Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Lạm phát ở Việt Nam Áp lực đối với tăng trưởng và các giải pháp kiềm chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.05 KB, 42 trang )

1

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng trưởng bền vững và ổn định lạm phát ở mức thấp luôn là những
mục tiêu của điều tiết vĩ mô ở tất cả các nướcLạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến
sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, lao
động, việc làm, tiết kiệm cũng như đầu tư và phân phối lại thu nhập quốc dân
trong nền kinh tế. Vì vậy mà ảnh hưởng của lạm phát có sức bao trùm rất lớn,
không chỉ đơn thuần là sự mất giá đồng tiền hay vấn đề tăng lên của mức giá
chung mà sâu xa hơn nó cịn là tiền đề cho bài toán tăng trưởng và phát triển bền
vững của nền kinh tế. Các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc các giải pháp
kinh tế vĩ mô để kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển
kinh tế hiện nay vấn đề này càng trở nên cần thiết. Khơng có gì đáng ngạc nhiên
khi câu hỏi về sự tồn tại và bản chất của mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng đã được các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đặc biệt quan tâm và trở
thành trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về chính sách. Mặc dù câu trả lời về
mối quan hệ chính xác giữa hai biến số này vẫn còn tiếp tục được tranh luận,
song nhiều kết luận chung đã được đưa ra. Phần lớn các nhà kinh tế đều tin rằng
ổn định lạm phát ở mức thấp là môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi để khuyến
khích tiết kiệm, mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cả lạm phát quá
cao và lạm phát quá thấp đều có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Điều quan trọng là cần phải ổn định lạm phát ở mức được coi là có lợi cho tăng
trưởng kinh tế dài hạn. Trên cơ sở khung khổ lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế và
diễn biến lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt nam sau đổi mới, nhiều học
giả cho rằng mức lạm phát tối ưu đối với Việt nam có thể nằm trong khoảng 57% năm. Tuy nhiên, đó mới chỉ là ước tính sơ bộ. Để đưa ra một kết quả đáng tin
cậy, cần có một cơng trình nghiên cứu được đầu tư thoả đáng.
Vì vậy, tơi quyết định chọn đề tài: “Lạm phát ở Việt Nam:Áp lực đối với


tăng trưởng và các giải pháp kiềm chế” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đính nghiên cứu của đề tài này là làm rõ các vấn đề liên quan đến
lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu diễn biến lạm phát ở Việt Nam và
bàn về các chính sách kiểm sốt lạm phát sao cho có lợi cho tăng trưởng kinh tế
dài hạn.

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài chuyên đề là mối quan hệ giưã lạm phát và
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là thực tiễn diễn biến lạm
phát và tăng trưởng của nước ta trong giai đoạn từ 1986 đến nay, và phương
hướng sử dụng chính sách kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu và tổng hợp tài liệu,
phân tích, xử lý và tìm ra những quy luật từ các số liệu thống kê như: tổng hợp,
phân tích, hệ thống hóa, thống kê kết hợp và hồi quy ước lượng theo phương
pháp bình phương nhỏ nhất.
5. Bố cục của chuyên đề
Với mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài như trên thì bài chuyên đề
được chia làm ba chương như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận về tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh

tế và chính sách kiềm chế lạm phát
Chương II: Thực trạng lạm phát và và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Chương III: Một số kiến nghị nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời
gian tới
6. Những đóng góp của chuyên đề
Kết quả của chuyên đề thu được là hiểu biết sâu hơn những vẫn đề lý luận
về lạm phát và tăng trưởng kinh tế, các biệm pháp kiềm chế lạm phát và diễn
biến thực tế ở Việt Nam, đề xuất một số kiến nghị trong việc kiểm soát lạm phát
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất
nhiều của các thầy cô giáo trong khoa Kinh Tế Học và Cơ quan thực tập:” Trung
tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách – Đại học Kinh Tế - Đại học Quốc Gia Hà
Nội. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các cá nhân và tổ
chức trên, đồng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Cơng đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ
bảo và hỗ trợ tơi trong q trình hồn thành chun đề tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

3

CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận về tác động của lạm phát đến tăng
trưởng kinh tế và chính sách kiềm chế lạm phát
I. Lạm phát
1. Khái niệm và đo lường

1.1 Khái niệm:
Theo định nghĩa của Milton Friedman: “Lạm phát là hiện tượng giá cả
tăng nhanh chóng và liên tục trong một thời gian dài”. Định nghĩa này cũng được
các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ ( Phan Thị Hồng Hải, 2005).
Theo quan điểm này, lạm phát khơng chỉ được nhìn nhận ở mặt biểu hiện
của nó là sự tăng lên của mức giá chung, mà còn biểu hiện rõ yếu tố quyết định
bản chất và tính đặc thù của lạm phát cũng như ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế
là tính chất nhanh, liên tục trong thời gian dài.
Một định nghĩa nữa chung nhất về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện
đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường:
“Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”.
1.2 Phương pháp tính lạm phát
Vì lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung nên để đo lường mức độ lạm
phát, người ta căn cứ vào mức độ tăng của mức giá chung.
1.2.1 Phương pháp xác định dựa trên chỉ số giá
Để đánh giá mức giá chung của tồn bộ hàng hóa và dịch vụ trong xã hội, người
ta xây dựng hai chỉ số giá sau:
a. Chỉ số giá tiêu dung ( CPI- Consumer Price Index)
Chỉ số giá tiêu dùng đo lường mức giá cả bình quân của giỏ hàng hóa và
dịch vụ cụ thể được các hộ gia đình tiêu dùng.
Để xác định CPI, người ta chọn một giỏ hàng hóa và dịch vụ tiêu biểu cho
nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình trong một gian đoạn nhất định, đồng thời
xác định mức độ quan trọng của từng hàng hóa và dịch vụ trong giỏ hàng hóa đó.
Cơng thức tính CPI:
n

