Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Lao động trẻ em ở Việt Nam và thực tế lao động trẻ em tại xã Quảng Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.14 KB, 97 trang )

MỞ ĐẦU
Theo thống kê của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 1997, trên thế
giới có khoảng 73 triệu trẻ em lao động làm thuê. Trong đó một nửa số lao
động này tập trung tại các nước châu Á. Tham gia hoạt động làm thuê rất dễ
dẫn đến việc sức lao động của trẻ em bị lạm dụng. Vì vậy, vấn đề lao động trẻ
em cần được quan tâm hơn nữa nhằm tránh những tổn hại đến sự phát triển
toàn diện của trẻ em. Tháng 5 - 2002, tại phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng
Liên hợp quốc về trẻ em đã đưa ra một cam kết: “ Xoá nghèo, đầu tư vào trẻ
em: chúng ta khẳng định quyết tâm phá vỡ vòng luẩn quẩn của nghèo đói
trong một thế hệ cùng liên kết khẳng định rằng đầu tư vào trẻ em và thực hiện
quyền trẻ em là những cách hữu hiệu nhất để xoá nghèo” (Báo cáo phát triển
Việt Nam 2004: tr.34). Từ tuyên bố này chúng ta có thể thấy vai trò quan
trọng của việc quan tâm tới sự phát triển toàn diện của trẻ em. Tương lai của
trẻ em cũng chính là tương lai của đất nước. Đó là lý do vì sao vấn đề lao
động trẻ em hiện nay đang là vấn đề được bàn luận trong nhiều diễn đàn quốc
gia, khu vực, và quốc tế.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có hai phần ba dân số sống ở nông
thôn trong điều kiện khoa học kỹ thuật kém phát triển nên mọi hoạt động
nông nghiệp thường phải sử dụng bằng sức người; luôn đòi hỏi nguồn lao
động cao. Vì vậy, trẻ em cũng là một nguồn lao động chính trong gia đình,
“80% - 90% trẻ em vị thành niên nông thôn đã từng tham gia lao động sản
xuất”
(1)
.
Với những đặc thù kinh tế - xã hội của Việt Nam, trẻ em đóng góp một
phần không nhỏ vào nguồn lao động của gia đình dưới sự giám sát của cha
mẹ. Nhưng trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, việc đấu
tranh chống lại sự khắc nghiệt của nghèo đói càng làm tăng thêm nguồn lao
1
động trẻ em. Với diện tích đất nông nghiệp có hạn trong khi dân số và mức
chi cho các nhu cầu tối thiểu của người dân ngày càng lớn khiến người nông


dân không thể chỉ trông chờ vào sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu điều tra
năm 2002, Việt Nam có khoảng 28,9% số hộ nghèo và 35,6% số hộ nghèo tại
khu vực nông thôn
(2)
. Trong khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành
nghề dịch vụ kéo theo nhu cầu về lao động ngày càng gia tăng. Nhưng thực
tế, đối với một số ngành nghề thì nguồn lao động trẻ em lại thu hút các chủ
thuê lao động bởi một số lý do như tiền công thấp, dễ quản lý…
Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt lại càng làm tăng thêm số
lượng lao động trẻ em tại các thành phố lớn. Theo số liệu điều tra năm 2002,
tỷ lệ giàu nhất/ nghèo nhất là 6,03% (so với năm 1993 là 4,97%, năm 1998 là
5,49%) cho thấy sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt
(3)
. Sự phân hoá này
hoàn toàn phù hợp với quá trình phân hoá thành thị - nông thôn hiện nay ở
Việt Nam, do vẫn có gần 80% dân số Việt Nam sống ở nông thôn. Điều kiện
kinh tế khó khăn, cộng thêm tỷ lệ người trong độ tuổi lao động thiếu việc là
do diện tích đất nông nghiệp không tăng trưởng theo dân số nên dẫn đến tình
trạng một số trẻ em nông thôn phải nghỉ học để lao động kiếm tiền và bị thu
hút bởi nhu cầu lao động tại các thành phố lớn
(4)
.
Trong khoá luận tốt nghiệp này, tôi sẽ tập trung tìm hiểu tác động của
việc tham gia lao động giúp việc tới những trải nghiệm cá nhân và các mối
quan hệ xã hội của trẻ tại quê nhà. Đối tượng mà nghiên cứu này hướng tới là
những em gái đã từng giúp việc gia đình tại Hà Nội vào dịp Tết. Cụ thể là
những em có độ tuổi dưới 16 tuổi đang còn đi học tại thời điểm diễn ra hoạt
động giúp việc.
Tôi áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu trường hợp, tập trung vào một số
em gái đã từng tham gia lao động giúp việc thời vụ trong dịp Tết từ năm

