng nhân, nơng dân, trí thức, các tầng lớp

XH, với những nghề nghiệp khác nhau.
- Con người trong tư tưởng của HCM là nhân dân, là đồng bào - những người lao
khổ đang bị áp bức đang cần có cái ăn, cái mặc, đang cần được giải phóng, chứ
không phải con người chung chung, trừu tượng, phi giai cấp, phi lịch sử.
- Xuất phát từ cách tiếp cận đó, HCM đã thấu hiểu được nhân dân mình, đồng bào
mình và tìm được con đường CM chân chính để giải phóng, đem lại hạnh phúc cho
nhân dân. “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no,
mặc đủ”1.
- Theo Người, “mục đích của CM là xây dựng một nước VN độc lập, thống nhất, tự
do, giàu mạnh. Làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc và xây dựng một XH
sung sướng, vẻ vang”.
* Về bản chất con người
- HCM cho rằng, con người khơng phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu.
Người nói: “Theo nghía rộng thì cả thế giới và trong một nước có THIỆN và có Ác.


Theo nghĩa hẹp thì trong bản thân và tư tưởng của mỗi một người cũng có THIỆN
và có ÁC”. Nhưng trong quan niệm của Người, thiện và ác cũng có những nội dung
riêng. “Nói về mỗi một người chúng ta, nếu hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Thế là THIỆN. Nếu chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, khơng lo
đến lợi ích chung của nước nhà, của dân tộc. thế là Ác. Thực hành chí cơng vơ tư,
cần kiệm liêm chính, thế là THIỆN. Nếu phạm phải quan liêu, mệnh lệnh, tham ô,
lười biếng. Thế là ÁC”
- Thống nhất với quan điểm của CN Mác-Lênin, HCM cho rằng, con người mang
bản chất XH. Bản chất của con người do hoàn cảnh XH quy định nên nó khơng
phải là cái sẵn có, con người khơng phải là thần thánh, mà cũng có tính tốt, tính
xấu, “người thế này người thế khác”. Người cho rằng, “hiền dữ phải đâu là tính
sẵn”. Người phủ nhận quan điểm cho rằng, đức tính con người là thiên tính, bẩm
sinh. Theo Người, bản tính con người là do mơi trường XH quy định, do giao lưu
XH mà hình thành, trong đó “phần nhiều do giáo dục mà nên”.

- Người cho rằng, “mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất
dần đi, đó là thái độ của người CM”1. Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương
tâm, đánh thức những gi tốt đẹp trong con người. Ngay cả đối với những người lầm
đường lạc lối, Chủ tịch HCM cũng rất khoan dung, độ lượng: “Năm ngón tay cũng
có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy
triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng
dõi của tồ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”.
- Từ việc xác định bản chất của con người, HCM cũng nêu ra nhiều phương thức để
giáo dục, xây dựng bản chất con người mới XHCN, đó là thơng qua LĐ, thơng qua
rèn luyện, tu dưỡng, nhất là rèn luyện đạo đức CM. “Muốn xây dựng CNXH, trước
hết cần có những con người XHCN”. Muốn có con người XHCN thỉ nhất thiết phải
có đạo đức CM, mà “đạo đức CM không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng luyện càng trong”. Người nói, với “sự cố gắng học tập
và cải tạo của mọi người, thi cái Ác trong mình chúng ta sẽ ngày càng bớt, cái
THIỆN ngày càng tăng”.
* Về vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng CNXH
- Khi nói về vai trị của con người trong sự nghiệp CM, HCM viết, CM là sự nghiệp
của quần chúng, vì vậy phải động viên quần chúng đứng lên làm CM. “Quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”, “Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của
dân”3. Nếu khơng có nhân dân thì khơng có đủ lực lượng làm CM. Chỉ có huy động
được tồn thể nhân dân thi sự nghiệp CM mới thành công.
- HCM tin ở sức mạnh của con người, của quần chúng nhân dân. Người cho rằng,
con người có khả năng làm biến đổi hồn cảnh, biến đổi lịch sử thơng qua hoạt
động thực tiễn của mình. Để làm CM thì phải biết dựa vào dân, tin dân. Muốn CM
thành cơng thì phải lấy dân làm gốc. “Trong bầu trời khơng gì quỷ bằng nhân dân.
Trong thế giới không gi mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” 4. Điều quan