I p  i pj x d j
j 1

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775


LỚP:KINH TẾ HỌC


4

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

Trong đó:
Ip: chỉ số giá tiêu dùng hay CPI
Ipj: chỉ số giá cả của hàng hóa hoặc dịch vụ thứ j
( được tính bằng cách lấy mức giá kỳ nghiên cứu chia cho mức giá kỳ gốc
rồi nhân với 100)
n

dj: tỷ trọng mức tiêu dung của hàng hóa hoặc dịch vụ thứ j (  d j 1 )
j 1

b. Chỉ số giá sản xuất (PPI- Producer Price Index)
Chỉ số giá sản xuất đo lường mức giá cả đầu vào.
Chỉ số giá sản xuất được xác định theo phương pháp gần tương tự như chỉ
số giá tiêu dùng:
n

I p  i pj x d j
j1

Trong đó:
Ip: chỉ số giá sản xuất PPI
i pj: Chỉ số giá cả của hàng hóa hoặc dịch vụ đầu vào thứ j (

n

d
j 1

j

1 )

( được tính bằng cách lấy mức giá kỳ nghiên cứu chia cho mức giá kỳ gốc
rồi nhân với 100)
dj: tỷ trọng đầu vào của hàng hóa hoặc dịch vụ thứ j
Tỷ lệ lạm phát được tính theo cơng thức:
Gp= Ip/Ip-1 X 100%
Trong đó:
Gp: tỷ lệ lạm phát (%)
Ip: chỉ số giá ( tiêu dùng hoặc sản xuất) của thời kỳ hiện nay
Ip-1: chỉ số giá ( tiêu dùng hoặc sản xuất) của thời trước đó
Nhưng trong thực tế, việc thu thập số liệu và xác định tỷ trọng phức tạp
nên rất ít quốc gia tính lạm phát theo chỉ số này.
1.2.2 Phương pháp xác định dựa trên chỉ số giảm phát tổng sản phẩm
quốc nội
Chỉ số này đo lường mức giá bình qn của tồn bộ các loại hàng hóa và
dịch vụ tạo nên tổng sản phẩm quốc nội. Nó được xác định theo cơng thức sau:

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC



5

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

Chỉ số giảm phát:
GDP=GDPdn/GDPtt x 100
Trong đó:
GDP danh nghĩa ( GDPdn) đo lường sản lượng theo giá hiện hành
GDP thực tế (GDPtt) đo lường sản lượng năm hiện tại theo giá năm được
chọn làm năm gốc.
Tỷ lệ lạm phát sau đó được tính trên cơ sở các chỉ số giảm phát GDP
tương tự như khi tính theo các chỉ số CPI, PPI trên.
2. Phân loại lạm phát
Căn cứ vào mức lạm phát người ta phân lạm phát ra làm ba loại chính:
2.1 Lạm phát vừa phải
Tỷ lệ lạm phát dưới 10%. Đây là loại lạm phát phổ biến và tồn tại gần như
thường xuyên trong hầu hết các nền kinh tế.
Lạm phát vừa phải xảy ra khi tốc độ tăng giá ở mức một con số. Trong
thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn
định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi khơng
cao, khơng xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn…
Do vậy giá trị tiền tệ tương đối ổn định, tạo thuận lợi cho môi trường kinh
tế xã hội. Tác hại của loại lạm phát này là không đáng kể.
2.2 Lạm phát phi mã
Mức giá tăng rất nhanh ở tỷ lệ hai hoặc ba con số, từ 20% đến 100% một
năm hoặc cao hơn nữa. Mức lạm phát này gây biến động lớn về kinh tế, các hợp
đồng được chỉ số hóa. Lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động
sản và chỉ gửi tiền khi lãi suất cao.
Việc kiểm sốt lạm phát lúc này địi hỏi các biện pháp tài chính- tiền tệ
mạnh nếu khơng sẽ dẫn đến siêu lạm phát.

2.3 Siêu lạm phát
Theo định nghĩa của Cagan (1956), siêu lạm phát được xác định khi tỷ lệ
lạm phát hàng tháng vượt quá 50%. Đặc trưng đầu tiên của siêu lạm phát là sự
phá vỡ hoàn toàn hệ thống tài chính tiền tệ. Với tỷ lệ lạm phát hàng tháng lên tới
ba, bốn, năm con số. Lúc này người ta sẽ rời bỏ đồng nội tệ để chuyển sang giữ
vàng, bạc, ngoại tệ hoặc hàng hóa. Đặc trưng thứ hai là mức tài trợ cho thâm hụt
ngân sách nhà nước quá cao. Trong thực tế, siêu lạm phát thường đi đơi với suy
thối, thất nghiệp và tình trạng bất ổn xã hội nghiêm trọng.