2003- 2005. Bên cạnh đó, người thân trong gia đình, bạn bè (bạn học ở
2
trường, bạn chơi ngoài trường), hàng xóm và cả gia đình người chủ thuê lao
động cũng là những đối tượng cung cấp thông tin chính.
Địa điểm nghiên cứu tại hai làng (làng Hạ và làng Vân)
(5)
thuộc xã
Quảng Châu, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá dựa trên hai lý do chính.
Thứ nhất là từ mối quan hệ cá nhân người nghiên cứu với một số người dân
tại đây. Thứ hai là có sự quen biết với một người đang sinh sống ở xã Quảng
Châu và hiện làm môi giới lao động cho một trung tâm giới thiệu việc làm ở
Hà Nội. Những đối tượng nghiên cứu trong khoá luận này đã tham gia lao
động giúp việc thông qua sự giới thiệu của người này.
Khoá luận được kết cấu với 04 chương chính sau:
Chương 1: “Tổng quan tình hình nghiên cứu lao động trẻ em ở Việt
Nam và thực tế lao động trẻ em tại xã Quảng Châu” đưa ra một cái nhìn tổng
quan về vấn đề lao động trẻ em ở nước ta, lao động trẻ em giúp việc gia đình
và cụ thể tình hình lao động trẻ em giúp việc của Quảng Châu.
Chương 2: “ Nghiên cứu lao động trẻ em - Từ góc độ phương pháp” tập
trung làm rõ các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khoá luận này.
Chương3: “Tác động của lao động trẻ em - Cảm nhận của TRẺ” tìm
hiểu những ảnh hưởng của việc tham gia lao động giúp việc tới những trải
nghiệm cá nhân được thể hiện qua những quan niệm về cuộc sống của trẻ.
Chương 4: “Lao động trẻ em - qua lăng kính gia đình - xã hội” cho thấy
quan niệm, thái độ của người dân địa phương về vấn đề lao động trẻ em giúp
việc gia đình.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LAO ĐỘNG TRẺ EM Ở
VIỆT NAM VÀ THỰC TẾ LAO ĐỘNG TRẺ EM TẠI QUẢNG CHÂU

Trước khi tiến hành một nghiên cứu về vấn đề lao động trẻ em, cần
khái quát những công trình nghiên cứu trước đó để có cái nhìn tổng quan,
thực tế về quá trình nghiên cứu của vấn đề và từ đó có thể đưa ra một mục
tiêu nghiên cứu mới có tính chất bổ xung cho những nghiên cứu trước đó. Vì
vậy, việc tìm hiểu về vấn đề lao động trẻ ở Việt Nam và thực tế lao động trẻ
em tại Quảng Châu là một việc cần thiết, không thể thiếu.
1.1 Khái niệm
Khi nghiên cứu về lao động trẻ em, khái niệm đầu tiên chúng ta cần
phải làm rõ là khái niệm “trẻ em” và “ lao động trẻ em”. Tuỳ thuộc vào hệ
thống pháp luật ở mỗi quốc gia, độ tuổi quy định của “trẻ em” có khác nhau:
- Theo Công ước quốc tế quyền trẻ em của Liên hiệp quốc
(20/11/1989) thì “trẻ em” được xác định “là người dưới 18 tuổi trừ khi luật
pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn”
(6)
.
- Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Tổ chức khoa học, giáo dục và
văn hoá (UNESCO) thì xếp “trẻ em là những người dưới 15 tuổi”
(7)
.
- Trong một số văn bản pháp luật Việt Nam cũng quy định: “Những
người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên” (Luật dân sự Việt Nam -1995);
“Trẻ em là những người dưới 16 tuổi” (Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em - 1991).
- Dựa trên những khái niệm về trẻ em, người ta cũng có thể đưa ra khái
niệm về “lao động trẻ em”: đây là thuật ngữ chỉ trẻ em dưới tuổi lao động
đang giành nhiều thời gian làm việc, ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất,
giáo dục và tâm lý của trẻ
(8)
.
4