trọng là HCM khơng chỉ nhìn thấy sức mạnh của nhân dân mà Người còn động viên
nhân dân tự đứng lên làm CM giải phóng cho mình. Đó là tư tưởng về con người
CM, con người thực tiễn.
- Có thể nói, hạt nhân trong tư tưởng triết học HCM là tư tưởng về con người. Tư
tường về con người lại là cội nguồn của CN nhân văn, nhân đạo hiện thực, là nội
dung cốt lõi của tư tưởng giải phóng và phát triển. Với ý nghĩa đó, có thể nói tư
tưởng triết học về con người của HCM mang tính triệt để, CM sâu sắc.
Câu 7: Vận dụng quan điểm của triết học Mác-Lênin, tư tưởng HCM vào xây
dựng con người VN hiện nay?
- Con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục đích cao nhất của
triết học Mác. Triết học Mác xuất phát từ con người và nhằm mục đích cao nhất là
giải phóng con người, phát triển con người.
- Vận dụng những tư tưởng khoa học và CM của triết học Mác-Lênin, ĐCS VN
khẳng định, việc xây dựng một quan hệ XH tiến bộ, lành mạnh, dân chủ, công
bằng, khắc phục những tha hóa bản chất người của XH cũ, tạo điều kiện để giải
phóng triệt đề và phát triển tồn diện con người là mục tiêu cao nhất trong đường
lối chính trị. Trên tinh thần đó, sau CM Tháng Tám năm 1945, đặc biệt là từ khi cả
nước bước vào thời kỳ xây dựng CNXH, các quan hệ XH đã được cải tạo cơ bản,
tạo cơ sở để phát triển cá nhân, XH tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và XH.
- Trong những năm đổi mới, vai trò của cá nhân được khẳng định, năng lực sáng tạo
của cá nhân được đề cao, đặc biệt là việc phát huy tính tích cực XH của người LĐ
trong phát triển KT, qua đó thúc đẩy nền sản xuất XH phát triển mạnh mẽ. Bên
cạnh đó, ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm của các cá nhân trong XH cũng ngày
càng được nâng cao, qua đó đóng góp vào sự phát triển chung của XH. Tuy nhiên,
dưới tác động mặt trái của KTTT, trước sức ép về nhu cầu vật chất, KT, nhiều cá
nhân làm KT, kiếm tiền, bất chấp những lợi ích chung của tập thể XH, trốn tránh
nghĩa vụ đối với XH, thậm chí vi phạm, xâm hại, chà đạp lên lợi ích của tập thể,
của XH. Hiện tượng trốn thuế, tham nhũng với quy mô ngày càng lớn, tính chất
ngày càng phức tạp khơng chỉ là sự tồn hại về giá trị vật chất, KT mà quan trọng
hơn nó làm xói mịn cấu trủc XH, làm suy yếu nền tảng đạo đức, làm tha hóa cá

nhân, phá vỡ mối liên kết giữa các thành viên trong XH, cản trở sự tiến bộ XH.
- Trong XH hiện nay, nhiều hiện tượng tiêu cực và những bất cập do điều kiện KTXH còn thấp kém đã cản trở sự phát triển cá nhân, ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa
cá nhân và XH.
+ Hiện tượng nhiều cá nhân người LĐ chưa được hường thành quả LĐ tương
xứng với mức đóng góp cho XH đang làm mất đi tính tích cực XH của người LĐ.
+ Đời sống, việc làm của nhiều giai tầng trong XH rất cịn nhiều khó khăn, ảnh
hưởng him đến hiệu quả nền sản xuất XH.
+ Mâu thuẫn giữa cá nhân với XH về mặt nghĩa vụ, quyền lợi ừong việc thụ hưởng
các lợi ích, mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp về việc thụ hưởng lợi ích XH.
Tình trạng bóc lột sức LĐ, bất cơng XH còn tồn tại... đang tạo ra những bất ổn XH
vả những hệ lụy xấu đối với sự phát triển đất nước.