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


6

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

3. Các nhân tố ảnh hưởng
3.1. Lạm phát chi phí đẩy:
Lạm phát chi phí đẩy xảy ra khi giá cả các đầu vào quan trọng trong nền
kinh tế tăng lên.
Giả sử lúc đầu nền kinh tế tại điểm 1, là giao điểm của đường tổng cầu
AD1 và đường tổng cung AS1, với mức sản lượng tự nhiên và tỉ lệ thất nghiệp tự
nhiên. Do mong muốn có một mức sống cao hơn hoặc do cho rằng tỉ lệ lạm phát
dự tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao, những người cơng nhân đấu tranh địi tăng
lương. Ảnh hưởng của việc tăng lương ( cũng như ảnh hưởng của những cú sốc
cung tiêu cực) làm đường tổng cung AS1 dịch chuyển sang AS2.
Đồ thị 1: Lạm phát chi phí đẩy
Tổng mức giá

AS3
AS2
P3

3

AS1

2’
P2
P1’

2
1’
AD3

P1

1
AD2

Y’

Yn

AD1
Tổng sản lượng

Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 đến điểm 1’- giao điểm của đường tổng
cung mới AS2 với đường tổng cầu AD1. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản

lượng tự nhiên Y’ (Y’ < Yn) và tỉ lệ thất nghiệp cao hơn tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên
đồng thời mức giá cả tăng lên đến P1’.
Vì mục đích muốn duy trì một mức cơng ăn việc làm cao hơn hiện tại,
chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh linh hoạt nhằm tác động lên
tổng cầu, làm tăng tổng cầu, lúc này đường tổng cầu AD1 dịch chuyển ra AD2,

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


7

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tự nhiên tại điểm cân bằng mới- điểm 2,
mức giá cả tăng lên P2.
Tại mức giá cao hơn, các nguyên nhân làm tăng chi phí lại xuất hiện, quá
trình điều chỉnh của tổng cung và sự đáp lại của tổng cầu được lặp lại, làm cho
giá cả tiếp tục tăng trong khi mức sản xuất dao động dưới mức sản lượng tiềm
năng- điểm 2’, kết quả là đường tổng cung lại chuyển vào đến AS3, thất nghiệp
lại tăng lên mức cao hơn mức tự nhiên và chính phủ lại tiếp tục phải thực hiện
các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch chuyển đường tổng cầu ra AD3 để
đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tự nhiên và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức
giá cả cũng tăng lên đến P3. Nếu quá trình này cứ tiếp diễn thì sẽ dẫn đến giá cả
liên tục tăng và đây chính là tình trạng lạm phát chi phí đẩy.
3.2 Lạm phát cầu kéo
Lạm phát cầu kéo là lạm phát do tổng cầu (AD)- tổng chi tiêu của xã hội
tăng lên, vượt quá mức cung ứng hàng hóa của xã hội, dẫn đến áp lực làm tăng
giá cả. Nói cách khác, bất kỳ lý do nào làm cho tổng cầu tăng lên đều dẫn đến sự

tăng giá về mặt ngắn hạn.
Đồ thị 2: Lạm phát cầu kéo
Tổng mức giá
P
AS3

P3
P2
P1

AS2
AS1

3

P3

2

1’

P2
P1

2’

1

Yo


AD3
AD2
AD1

Y1

Tổng sản lượng
P3
P2sản lượng tiềm năng, và mức
Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt mức
P1 tới AD2 do chính sách tiền tệ
công ăn việc làm đầy đủ. Khi tổng cầu tăng từ AD1

mở rộng hoặc do mức chi tiêu ngân sách tăng lên, điểm cân bằng mới của nền
kinh tế chuyển tới điểm 1’. Tại đó mức giá bắt đầu tăng lên và sản lượng thực tế

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

8

vượt quá mức sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên điểm cân bằng này tồn tại không
lâu. Do tỷ lệ thất nghiệp lúc này hơn mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên( nền kinh tế
đạt mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại mức sản lượng tiềm năng) nên áo lực tăng
lương xuất hiện, làm cho chi phí sản xuất tăng lên, đường tổng cung AS1 bắt đầu
dịch chuyển sang trái cho tới AS2 thì dừng lại, khi đó mức sản lượng quay về

mức sản lượng tiềm năng, giá cả tăng lên tới P2. Nếu tổng cầu tiếp tục tăng, điểm
cân bằng mới của nền kinh tế lại được chuyển đến B khi tổng cầu dịch chuyển từ
AD2 tới AD3, mức giá cả và sản lượng thực tế tăng lên, vượt quá mức sản lượng
tiềm năng. Quá trình điều chỉnh lương được lặp lại đẩy AS2 tới AS3, mức giá
tiếp tục bị đẩy lên cao (P3) khi tổng cầu tiếp tục tăng nhưng sản lượng thực tế
vẫn cố định ở mức sản lượng tiềm năng về mặt dài hạn.
Sự tác động qua lại của việc tăng tiền lương và tăng tổng cầu làm cho mức giá
cả bị đẩy lên trong khi mức sản lượng thực tế được duy trì ở mức sản lượng tiềm
năng chính là bản chất của lạm phát cầu kéo.
3.3 Lạm phát tiền tệ
Theo trường phái tiền tệ, lạm phát là một hiện tượng thuần túy tiền tệ, giá
tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan
điểm này thì lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông
lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường.
Theo nhà kinh tế học Milton Friedman: Lạm phát do cung tiền cao là hiện
tượng xảy ra khi tăng cung tiền tệ cao hơn cung hàng hóa. Trường hợp này xảy ra
khi Ngân hàng trung ương cung ứng một lượng tiền vượt quá cầu tiền tệ của nền
kinh tế để bù đắp thâm hụt của Ngân sách nhà nước hoặc mở rộng tín dụng của
các Ngân hàng thương mại. Khi lượng tiền quá lớn nằm trong tay người dân sẽ
dẫn đến việc tăng tổng cầu hàng hóa dịch vụ, mà tổng cung hàng hóa và dịch vụ
ở một thời điểm nhất định chưa kịp tăng, làm cho giá cả tăng lên.
Các nhà theo quan điểm trường phái tiền tệ cũng không phản đối những
mất cân đối của nền kinh tế tác động làm cho giá tăng lên, nhưng họ lý giải rằng,
chung quy vẫn là do lượng cung ứng tiền tệ vượt quá cầu. Vì họ cho rằng nếu
cung tiền tệ khơng tăng thì cầu hàng hóa sẽ bị khống chế lại và giá cũng không
thể tăng lên do đã tạo ra được một sự cân bằng thị trường mới ở mức cung cầu
tiền tệ và hàng hóa giới hạn.
4. Chính sách kiềm chế lạm phát