Theo bộ Luật Lao động Việt Nam - 1995, lao động trẻ em là người lao
động chưa đủ 16 tuổi. Tuổi tối thiểu để trẻ em được phép học nghề là 13 tuổi.
Tuy nhiên, trẻ em dưới 13 tuổi cũng được phép học nghề trong một số trường
dạy nghề do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định.
- Công ước tuổi tối thiểu của ILO năm 1973 (số138) : hạ tuổi tối thiểu
chung là 14 và hạ tuổi vào làm công việc nhẹ là 12. Cho phép làm việc từ tuổi
16 trong công việc độc hại nếu có những bảo vệ thích hợp (Điều 7: …cho
phép sử dụng lao động của người từ 13- 15 tuổi trong những công việc nhẹ
nhàng mà không có hại cho sức khoẻ hoặc sự phát triển, học tập…)
- Lao động trẻ em giúp việc gia đình là loại lao động thuê mướn có tính
chất thoả thuận giữa người chủ nhà (người sử dụng lao động) và trẻ em
(người dưới 18 tuổi hoặc dưới 16 tuổi)
(9)
.
Trong nghiên cứu này, tôi sử dụng khái niệm trẻ em (người lao động
chưa đủ tuổi 16) theo quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam (1995). Cũng
như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (trẻ em là những người dưới 16
tuổi) đã cho thấy đây là giai đoạn quan trọng đầu tiên hình thành và phát triển
nhân cách, trí tuệ của trẻ. Vì vậy, giai đoạn này trẻ em cần được chăm sóc và
bảo vệ đặc biệt. Lao động là một trong những yếu tố cơ bản để trẻ em có thể
phát triển toàn diện và lành mạnh nhưng nếu lao động không đúng cách hoặc
quá sức sẽ dẫn đến sự phát triển lệch lạc về cả thể chất lẫn tâm hồn trẻ em.
1.2 Nghiên cứu lao động trẻ em ở Việt Nam
Ăngghen trong tác phẩm “Vai trò của lao động trong lịch sử biến hoá
từ vượn thành người” đã viết “ trong một chừng mực nhất định có thể nói lao
động sáng tạo nên chính con người”. Đối với giáo dục con người thì lao động
cũng là một biện pháp giáo dục tốt. Thông qua quá trình lao động, trẻ em có
thể dần hoàn thiện bản thân, hình thành nhân cách và góp phần phát triển toàn
diện mọi mặt của trẻ em.
5

Những hoạt động lao động có ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường
của trẻ em thường được coi là vi phạm quyền cơ bản của trẻ em. Nhưng thật
đáng buồn là trẻ em đã và đang là một trong những ngồn lao động chính tại
nhiều gia đình, địa phương ở nước ta (chủ yếu là tại các khu vực nông thôn).
Trong các gia đình Việt Nam, việc trẻ em tham gia giúp đỡ những công việc
của gia đình là một việc rất bình thường và đương nhiên, nhất là đối với
những gia đình thiếu lao động. Và nhiều người cho rằng công việc trong các
gia đình mang lại lợi ích cho trẻ với tính chất là một phần xã hội hóa (giáo
dục không chính quy), dạy cho trẻ những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống sau
này. Không thể nói rằng những công việc trong gia đình ấy hoàn toàn không
mang lại tổn hại về thể chất hay tâm lý cho trẻ em. Nhưng việc trẻ em phải rời
nhà đi lao động kiếm sống tại các thành phố lớn lại gây nhiều tổn hại lớn tới
sự phát triển bình thường của trẻ em.
Nếu nói đến nguyên nhân chính thì kinh tế là yếu tố lớn đầu tiên dẫn
đến sự ra đi của trẻ em. Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã giúp nền
kinh tế nước ta vươn lên mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng dẫn đến sự phát
triển không đồng đều ở nhiều nơi trong cả nước. Sự phân hoá giàu nghèo
ngày càng tăng. Nhiều trẻ em đã phải bỏ học để tự kiếm sống và giúp đỡ gia
đình. Một số trẻ em may mắn hơn khi không phải bỏ học thì phải chọn cho
mình một công việc nào đó để tự lo liệu tiền để trang trải việc học tập của
mình (Năm 2002, tỷ lệ đi học đúng tuổi ở khu vự nông thôn tại các cấp: tiểu
học là 98,2%, trung học cơ sở là 69,9%, trung học phổ thông là 37,7%)
(10)
. Và
các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Đà Nẵng…đã trở thành đích đến của những người dân nông thôn
mong muốn có thể cải thiện được đời sống.
6
Để có một cái nhìn khái quát về vấn đề lao động trẻ em nói chung, cũng
như thực trạng nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam tôi xin tóm lược một số