- Ngoài ra, trong điều kiện hiện nay, khi các điều kiện vật chất trong XH còn
nhiều bất cập, hạn chế, thiếu thốn cũng cản trở rất nhiều việc phát huy tính tích cực,
năng động, sáng tạo, sở trưởng của các cá nhân, tạo ra khoảng cách nhất định giữa
cá nhân và XH. Trong những năm qua, tình trạng thừa LĐ, thiếu việc làm, thời gian
LĐ nhàn rỗi còn lớn, nhất là ờ các vùng nơng thơn; tình trạng đói nghèo cịn phổ
biến ở vùng sâu, vùng xa; tình trạng thiếu thốn trường lớp, cơ sở đào tạo nâng cao
chất lượng LĐ... chắc chắn đã tạo ra những lực cản đối với sự phát triển của các cá
nhân trong XH.
- Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, mối quan hệ giữa cá nhân và XH
chưa đạt đến sự hài hồ cũng là tất yếu khơng thể tránh khỏi. Bởi lẽ, XH đang tồn
tại một cơ cấu giai cấp đa dạng, phức tạp, với những nhóm lợi ích khác nhau, thậm
chí đối lập nhau. Đó cịn là cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái
lạc hậu ngay trong bản thân mỗi cá nhân và trên quy mơ tồn XH. Muốn giải quyết
hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và XH, tạo động lực cho sự phát triển XH theo
định hướng XHCN, địi hỏi chúng ta phải có những phương thức điều chỉnh, tác
động hợp lý, trong đó cơ bản nhất là điều chỉnh quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích XH theo những nguyên tắc nhất định.

- Trong khi giải quyết vấn đề lợi ích cần ừánh thái độ tả khuynh và hữu khuynh,
cần tiến hành thận trọng, từng bước, ưên cơ sở nắm rõ xu hướng vận động của các
lợi ích và thái độ của các giai cấp, tầng lớp, các nhóm, các cá nhân gắn liền với các
lợi ích đó. Điều này sẽ tạo ra một trạng thái tâm lý ổn định cho các chủ thể lợi ích,
tránh được tâm lý chống đối, phản kháng, tạo ra sự hỗn loạn XH. Nếu khơng có
một thái độ, cách thức giải quyết đúng chúng ta có thể tạo ra một dạng mâu thuẫn
lợi ích mới với tính chất và mức độ cao hon, hoặc có thể làm mất đi những điểm
tương đồng có thể sừ dụng, kết hợp để giải quyết mâu thuẫn thúc đẩy sự phát triển
XH.
- Ngoài ra, để tạo ra môi trường XH cho sự phát triển của các cá nhân, cân phải
xây dựng một hệ thong pháp luật, cơ chế đầy đủ đồng bộ tạo cơ sở pháp lý cho việc
giải quyết các vấn đề XH, đồng thời đẩy mạnh phát triển KT tạo ra tiền đề vật chất
để phát triển cá nhân. Có như vậy mới giải quyết tốt hài hoà mối quan hệ giữa cá
nhân và XH, tạo động lực cho sự phát triền đất nước theo định hướng XHCN.

- Thực tiễn CM nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo đã cho thấy, trên nền tảng
những nguyên lý lý luận của CN Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo, phù hợp điều
kiện của VN, ĐCS VN đã đề ra chủ trương, đường lối, phương pháp CM đúng đắn
để lãnh đạo nhân dân VN giành thắng lợi trong cuộc CM mùa Thu năm 1945, sáng
lập NN VN Dân chủ Cộng hòa; trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp
và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
đưa cả nước cùng đi lên CNXH. Thời đại ngày nay tồn Đảng nói chung, mỗi cán
bộ, đảng viên cần phải: Một là, Chú trọng học tập, nâng cao chất lượng, hiệu quả
việc học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển CN Mác - Lênin, tư tưởng HCM
để hiểu sâu sắc bản chất và tin tưởng vững chắc vào CN Mác - Lênin, tư tưởng