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775


LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

9

Về mặt dài hạn, việc kiềm chế lạm phát, giữ giá trị tiền tệ ổn định sẽ tạo
điều kiện tăng sản lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì thế duy trì sự ổn định
tiền tệ là mục tiêu dài hạn của bất kỳ nền kinh tế nào. Nhưng trong từng thời kỳ
việc lựa chọn các giải pháp kiềm chế lạm phát cũng như liều lượng tác động của
nó phải phù hợp với yêu cầu tăng trưởng và các áp lực xã hội mà nền kinh tế phải
gánh chịu.
Việc đưa ra các giải pháp chống lạm phát thường xuất phát từ sự phân tích
đúng đắn nguyên nhân gây nên lạm phát. Lạm phát xuất hiện khi mất cân đối
giữa tổng cung và tổng cầu hàng hóa cũng như mất cân đối giữa cung và cầu tiền
tệ. Nguyên nhân của lạm phát bao gồm nhiều yếu tố thể hiện qua các hình thức
như lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh
tế, lạm phát do tình trạng thiếu ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội… Để giải
quyết những nguyên nhân này, chính phủ các nước sử dụng hệ thống các giải
pháp nhằm làm giảm sự gia tăng của tổng cầu hoặc khắc phục các nguyên nhân
làm gia tăng chi phí.
4.1 Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu
Trước hết là thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt do nguyên nhân cơ
bản của lạm phát cầu kéo là sự gia tăng của khối lượng tiền cung ứng. Sự hạn chế
cung ứng tiền sẽ có hiệu quả ngay đến sự giảm sút của nhu cầu có khả năng
thanh tốn của xã hội. Một chính sách tiền tệ thắt chặt được bắt đầu bằng việc
kiểm soát và hạn chế cung ứng tiền cơ sở (MB), từ đó hạn chế khả năng mở rộng
tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại. Lãi suất tăng lên sẽ làm hạn chế

nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, làm giảm áp lực đối với hàng hóa và dịch vụ cung
ứng. Cùng với việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt là sự kiểm sốt gắt gao
chất lượng tín dụng nhằm hạn chế khối lượng tín dụng, đồng thời đảm bảo nguồn
tiền cung ứng được sử dụng một cách hiệu quả.
Thứ hai, việc kiểm soát chi tiêu của ngân sách nhà nước từ trung ương
đến địa phương nhằm đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong chi tiêu ngân sách: rà
soát lại cơ cấu chi tiêu, cắt giảm các khoản đầu tư khơng có tính khả thi và các
khoản chi phúc lợi vượt quá khả năng của nền kinh tế, cải tiến lại bộ máy quản lý
nhà nước vốn cồng kềnh, khơng hiệu quả, gây lãng phí ngân sách. Khai thác các
nguồn thu, đặc biệt là thu thuế nhằm giảm mức bội chi, cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước… Và cuối cùng là hạn chế phát hành tiền đủ bù đắp thiếu hụt
ngân sách.

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

10

Thứ ba, thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm, giảm tiêu dùng. Lãi
suất danh nghĩa được nâng cao hơn tỷ lệ lạm phát để hấp dẫn tiền gửi. Biện pháp
này thường được sử dụng trong các trường hợp lạm phát cao và có tác động tức
thời. Tuy nhiên, trong thời gian áp dụng chính sách lãi suất cao, cần có sự điều
chỉnh linh hoạt cho phù hợp với mức độ biến động lạm phát và hạn chế hậu quả
tiềm tàng cho các tổ chức nhận tiền gửi.
Và trong điều kiện nền kinh tế mở, sự can thiệp vào tỷ giá nhằm điều
chỉnh tỷ giá tăng dần dần ( chứ không để tăng lên ngay) theo mức độ lạm phát