công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Trước hết, phải kể đến chương trình nghiên cứu Trẻ em làm thuê giúp
việc gia đình do Tổ chức Cứu trợ trẻ em của Thuỵ Điển (Save the Children
Sweden) cộng tác với Khoa Tâm lý học (Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội) thực hiện năm 2000. Đối tượng nghiên
cứu tập trung vào nhóm trẻ em giúp việc gia đình tại Hà Nội, nhằm tìm hiểu
nguyên nhân, đặc điểm và ảnh hưởng của lao động tới sự phát triển cá nhân
của trẻ cũng như mô tả mối quan hệ xã hội của trẻ tại nơi làm việc. Nghiên
cứu này được tiến hành bằng sự kết hợp sử dụng các phương pháp định lượng
(dùng bảng hỏi), định tính (phỏng vấn sâu 20 trường hợp trong đó có 5 trường
hợp phỏng vấn gia chủ và 15 trường hợp trẻ em) và phân tích tư liệu. Tiếp
theo là báo cáo của nhóm tác giả về vấn đề Lao động trẻ em tại thành phố Hồ
Chí Minh do Quỹ cứu trợ nhi đồng Anh tiến hành năm 1998. Áp dụng phương
pháp điều tra bảng hỏi để thu thập thông tin về nhiều loại ngành nghề khác
nhau có trẻ em tham gia. Và một số báo cáo như, Điều đầu tiên trước hết
trong lao động trẻ em: xoá bỏ những công việc độc hại với trẻ em do Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) phối hợp với quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
điều tra năm 1999, Một thế giới phù hợp với trẻ em được thực hiện năm 2001
dưới sự tài trợ của Quỹ bảo trợ nhi đồng Anh…
Vấn đề lao động trẻ em cũng là mối quan tâm hàng đầu của các bộ
ngành liên quan. Chúng ta có thể đưa ra một số điều tra tiêu biểu như: Vấn đề
lao động trẻ em ở Việt Nam (Bộ Lao động và Thương binh xã hôị, 1997). Đây
là tài liệu tập trung những báo cáo được trình bày tại một cuộc toạ đàm về vấn
đề lao động trẻ em ở Việt Nam. Những báo cáo này chỉ rõ nguyên nhân, hậu
quả của lao động trẻ em và đưa ra một số kiến nghị.
7
Bên cạnh đó, là một số bài nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành các tác giả. Đáng chú ý nhất là Nguyễn Văn Chính (1999). Trong bài
viết này, tác giả đã đề cập đến thực trạng công việc và bản chất của lao động
trẻ em. Thông qua việc phân tích các khía cạnh khác nhau của hiện tượng lao

động trẻ em, tác giả nêu lên một số giả thiết khoa học mang tính lý luận đồng
thời chỉ rõ các phương pháp tiếp để nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Còn với tác giả Nguyễn Hồng Thái (2003) lại đi sâu vào tìm hiểu các hình
thức lạm dụng trẻ em. Theo cách phân loại của tác giả thì có lạm dụng trẻ em
về thân thể, lao động trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em, bạo lực gia đình đối
với trẻ em và trẻ em phải chứng kiến bạo lực gia đình. Tác giả cho rằng, sự
phát triển kinh tế và lối sống do cơ chế thị trường đã tác động tiêu cực đến
tình trạng lạm dụng, ngược đãi trẻ em ở Việt Nam trong thời gian qua. Tác
giả Nguyễn Thị Bích Nga (2003) lại đề cập đến vấn đề việc làm và đời sống
của nam nữ nông thôn lao động theo thời vụ tại Hà Nội, được rút ra từ kết quả
nghiên cứu định tính với quy mô nhỏ tại Hà Nội và xã Xuân Thượng, huyện
Xuân Trường, tỉnh Nam Định trong năm 2000 - 2001.
Khái quát nêu trên về thực trạng nghiên cứu vấn đề lao động trẻ em ở
Việt Nam, cho thấy, phần lớn các nghiên cứu này đều được tiếp cận từ góc độ
Xã hội học. Hơn nữa, mảng đề tài về nhóm trẻ em lao động giúp việc gia đình
theo thời vngười vẫn còn chưa được chú ý nhiều. Xuất phát từ mong muốn
đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu về đối tượng trẻ em đặc thù này, tôi
sẽ tập trung tìm hiểu những tác động của việc tham gia lao động thời vụ tới
những trải nghiệm cá nhân và mối quan hệ xã hội của các em tại địa phương.
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu thường thấy trong Nhân học, tôi có
thể tìm hiểu sâu hơn những tác động, thay đổi trong nhận thức của cá nhân
trẻ. Những thay đổi này được thể hiện thông qua cách thức giao tiếp của trẻ
trong các mối quan hệ xã hội.
8
1.3 Thực trạng lao động trẻ em ở Quảng Châu
Quảng Châu là một trong 41 xã của huyện Quảng Xương, cách thành
phố Thanh Hoá 12 km và cách biển Đông 3 km. Quảng Châu có diện tích
4.107 km
2
với dân số 8.112 người. Toàn xã chia thành 9 thôn, gồm 520 hộ.