HCM, vào con đường đi lên CNXH và công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng,
lãnh đạo; để mỗi người khơng chỉ nói, viết và làm theo đúng chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của NN mà cịn vận dụng sáng tạo vào thực tiễn

cơng tác, để hồn thành tốt nhiệm vụ được giao phó; Hai là, Thường xuyên tu
dưỡng đạo đức CM, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phịng và chống những biểu hiện
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo lức, lối sống như phai nhạt mục tiêu, lý tưởng
XHCN, giảm sút niềm tin vào CN Mác - Lênin, tư tưởng HCM, vào xu thế khách
quan của lịch sử và sự thắng lợi của CNXH, chạy theo lối sống thực dụng, vị kỷ…
Đồng thời, chủ động phòng, chống và đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái, thù
địch, xuyên tạc về CN Mác - Lênin, tư tưởng HCM, về mục tiêu, lý tưởng XHCN
và chống phá Đảng, NN, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước…
bằng những việc làm cụ thể phù hợp chức năng, nhiệm vụ mình đảm nhiệm.
Câu 8: Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp ở VN hiện nay?
Những tư tưởng cơ bản và những nhận thức mới của ĐCS VN về đấu tranh giai
cấp của ĐCS VN thể hiện ở những nội dung sau:
Đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu
- Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung,
phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục nhận định: “Các mâu thuẫn cơ bản trên thế
giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển.
Hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu
tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh
chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích KT tiếp tục
diễn ra phức tạp”1. Trong xu thế đó, các thế lực thù địch với CNXH đang ráo riết
tiến hành mọi biện pháp và âm mưu chống phá sự nghiệp CM và độc lập dân tộc
của các quốc gia theo chế độ XHCN.
- Ở nước ta vẫn còn những lực lượng đi ngược lại lợi ích của nhân dân LĐ và
của dân tộc nên việc thực hiện đấu tranh giai cấp để bảo vệ thành quả CM, bảo vệ
lợi ích của nhân dân là một tất yếu.
Nội dung của đấu tranh giai cấp có nhiều thay đổi trong điều kiện hiện nay
* Trong lĩnh vực KT
- Thực hiện đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực KT thực chất là để phát triển
LLSX, phát triển mọi tiềm năng để chuẩn bị cơ sở vật chất để xây dựng CNXH.

V.I.Lênin từng nói, nếu khơng có sự tăng lên nhanh chóng của LLSX thì chúng ta
khơng có cơ sở vật chất để xây dựng CNXH.
- Thực chất của đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực KT là củng cố, duy trì sự thống
trị của QHSX XHCN; giữ vững độc lập, tự chủ về KT; chống áp bức bóc lột, bất
cơng; thực hiện kiểm soát chặt chẽ của cải, tài sản của NN và nhân dân...
* Trong lĩnh vực chính trị: Đấu tranh giai cấp là để bảo vệ thành quả CM; duy trì
và củng cố hệ thống chính trị XHCN, bảo vệ Đảng, bảo vệ NN; đấu tranh ngăn
chặn các thế lực thù địch, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân...


* Trong lĩnh vực tư tưởng: Giai cấp công nhân và ĐCS vạch trần âm mưu của các
thế lực thù địch, phản động; truyền bá thế giới quan khoa học, CM của CN MácLênin; xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh; phát huy được tính tích cực CM của
quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tồ quốc; đấu tranh bảo vệ
CN Mác-Lênin, bảo vệ đường lối của Đảng.
* Trong lĩnh vực văn hóa - XH: Đấu tranh chống lại tư tưởng phản văn hóa,
chống lối sống lai căng; xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất cơng; xây dựng quan hệ XH lành mạnh,
tiến bộ, văn minh, vì sự phát triển.
Có thể nói, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta nằm trong quy
luật chung của thời đại quá độ từ CN tư bản lên CNXH, thời đại giải phóng dân tộc,
thời đại của những hình thức đấu tranh giai cấp mới. Song, bên cạnh quy luật chung
đó, đấu tranh giai cấp ở VN có những biểu hiện đặc thù, những đặc điểm riêng biệt,
độc đáo, sinh động ờ mỗi quốc gia. Vì vậy, những nội dung, hình thức của cuộc đấu
tranh giai cấp phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể.
- Đấu tranh giai cấp ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập KT
quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới có nhiều phức tạp, phong trào CM
thế giới có những biến đồi to lớn. Do vậy, Đảng ta yêu cầu phải nhận thức cho đúng
thực chất, tính chất, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp. Giải quyết vấn
đề giai cấp phải trên quan điểm biện chứng, có thái độ thận trọng, bình tĩnh, có sự
xem xét vấn đề một cách thấu đáo, tránh thái độ tả khuynh, hữu khuynh. Quan điểm