cũng được sử dụng như một giải pháp nhằm giảm cầu do tỷ giá tăng khiến giá
hàng xuất khẩu rẻ đi làm tăng nhu cầu xuất khẩu dẫn đến tăng tổng cầu và do đó
là tăng sức ép lên giá. Mặt khác, việc điều chỉnh tỷ giá từ từ cũng sẽ làm cho giá
nội địa của hàng nhập khẩu không tăng nhanh quá, giảm bớt áp lực tăng mặt
bằng giá trong nước. Tuy nhiên hành động can thiệp này có thể làm cạn kiệt
nguồn dự trữ ngoại tệ vì phải bán ra để kìm hãm tỷ giá tăng. Chính vì thế việc sử
dụng giải pháp này cũng cần cân nhắc đến khả năng dự trữ ngoại hối cũng như
khả năng phục hồi nguồn dự trữ của quốc gia.
4.2 Nhóm giải pháp tác động vào tổng cung
Giải pháp quan trọng nhất là tác động vào mối quan hệ giữa mức tăng tiền
lương và mức tăng của năng suất lao động xã hội. Thực chất là thiết lập một cơ
chế để đảm bảo mức chi trả tiền lương phù hợp với hiệu quả kinh doanh của từng
doanh nghiệp cũng như tồn bộ nền kinh tế. Sự thành cơng của cơ chế này sẽ hạn
chế những đòi hỏi tăng tiền lương (chi phí chủ yếu trong giá thành sản phẩm) bất
hợp lý dẫn đến vòng luẩn quẩn: tăng lương tăng thu nhập tăng tiêu dùng
tăng giá tăng lương…Việc thiết lập cơ chế tiền lương trong khuôn khổ hiệu
quả kinh doanh được thực hiện bằng các phương pháp khác nhau: có thể nhà
nước tham gia ấn định các mức thu nhập một cách đơn phương (Mỹ), có thể trên
cơ sở thỏa thuận giữa nhà nước, giới chủ và tổ chức cơng đồn để xây dựng một
hệ thống các mức thu nhập (Thủy Điển, Úc) hoặc thỏa thuận tiền lương được
thực hiện ngay tại cơ sở kinh doanh giữa giới chủ và đại diện cơng đồn
( PGS.TS Nguyễn Văn Tiến).Chính sách kiểm sốt giá cả phải được tiến hành
đồng thời với cơ chế tiền lương nhằm hạn chế sự biến động của tiền lương thực
tế, tránh rơi vào vịng xốy: lạm phát lương- giá- tiền.
Và tiếp theo là các giải pháp tác động vào chi phí ngồi lương nhằm sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả như: xây dựng định mức tiêu hao nguyên liệu và kỷ

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC



CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

11

luật lao động nhằm tôn trọng định mức đó, hợp lý hóa nguồn khai thác, vận
chuyển và sử dụng nguyên liệu; hạn chế tối đa các chi phí trung gian làm tăng giá
nguyên liệu. Trong trường hợp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại, cần quan tâm tới
những ảnh hưởng bên ngồi đến giá xuất khẩu và có xu hướng tìm nguyên liệu
thay thế nếu giá tăng quá cao, sự giúp sức của chính sách tỷ giá cũng như thuế
nhập khẩu đóng một vai trị quan trọng trong việc giảm giá nội địa nguyên liệu
nhập. Ngoài ra, các chi phí dây chuyền cơng nghệ bất hợp lý cũng phải được xem
xét và giảm thiểu tối đa.
Bên cạnh đó là các giải pháp tình thế và tác động tức thời đến cân đối tiền
hàng như nhập khẩu hàng hóa, nhất là các hàng hóa đang khan hiếm, góp phần
làm giảm áp lực đối với giá cả. Tuy nhiên giải pháp này chứa đựng những nguy
cơ tiềm tàng: làm cạn kiệt nguồn dự trữ quốc tế, tạo thói quen dùng hàng ngoại
và đặc biệt làm giảm sức sản xuất trong nước.
Tăng khả năng sản xuất trong nước được coi là giải pháp chiến lược cơ
bản nhất, tạo cơ sở ổn định tiền tệ một cách vững chắc. Thực chất đây là giải
pháp nhằm tăng mức sản lượng tiềm năng của xã hội. Đây là chiến lược dài hạn
tập trung vào việc khai thác triệt để năng lực sản xuất của xã hội, nâng cao trình
độ của lực lượng lao động, đổi mới thiết bị hiện đại hóa dây chuyền sản xuất và
quan trọng nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khuyến khích cạnh tranh và
hiệu quả.
II. Tăng trưởng
1. Khái niệm và đo lường
I.1 Khái niệm
Theo nghĩa chung nhất, tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng

lên hay gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất
định. Hay nói một cách cụ thể hơn, tăng trưởng kinh tế là sự tăng thu nhập quốc
dân và quốc dân đầu người.
I.2 Đo lường
Tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách so sánh quy mô sản lượng
giữa các thời kỳ.
Tốc độ tăng trưởng (gt):
gt = (Yt –Yt-1)/Yt-1 x 100%
Trong đó: gt là tốc độ tăng trưởng thời kỳ t
Y là GDP thực tế của thời kỳ t.

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

12

Thực chất, Y chính là tổng sản phẩm quốc nội ( GDP) hay tổng sản phẩm
quốc dân (GNP). Như chúng ta đã biết GDP là thước đo được chấp nhận rộng rãi
về mức sản lượng của một nền kinh tế. Tất nhiên ở đây chúng ta nói đến GDP
thực tế chứ không phải GDP danh nghĩa, tức là đã có sự loại bỏ sự biến động của
giá cả theo thời gian ( tỷ lệ lạm phát).
Thước đo trên có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong khi
GDP thực tế lại tăng trưởng chậm. Một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về
tăng trưởng kinh tế tính theo mức sản lượng bình qn đầu người được tính bằng
tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong năm chia cho dân số.
Chính vì vậy chỉ tiêu ý nghĩa hơn về tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần

trăm thay đổi của GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ nghiên cứu so
với thời kỳ trước- thơng thường tính cho một năm.
gtpc = (yt- yt-1)/yt-1 x 100%
Trong đó: gtpc là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người thời kỳ t
y là GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ t.
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về sức sản xuất của nền
kinh tế. Càng ngày thì tăng trưởng kinh tế càng được gắn với yêu cầu tính bền
vững hay yêu cầu việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là
tăng trưởng không những phải nhanh mà phải đảm bảo liên tục, quy mô hiệu quả
và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người cao. Hơn thế nữa quá trình ấy phải
được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trị quyết định là khoa học cơng nghệ và vốn
nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
2. Các nhân tố ảnh hưởng
- Lao động (L): Là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây chúng ta chỉ
quan niệm lao động là sự tăng trưởng về số lượng của nguồn lao động xuất hiện
do tăng dân số hay tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Những mơ hình tăng
trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến chất lượng của lao động gọi là
vốn nhân lực (trình độ và kỹ năng của lực lượng lao động), đó là các lao động có
kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành máy móc thiết bị phức tạp và có sáng
kiến, phương pháp mới trong hoạt động kinh tế.
- Tư bản (K): Là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp
đến tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mơ có liên quan trực
tiếp đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ khơng phải
dưới dạng tiền (giá trị), nó là tồn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC



CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

13

kinh tế. Nên đầu tư vào tư bản hiện vật như xây dựng nhà máy mới, mua sắm
máy móc thiết bị mới cũng như các phương tiện vận tải và viễn thông mới sẽ
thúc đẩy tăng trưởng đạt hiệu quả cao.
- Công nghệ kỹ thuật (T): Là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng
trưởng trong điều kiện hiện đại. Yếu tố này cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng:
thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học,
nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm, quy trình
cơng nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả
nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ chung của sản xuất.
Yếu tố cơng nghệ được hiểu theo nghĩa toàn vẹn như thế đã được K.Marx xem
như là “chiếc đũa thần tăng thêm sự giàu có của cải xã hội”. Cịn Solow thì cho
rằng “tất cả các tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn đều thu được nhờ
tiến bộ kỹ thuật”, Kuznets và Samuelson đều khẳng định: công nghệ kỹ thuật là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững”. Vì vậy ln ln
phải đổi mới cơng nghệ tạo ra những sản phẩm mới, các phương pháp sản xuất
mới, và hình thức tổ chức kinh doanh mới; và đầu tư vào tư bản con người thông
qua đào tạo hay tích lũy kinh nghiệm từ thực tiễn cơng tác.
III. Tác động lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định.
Tuy nhiên mức độ gắn kết như thế nào vẫn là vấn đề tranh cãi.
Các nhà kinh tế theo trường phái cơ cấu lập luận cho rằng lạm phát và tăng
trưởng có mối quan hệ tỉ lệ thuận, nếu có tăng trưởng kinh tế tất có lạm phát. Với
lý luận này, ở một số nước đang phát triển, lạm phát được coi là yếu tố tích cực
để đảy mạnh tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát sẽ làm tăng tiết kiệm và đầu tư
do chuyển thu nhập từ những người làm công ăn lương sang các chủ doanh
nghiệp. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng khoản tiết kiệm từ lợi

nhuận cao hơn tăng khoản tiết kiệm từ lương. Mức đầu tư và tiết kiệm thực tế sẽ
tăng lên, kết quả là đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Lạm phát cũng có thể làm
phân phối lại thu nhập từ khu vực tư nhân sang khu vực nhà nước, thậm chí nếu
dự báo và điều chỉnh một cách hồn tồn được lạm phát thì lạm phát giống tăng
thuế đối với khu vực tư nhân để tăng thu nhập cho khu vực nhà nước, và tăng

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

14

nguồn cho đầu tư thực tế. Kết quả là làm tăng tổng đầu tư và cuối cùng là tăng
trưởng kinh tế được tăng lên.
Tuy nhiên, lập luận trên không tránh bị phản đối. Một số nhà kinh tế cho
rằng lạm phát làm mức lãi suất thực tế giảm, tạo ra mất cân bằng ở thị trường
vốn. Điều này làm cho cung nguồn vốn đầu tư giảm, và kết quả là đầu tư tư nhân
bị hạn chế do cung nguồn vay bị giới hạn, nguồn lực từ khu vực tư nhân chuyển
sang khu vực nhà nước, từ đó đầu tư nhà nước có thể đẩy đầu tư tư nhân ra ngồi.
Do đó, lạm phát đưa đến giảm lãi suất thực dương và mất cân bằng thị trường
vốn, kết quả là đầu tư và tăng trưởng kinh tế giảm. Nếu lạm phát cao và ln
ln biến đổi thì đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh sẽ dồn sang đầu tư thu lợi
nhuận nhanh và giảm đầu tư dài hạn, do đó chất lượng đầu tư bị giảm sút. Hơn
nữa lạm phát cao thì vốn trong nước dư thừa và vốn ngoài nước sẽ khan hiếm do
nhiều nhà đầu tư không dám mạo hiểm đầu tư vào, bên cạnh đó tỉ giá hối đối
khơng phải là thả nổi mà hoàn toàn theo cơ chế thị trường, nên nhập khẩu tăng
lên và xuất khẩu giảm, cán cân thương mại bị thâm hụt trầm trọng, kết quả làm

cho nền kinh tế khó khăn và tăng trưởng kinh tế giảm sút.
Theo quan điểm triết chung, một số nghiên cứu theo lối kinh nghiệm cho
thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua
một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là phi
tuyến tính( hình chữ U).
Nhiều mơ hình kinh tế lượng đã được xây dựng để khảo sát phải chăng có
tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng dài hạn và phải chăng mối quan
hệ đó có dạng phi tuyến, tức là khi lạm phát ở mức thấp thì mối quan hệ này có
thể là thuận chiều - lạm phát thấp đi kèm với tăng trưởng thấp, nhưng khi lạm
phát vượt qua một ngưỡng nào đó mối quan hệ này trở thành ngược chiều - lạm
phát cao sẽ có ảnh hưởng bất lợi đối với tăng trưởng kinh tế.
Năm 1959, Tun Wai khi nghiên cứu số liệu của 31 nước đang phát triển
trong giai đoạn 1938-54 dã phát hiện một mối quan hệ dương giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế đến một tỷ lệ lạm phát nhất định, sau đó tăng trưởng giảm rõ
rệt. Tỷ lệ lạm phát cho phép tối đa hoá tốc độ tăng trưởng trong mơ hình của ơng
là 12,8%.