Ngoài ra, xã còn có thể chia thành 6 làng. Ngoài sản xuất nông nghiệp là nghề
chính, địa phương còn có thêm một số nghề khác như chăn nuôi, đánh bắt
cngười ngoài ra còn cos một số nghề phụ khác như thợ xây, phụ hồ, cửu
vạn…với khoảng 400 lao động tự do. Theo số liệu của chính quyền địa
phương, thu nhập bình quân đầu người ở xã là gần 4 triệu đồng/người/năm.
Quảng Châu cũng chỉ là một trong nhiều địa phương khác có nguồn lao
động dư thừa và ngồn lao động trẻ em cung cấp cho Hà Nội. Theo nguồn số
liệu của một người làm nghề môi giới cung cấp lao động cho một trung tâm
giới thiệu việc làm ở Hà Nội thì tính trong toàn bộ xã Quảng Châu và một vài
xã lân cận (nhưng chủ yếu ở địa bàn xã Quảng Châu) trong khoảng thời gian
1 năm ( 16/3/2004 – 10/4/2005 ) số người mà chị đã giới thiệu tới trung tâm
giới thiệu việc làm là 180 người. Trong số đó có 12 người là nam giới còn lại
là nữ giới. Đặc biệt, có 64 người trong số đó là trẻ em gái có độ tuổi 13 - 16
tuổi. Tất cả các em đều làm công việc giúp việc gia đình ở Hà Nội. Có 13 trẻ
trong số 64 trẻ gái đó còn đang đi học tại thời điểm diễn ra hoạt động lao
động giúp việc theo thời vụ.
Với một số người dân địa phương thì lao động theo thời vụ là việc làm
quen thuộc trong những ngày nông nhàn. Đó là thời điểm và công việc thích
hợp để kiếm thêm tiền trong khi không có việc làm. Như vậy, lao động theo
thời vụ là giải pháp hữu hiệu để giải quyết hai khía cạnh cơ bản của cuộc
sống: việc làm và kinh tế.
Lao động giúp việc gia đình là công việc của những người phụ nữ địa
phương trong khi chờ mùa vụ. Họ chỉ đi là trong dịp nông nhàn vì khi tới mùa
9
vụ thì sẽ trở về. Như vậy, trên thực tế thì phần lớn người lao động tham gia
công việc này của địa phương lao động mang tính chất thời vụ vì với họ nông
nghiệp mới là công việc chính. Đặc biệt là đối với trẻ em gái đang còn đi học.
Chỉ một số ít trong họ là coi đây là công việc thường xuyên quanh năm.
Giúp việc gia đình đòi hỏi sự khéo léo, đức tính cẩn thận, thật thà và có
thể cả một chút sự chịu đựng. Giúp việc gia đình đặc biệt phù hợp với lứa tuổi

nhỏ (khoảng dưới 18) hoặc người lớn tuổi (40 - 60 tuổi) không có gia đình
hay con cái đã lớn. Đây là hai khoảng lứa tuổi được nhiều người thuê lao
động lựa chọn bởi những lý do khá tế nhị. Để giả thích cho lựa chọn này,
người chủ thuê lao động đã đưa ra lý do sau:
Thông thường khi con gái trên 18 tuổi là lứa tuổi biết yêu đương, dễ
đua đòi hoặc đã có chồng và con nhỏ nên không thể làm công việc này vì thời
gian xa nhà kéo dài. Mặt khác, những trẻ em còn ít tuổi thường khoẻ mạnh,
chịu khó và đặc biệt là dễ bảo, dễ sai khiến hơn người lớn tuổi. Nếu người
giúp việc là những cô gái tuổi từ 18 - 30 thì sẽ dễ dẫn đến những tình huống
khó xử khác như có quan hệ với ông chủ hay con chủ nhà. Vì vậy mà nhiều
gia chủ cho rằng lứa tuổi 12 - 17 tuổi là lứa tuổi thích hợp nhất cho công việc
này.
Còn đối với những người có tuổi thường ít vướng bận gia đình vì con
cái họ đã lớn, họ bết lo toan chu tất công việc gia đình nhưng do đã lớn tuổi
nên khó sai bảo, hay ốm yếu và dễ tự ái. Nên dù sao thuê những trẻ em có lứa
tuổi từ 12 - 17 tuổi là thích hợp nhất.
Trên thực tế, hầu như rất ít trường hợp phụ nữ có con còn nhỏ mà lại đi
giúp việc gia đình bởi vì một lý do dơn giản là công việc này đòi hỏi họ phải
vắng nhà hàng tháng. Họ không thể bỏ con ở nhà cho chồng hay bố mẹ chăm
sóc để đi làm xa. Đối với những trẻ em gái có trình độ thấp thì công việc giúp
việc gia đình có vẻ là một công việc an toàn và nhàn hạ nhất. Vì vậy, những
10
trẻ gái không muốn bỏ học lại muốn kiếm thêm tiền để trang trải việc học
hành và giúp đỡ gia đình đều lựa chọn công việc này trong những ngày nghỉ
hè hoặc nghỉ tết. Giúp việc gia đình theo thời vụ đã trở thành công việc quen
thuộc đối với nhiều trẻ em gái ở nông thôn. Nếu tranh thủ đi làm vào 3 tháng
nghỉ hè, các em có thể có được số tiền lương đủ để trang trải tiền học cho cả
năm học và còn giúp thêm một phần cho gia đình. Một đợt có thể đi làm nữa
đó chính là dịp nghỉ tết. Khi tất cả những người lao động khác đi làm việc
quanh năm tại thành phố đã về quê hương để đón tết thì những trẻ em gái này