bảo thủ, hẹp hịi, xơ cứng về vấn đề này khơng chi gây trở ngại cho cơng cuộc mở
cửa, hịa nhập vào đời sống KT quốc tế - một yêu cầu khách quan của thời đại hiện
nay, mà còn là nguy cơ chệch hướng XHCN.
- Đảng ta xác định, mặc dù thực chất đấu tranh giai cấp không thay đổi, nhưng ở
mỗi thời kỳ, do yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của CM mà nội dung, hình thức đấu tranh
giai cấp có thể thay đổi cho phù hợp. Trong điều kiện hiện nay, nhiệm vụ cơ bản
của đấu tranh giai cấp là tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường
liên minh giai cấp vững mạnh. Bởi vì, “Đại đồn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược của CM VN; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Câu 9: Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới
ở nước ta?
- Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử. Những thành quả to lớn đó là kết quả của quá trình nhận thức và thực
hiện đúng chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, tập trung là Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được thơng qua tại Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 và được bổ sung, phát triển năm 2011.
Trong đó, cốt lõi là việc nhận thức và xử lý các mối quan hệ lớn, có ý nghĩa như là
tính quy luật trong q trình xây dựng CNXH.
- Trong giai 1986-2006, các mối quan hệ lớn chưa được Đảng ta nêu ra riêng biệt,
mà được gắn vói nhận thức trong tổng thể các vấn đề lớn, như: đẩy mạnh công


nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền KTTT định hướng XHCN và xây dựng NN
pháp quyền VN.
- Đến Đại hội XI và Đại hội XII, việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn
đã tạo dựng toàn bộ diện mạo những vấn đề lớn cơ bản cần giải quyết trong suốt
quá trình đổi mới vì CNXH ở nước ta. Đó là các mối quan hệ:
+ Mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển : Đảng ta xác định đổi mới là
động lực; ổn định là điều kiện, tiền đề; phát triển nhanh và bền vững là mục đích.

Đổi mới, ổn định và phát triển đều do con người và vì con người. Con người vừa là
mục tiêu, động lực vừa là chủ thể của đổi mới, ổn định và phát triển.
+ Mối quan hệ giữa đổi mới KT và đổi mới chính trị: Đại hội VI xác định bắt đầu
từ đổi mới KT đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác; Đại hội VII xác định
đông thời đổi mới về KT phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
tổ chức chính trị; Đại hội VIII, Đảng ta rút ra kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
KT với đổi mới chính trị, lấy đổi mới KT làm trọng tâm; Đến Đại hội X Đảng ta
một lần nữa xác định đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức
và cách làm phù hợp; Đại hội XI chỉ rõ kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi
mới chính trị phải kết hợp với đổi mới KT theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn
thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.
+ Mối quan hệ giữa tuân theo quy luật của thị trường và bảo đảm định hướng
XHCN. Điểm đột phá trong nhận thức của Đảng ta là đã khẳng định KTTT không
phải là sản phẩm riêng của CNTB mà là thành tựu chung của nhân loại. KTTT định
hướng XHCN tuân theo những quy luật của KTTT đồng thời được định hướng, dẫn
dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH trong từng chặng đường
phát triển của thời kỳ quá độ.
+ Mối quan hệ giữa phát triển LLSX và xây dựng hồn thiện từng bước QHSX
XHCN. Trong tiến trình đổi mới KT, từ áp dụng cơ chế thị trường đến phát triển
mạnh mẽ nền KTTT định hướng XHCN , Đảng ta đã nổ lực đổi mới tư duy KT, kịp
thời điều chỉnh các mặt cấu thành QHSX nhằm giải phóng và thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ LLSX.
+ Mối quan hệ NN - thị trường.
+ Mối quan hệ giữa tăng trưởng KT và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng XH. Đảng ta luôn nhấn mạnh phát triển KT, văn hóa, XH đều vì con
người; tăng trưởng KT tạo nguồn lực để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công
bằng XH; giải quyết tốt các vấn đề XH sẽ tạo động lực phát triển KT, văn hóa; phát
triển văn hóa tạo nền tảng tinh thần XH và nguồn lực nội sinh để phát triển bền
vững.
+ Mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Xây dựng CNXH