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

15

Năm 1966, với số liệu của 48 nớc trong giai đoạn 1953-61, Dorrance đã tìm
thấy một số sự kiện chứng tỏ lạm phát thấp và giảm phát đi kèm với tăng trưởng
thấp và lạm phát vừa phải có thể có ảnh hưởng khuyến khích đến tăng trưởng.
Khi lạm phát vượt quá một giới hạn nào đó lạm phát có xu hướng khơng có lợi

cho phát triển và đặc biệt là lạm phát quá cao sẽ cản trở nghiêm trọng tăng
trưởng kinh tế.
Thirlwall (1974) bằng mẫu số liệu của 15 nước Mỹ La tinh cho giai đoạn
1958-68 đã khẳng định tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ
dương ở những mức lạm phát thấp. Khi lạm phát vượt quá 10% tăng trưởng kinh
tế giảm. Ông kết luận rằng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có
thể được biểu diễn bằng hình chữ U ngược và đưa ra một tỉ lệ lạm phát "tối ưu"
là dưới 10%.
Fischer (1993) đã nghiên cứu vấn đề này với kết luận, khi lạm phát tăng ở
mức độ thấp mối quan hệ này có thể khơng tồn tại , hoặc thậm trí mang tính đồng
biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến
Năm 1996, Sarel kiểm định về sự tồn tại của một ngưỡng mang tính cơ cấu
về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Ông đã phát hiện những bằng
chứng thực nghiệm về mức ngưỡng của tỷ lệ lạm phát là 8% năm. Dưới tỷ lệ đó,
lạm phát ảnh hưởng không đáng kể đến tăng trưởng, hoặc có thể ảnh hưởng
dương nhẹ đến tăng trưởng. Với tỷ lệ lạm phát cao hơn 8%, ảnh hưởng này là
ngược chiều và quan trọng. Theo ông, nếu bỏ qua thực tế quan trọng này chắc
chắn chúng ta sẽ đưa ra những kết luận lệch lạc về ảnh hưởng của lạm phát đến
tăng trưởng kinh tế.
Một số các nhà Nghiên cứu sau này như Shan và Senhadji(2001), ngưỡng
lạm phát cho các nước đang phát triển là 7- 11%, các nước công nghiệp khoảng
1-3%. Các tác giả đã sử dụng các kỹ thuật phân tích hiện đại nhất để kiểm định
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Cơng trình của các ơng bao qt số
liệu của 140 nước (trong đó có cả các nước đang phát triển và các nước đã cơng
nghiệp hố) trong giai đoạn 1960-98. Một lần nữa kết quả cho thấy có tồn tại một
mức ngưỡng (threshold) mà dưới đó lạm phát và tăng trưởng có mối tương quan
dương và trên đó lạm phát gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Một phát
hiện rất thú vị của các tác giả là mức ngưỡng đó khác nhau giữa các khối nước.

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775


LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

16

Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan( 2005) đã tập trung nghiên cứu
xác định mức lạm phát tối ưu . Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối
với các nước vùng trung đông và trung Á là khoảng 3.2%.Và một số các nhà
nghiên cứu khác đã cố gằng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một
ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động
tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Vậy chúng ta thấy mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế có thể biểu diễn bằng hình chữ “U” ngược.
Trong chiến lược phát triển của mình, hầu hết các nước trên thế giới đều
theo đuổi hai mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu là tăng trưởng cao và lạm
phát thấp, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, “khống chế” lẫn nhau.
Muốn tăng trưởng cao hơn thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân sách, hạ lãi
suất cho vay, kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu … nhưng
nếu làm như vậy thì lạm phát sẽ tăng. Đó là chưa kể các yếu tố tác động bên
ngoài như giá nhập khẩu tăng làm tăng chi phí đầu vào; hay các yếu tố thiên tai,
dịch bệnh như đại hạn, bão lụt, dịch cúm gia cầm… vừa làm tăng chi phí đầu
vào, vừa làm giảm nguồn cung, tăng chi ngân sách…
Muốn lạm phát thấp, thì phải thắt chặt chi ngân sách, thắt chặt đầu tư, tiêu
dùng, tăng lãi suất cho vay, tăng dự trữ bắt buộc, giảm thuế suất thuế nhập
khẩu… nhưng như thế thì tăng trưởng kinh tế sẽ khơng cao. Chính vì mối quan
hệ này, trong khi không thể cùng thực hiện cả hai mục tiêu, muốn ưu tiên mục
tiêu nào, các chuyên gia đã dùng các cụm từ “hy sinh mục tiêu tăng trưởng cho

mục tiêu kiềm chế lạm phát” hay “hy sinh mục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục
tiêu tăng trưởng” để nói về chính sách kinh tế - tài chính của một nước.
Sử dụng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số nước đã
sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh,
nhưng kém bền vững.
Hay cịn nói đó là giải pháp tăng trưởng “ bong bóng”. Xu hướng các nước
phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên cơ sở giá
cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này là: Trong nền kinh tế

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

17

thị trường, lạm phát ổn định thì tính dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà
đầu tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu
dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay
thế do giá tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực
chất. Hiện nay các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho
tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ
cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn đề của
Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực,vốn và cơng nghệ kỹ thuật.....