lại bắt đầu bước vào những ngày làm việc mới. Do thời điểm làm việc khá
đặc biệt nên sau 10 ngày giúp việc gia đình ngày tết các em sẽ có một khoản
tiền lương bằng một tháng lương đi giúp việc vào dịp nghỉ hè.
Như đã nêu trên, đối với hầu hết người tham gia lao động thì công việc
này chỉ mang tính tạm thời bởi với họ khi không còn khó khăn nữa thì đó
cũng là lúc họ không làm nghề này nữa. Đặc biệt là đối với trẻ em gái. Một
mặt, nếu các em đã bỏ học thì các em cũng chỉ làm công việc này một thời
gian để kiếm ít vốn làm ăn rồi lấy chồng vì ở nông thôn họ thường lấy chồng
từ rất sớm (nếu con gái khoảng 22, 23 tuổi mà chưa lấy chồng thì đã bị coi là
ế). Mặt khác, đối với những em lao động thời vụ để kiếm tiền trang trải việc
học thì các em chắc chắn cũng không theo đuổi công việc này lâu dài.
Nhiều trẻ em gái ở nông thôn mong muốn được học tập cao hơn đang
đứng trước nguy cơ phải bỏ học vì không có tiền để chi phí cho học tập (học
càng lên cao thì chi phí cho học tập cũng ngày càng tăng). Trong khi đó, mỗi
gia đình ở nông thôn thường có 3, 4 con. Để có thể cho các con đi học quả là
một việc quá sức đối với nhiều gia đình cho dù đã có Luật phổ cập giáo dục
Việt Nam miễn học phí đối với học sinh cấp tiểu học. Do đó, những trẻ em
gái mong muốn có tiền chi trả cho học tập cần phải tự mình kiếm tiền và giúp
đỡ cho bố mẹ. Giúp việc gia đình theo thời vụ là một lựa chọn thích hợp nhất!
11
Tranh thủ những dịp nghỉ hè và nghỉ tết, trẻ em gái thông qua mạng
lưới di cư mà tới những thành phố lớn để giúp việc gia đình. “Mạng lưới xã
hội hình thành từ qúa trình di cư cũng như phục vụ cho mục đích di cư được
gọi là mạng lưới di cư” (Đặng Nguyên Anh, 1998: tr. 16). Đặc trưng cơ bản
của mạng lưới di cư là liên kết những người di chuyển thông qua các quan hệ
cùng quê, họ hàng. thông qua mạng lưới di cư, di chuyển này các em có thể
tiếp nhận được những thông tin và sự trợ giúp cần thiết tại nơi các em sẽ tới
lao động kiếm tiền. Nhưng những thông tin ấy chỉ là những thông tin cơ bản,
bước đầu về công việc mà các em sẽ làm: giúp việc gia đình là làm những
công việc vặt gia đình, chăm người ốm, người già, trẻ nhỏ…Tất cả những