và bảo vệ Tổ quốc là quy luật phát triển của CM nước ta. Bảo vệ là điều kiện để
xây dựng; xây dựng tạo sức mạnh để bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng, trong xây
dựng có bảo vệ phịng ngừa nguy cơ chệch hướng XHCN.
+ Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Độc lập tự chủ nhưng
không biệt lập, cơ lập với thế giới mà chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, là thành


viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
+ Mối quan hệ giữa giữa Đảng lãnh đạo, NN quản lý, nhân dân làm chủ.Đây là
mối quan hệ chính trị-XH và pháp lý giữa các chủ thể có vai trị, vị trí, chức năng
và nhiệm vụ khác nhau song đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH,
thực hiện dân chủ, bảo đảm và phát triển quyền làm chủ nhân dân.
Các mối quan hệ nêu trên có ý nghĩa như là tính quy luật trong q trình đổi mới.
Nhận thức các mối quan hệ lớn và liên hệ hữu cơ giữa chúng, Đảng ta xác định :
Phát triển KT là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa – nền
tảng tinh thần XH, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên. Từ thực tiễn đổi mới, nhất là trong điều kiện phát triển mạnh mẽ nền KTTT
và hội nhập quốc tế, chúng ta đạt được nhận thức mới về giải quyết các vấn đề XH
và giữ gìn bảo vệ mơi trường đó là điều kiện để phát triển bền vững, để đạt mục
tiêu nhân văn của phát triển là phát triển vì con người.
- Việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn trong 30 năm (1986-2016) đã
đạt được những thành tựu cơ bản sau:
+ Góp phần làm rõ hơn những đặc trưng bản chất của CNXH.
+ Góp phần vào sự hoàn thiện lý luận về CNXH, tạo ra bước phát triển toàn diện
của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Tuy vậy, việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ ở nước ta trong gần 30
năm qua vẫn còn những mặt hạn chế nhất định, đòi hỏi cần tiếp tục phải giải quyết.
Cụ thể là:
+ Chưa nhận thức đầy đủ vai trò, ý nghĩa, vị trí, tầm quan trọng của việc giải quyết

các mối quan hệ, cũng như mối liên hệ hữu cơ của việc giải quyết chúng với những
đặc trưng, phương hướng xây dựng CNXH.
+ Nhiều nội dung của các mối quan hệ chưa được làm rõ, chủ yếu mới mang tính
phương pháp luận. Do vậy, trong tổ chức thực hiện trên thực tế nhất là ở các bộ,
ban, ngành và cấp cơ sở còn lúng túng, bị động, thiếu nhất quán.
+ Mặt khác, những mối quan hệ nêu trên chỉ là những mối quan hệ chủ yếu, trong
điều kiện hiện nay. Khi công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, thì xuất hiện những
quan hệ mới cần chú ý nhận thức và giải quyết. Đó là quan hệ giữa mục tiêu chiến
lược và mục tiêu sách lược; quan hệ giữa phát huy nội lực và phát huy ngoại lực;
quan hệ giữa thực hành dân chủ và thực hiện kỷ cương, pháp luật..
- Đến nay, qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, mặc dù trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, nhanh
chóng, khó dự báo.Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, toàn Đảng,
toàn dân, toàn qn ta đã đồn kết một lịng, nỗ lực phấn đấu, vượt qua mn vàn
khó khăn, thách thức và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
được thế giới ghi nhận, đánh giá cao. Đúng như lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng đã từng nhận xét: “Chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, vị
thế và uy tín trên trường quốc tế như ngày nay”.


×