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775


LỚP:KINH TẾ HỌC


18

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

Chương 2: Thực trạng lạm phát và và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
I. Diễn biến lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam qua các thời kỳ
1. Giai đoạn từ 1986-1991
Bắt đầu từ thời kỳ nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có những dấu hiệu khác biệt
một cách nhanh chóng: vào những năm 1984 và 1985 tỷ lệ lạm phát ở mức
164.9% và 191.6%… thì năm 1986 đã tăng vọt tới mức cao nhất là 557% và sau
đó có xu hướng giảm. Như vậy mức lạm phát cao và không ổn định, song vấn đề
lạm phát chưa được thừa nhận trong các văn kiện chính thức. Vấn đề này chỉ
được xử lý các khía cạnh “giá- lương- tiền”, mà chủ yếu bằng các giải pháp hành
chính, như xem xét và điều chỉnh giá cả trong khu vực thị trường có tổ chức như
năm 1987, và “bù vào giá lương” đổi tiền năm 1985… Đây là thời kỳ xuất hiện
siêu lạm phát với ba chữ số kéo dài suốt ba năm 1986- 1988.
Sau năm 1988, mọi nỗ lực của chính phủ được tập trung vào kiềm chế, đẩy
lùi lạm phát từ mức ba chữ số xuống còn một chữ số. Đây là kết quả của quá
trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo
xuống thì kinh tế vẫn tăng trưởng cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng
7- 8%.
Bảng 1: Lạm phát và tăng trưởng thời kỳ 1986- 1991
Đơn vị:%

Năm


1986

1987

1988

1989

1990

1991

Tăng trưởng

3.4

3.9

5.1

8.0

5.1

6.0

Lạm phát

557


301.3

410.9

34.8

67.2

67.4

Chúng ta có thể biểu diễn dưới dạng đồ thị như sau:

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC


19

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

Đồ thị 3:
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1986-1991
9
8

600
500
400


5
4

300

3
2

%

%

7
6

Tăng trưởng
Lạm phát

200
100

1
0

0
1986

1987

1988


1989

1990

1991

năm

Đây là thời kỳ lạm phát quá cao và tăng trưởng thấp(chỉ đạt 4.7% )
Công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào những vấn
đề: Nới lỏng cơ chế kiểm sốt giá cả, phi tập trung hóa tiến trình ra các quyết
định về kinh tế, thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung cầu ngoại tệ,
khuyến khích xuất khẩu đồng thời thi hành một chính sách lãi suất thực dương,
kết hợp thắt chặt đúng mức việc cung ứng tiền. Các giải pháp lúc đầu được tiếp
nối với sử dụng từng bước có hiệu quả các cơng cụ tài chính đã nhanh chóng đem
lại nhiều thành quả đáng khích lệ trong điều kiện kiểm soát được lạm phát. Cụ
thể như sau:
- Giai đoạn 1986- 1988, việc thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều
hành phù hợp sự biến động của chỉ số giá đã làm khôi phục niềm tin người dân
với đồng nội tệ, hấp dẫn người dân gửi tiền vào ngân hàng, giảm áp lực cung cấp
tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước của hệ thống ngân hàng, từ đó đã chặn
đứng mức siêu lạm phát.
- Năm 1988, Ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách cung ứng tiền tệ và
phối hợp chính sách tài khóa cùng các chính sách kinh tế vĩ mơ khác: Ban hành

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC



CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

20

tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới: tăng số lần tính dự trữ bắt buộc hàng tháng, loại bỏ dần
tín phiếu kho bạc vào một thời kỳ không kỳ hạn chung. Điều này cho phép điều
chỉnh linh hoạt hơn dự trữ các ngân hàng thương mại tại ngân hàng nhà nước,
khống chế lãi suất thị trường và khối lượng tín dụng.
- Đến năm 1989, chính sách tài khóa thắt chặt đã góp phần kiềm chế lạm
phát. Cải cách thuế bước một năm 1990 nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách
đáp ứng được yêu cầu chi ngân sách, mặt khác tạo cơ sở bình đẳng cho các
doanh nghiệp phát triển, khuyến khích sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, lành mạnh hóa hoạt động ngân sách, đóng góp tích cực vào q trình
chống lạm phát.
2. Giai đoạn 1992- 1998
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1992-1995 là 8.2% và có
khả năng tiếp tục tăng mạnh khi năm 1995 đạt tỷ lệ tăng trưởng 9.5% đã khiến
các nhà hoạch định chính sách nghĩ đến việc phải kiềm chế tốc độ tăng trưởng
cao và đề ra những giải pháp cấp bách để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên từ năm
1996, cụ thể từ 1997, xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng
như mức lạm phát của Việt Nam đã liên tục giảm. Đáng lưu ý là đã có mầm
mống xuất hiện hiện tượng giảm phát ở một vài tháng trong năm 1996,1997. Tuy
nhiên xét về trung và dài hạn, tuy tốc độ tăng trưởng có giảm sút song nền kinh tế
nước ta vẫn chủ yếu có tỷ lệ lạm phát với mức độ vừa phải , bình quân 6% /năm
kể từ 1995- 1998.
Giai đoạn 1992-1998 lạm phát được giảm dần đi cùng với tăng trưởng
cao(7.3%)


NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG – CQ483775

LỚP:KINH TẾ HỌC



×