công việc này mỗi trẻ em gái cũng đều đã làm quen ở gia đình mình. Vì vậy,
các em nghĩ rằng đây là một công việc nhàn hạ, dễ làm mà chưa thể hình
dung được hết những khó khăn mà các em sẽ gặp phải trong quá trình làm
việc.
Với những chuẩn bị về tâm lý cơ bản thông qua kênh thông tin từ
những người đã đi làm trước đó mà các em sẵn sàng rời nhà đi lao động kiếm
tiền. Đối với những trẻ em gái lần đầu tới thành phố lớn, lần đầu xa gia đình
thì đây quả là một thời điểm không dễ dàng gì.
Qua tìm hiểu một số gia đình có nhu cầu thuê người giúp việc gia đình
cho thấy: “Để tìm được một người giúp việc vừa ý rất khó! Nhà cô thuê đến
hơn chục người rồi mà vẫn chưa ưng. Có người chỉ làm được vài ngày rồi bỏ.
Chứng nó bây giờ cũng kiêu lắm, không làm ở nhà này thì đi làm ở nhà khác,
thiếu gì nhà cần người (người giúp việc)” (Người thuê lao động). Như vậy,
những người lao động ngoại tỉnh này đã bước đầu có sự lựa chọn môi trường
làm việc của mình. Nhưng có điều nhiều trẻ em gái phải rời quê ra Hà Nội
giúp việc nhưng lại thường hay muốn được ở tại một gia đình khá giả hoặc
một gia đình đông người để trò chuyện…Đó chính là những đặc điểm tính
12
cách của trẻ em. Chúng thường thích thú nhiều nhưng cũng rất chóng chán,
lại thích giao tiếp, thích được chơi đùa cho dù là hiện tại chúng đang đi làm
việc. Trong khi đó, với công việc này chúng thường phải làm việc một mình
(Nhiều gia đình vì cả nhà đi vắng suốt ngày nên mới thuê người ở nhà trông
coi nhà cửa, dọn dẹp, nấu nướng). Trẻ em luôn có nhu cầu giao tiếp cao nên
chúng rất nhanh chóng cảm thấy buồn bực. Hơn nữa, cuộc sống nhộn nhịp đô
thị khiến nhiều khu dân cư ở Hà Nội người ta không chú ý đến hàng xóm và
không có khái niệm “tình làng nghĩa xóm”. Nhiều chủ nhà không muốn cho
người giúp việc tiếp xúc với những người xung quanh vì họ lo sợ trẻ em nông
thôn dễ bị lừa (họ phải gánh trách nhiệm), hay đưa chuyện…Lại cộng thêm
gia chủ khó tính hay không hợp với gia chủ khiến các em khó có thể làm việc
lâu dài. Có những trường hợp do các em thiếu trung thực, thiếu thật thà nên bị

đuổi việc…
Những nguyên nhân ấy thường khiến một số trẻ em khi đi giúp việc gia
đình muốn thay đổi chỗ làm. Còn đối với một số trẻ em gái đi giúp việc gia
đình thời vụ thì việc thay đổi chỗ làm thường ít hơn so với những trẻ em coi
đó là một nghề kiếm sống lâu dài.
Lý do khiến các em lao động giúp việc mang tính thời vụ ít thay đổi
chỗ làm là: đối với các em đây chỉ là công việc mang tính thời vụ vì vậy
khoẩng thời gian để làm việc không nhiều (ví dụ: 10 ngày tết) nên các em
luôn có ý nghĩ rằng dù thế nào thì mình cũng chỉ làm việc ở đây một thời gian
thôi, “không nên thay đổi nhiều làm gì cho mất thời gian” (Hồng).
Công việc này cũng là môi trường thuận lợi giúp các em điều kiện tiếp
cận với nền văn hoá, văn minh đô thị. Qua đó, trẻ em gái có thể làm tăng
thêm những kinh nghiệm sống và làm việc của bản thân. Chỉ có điều liệu các
em có biết sàng lọc, lựa chọn cho mình những nét văn hoá thích hợp với điều
kiện sống của mình không?
13
Tiểu kết chương: Từ những tìm hiểu có hệ thống về tình hình nghiên
cứu vấn đề lao động trẻ nghiên cứu ở Việt Nam và thực trạng lao động trẻ em
tại xã Quảng Châu trong thời gian qua có thể cho phép tôi có cái nhìn khái
quát và khoa học về vấn đề này trước khi tiến hành nghiên cứu.
Có thể thấy rằng, ngoài công trình nghiên cứu mang tính tiên phong về
phương pháp tiếp cận vấn đề từ góc độ Nhân học của tác giả Nnguyễn Văn
Chính, phần lớn các nghiên cứu về vấn đề này đều được tiếp cận thông qua
lăng kính của các nhà Xã hội học. Điều này cho thấy vấn đề lao động trẻ em ở
Việt Nam hiện nay chưa được tiếp cận theo nhiều phương pháp, chiều hướng
khác nhau ngoài phương pháp tiếp cận Xã hội học hiện nay.
Mặt khác, thu nhập của trẻ em giúp việc gia đình không hề quá thấp so
với mức thu nhập chung của thành phố mà còn cao hơn nhiều so với mức thu
nhập ở nông thôn. Hơn nữa, điều kiện lao động của công việc này thường
nhàn hạ hơn nhiều so với nững công việc nặng nhọc ở quê nhà. Do đó, giúp

việc gia đình giờ đây đã trở thành một nghề rất phổ biến, hấp dẫn đối với
nhiều trẻ em gái ở khu vực nông thôn.
14
15
Chương 2
NGHIÊN CỨU LAO ĐỘNG TRẺ EM - TỪ GÓC ĐỘ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Nghiên cứu tư liệu
Trước khi tiến hành quan sát tham gia để thu thập những thông tin tại
địa bàn nghiên cứu thì việc đầu tiên, trước hết là phải tiến hành thu thập
những tài liệu có liên quan tới vấn đề cần nghiên cứu. Nghiên cứu vấn đề lao
động trẻ em theo thời vụ, tôi đã tự trang bị cho mình những kiến thức, thông
tin liên quan đến vấn đề qua việc khảo sát tư liệu thu nhận được từ các thư
viện của các cơ quan, bộ ngành có liên quan (Thư viện Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội, thư viện Quốc gia, Viện Nghiên cứu gia đình và giới, Viện Xã
hội học, Viện Khoa học - Xã hội, Trung tâm lưu trữ quốc gia…). Ngoài ra,
thông tin về vấn đề này còn có thể tìm thấy tại các trung tâm, tổ chức phi
chính phủ như, Tổ chức cứu trợ trẻ em Thuỵ Điển (Save the Children
Sweden), Tổ chức cứu trợ trẻ em Anh (Save the Children), Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO), Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF)…
2.2 Nghiên cứu trường hợp
Như đã nêu trên, trong nghiên cứu này thông tin thu thập chủ yếu qua
cách tiếp cận nghiên cứu trường hợp thực hiện trong khuôn khổ một khoá
luận tốt nghiệp chuyên ngành Nhân học. Hơn nữa, với thời lượng một tháng
nghiên cứu điền dã khó có thể tiến hành nghiên cứu trên diện rộng, quy mô
lớn. Mặt khác, những nghiên cứu về vấn đề lao động trẻ em theo thời vụ cho
đến nay vẫn mang tính khái quát chung mà chưa đi sâu vào những trường hợp
cụ thể. Thông thường, các tác giả chú trọng tìm hiểu ảnh hưởng của lao động
thời vụ tới các mối quan hệ xã hội của trẻ tại địa bàn Hà Nội (nơi các em tới
làm việc) mà chưa quan tâm đến những mối quan hệ của các em tại địa
phương. Chính vì thế, dựa trên ba trường hợp nghiên cứu sâu, tôi muốn tập

trung phân tích những tác động của việc tham gia lao động giúp việc theo thời
16
vụ dẫn đến sự định hình quan niệm sống của các em cũng như mối quan hệ xã
hội ở cộng đồng mà các em sinh sống.
Ngoài ra, tôi lựa chọn nghiên cứu ba trường hợp cụ thể này vì hai lý do
chính sau. Thứ nhất là do tôi có thể tiếp cận thuận lợi hơn với ba trường hợp
cụ thể này thông qua một số mối quan hệ (người môi giới dịch vụ lao động,
người quen tại địa phương). Thứ hai là thông qua người môi giới lao động tôi
có thể tự lựa chọn ba trường hợp cụ thể (trẻ em gái có lứa tuổi dưới 16 tuổi,
đang còn đi học tại thời điểm diễn ra hoạt động lao động thời vụ giúp việc gia
đình) . Tuy nhiên, trong quá trình lựa chọn tôi cũng kết hợp lựa chọn những
trường hợp có đặc thù riêng về hoàn cảnh gia đình. Cụ thể ở đây là ba trường
hợp: Hoa (16 tuổi, học lớp 11) - có đầy đủ bố, mẹ; Hồng (16 tuổi, học lớp 9) -
mẹ mất sớm; Lan (15 tuổi, đã nghỉ học) - bố, mẹ không hoà hợp (bố có vợ bé)
(11)
.
Lựa chọn những trường hợp cụ thể có đặc thù riêng về hoàn cảnh gia
đình, tôi muốn có cái nhìn tổng quan và khoa học về quá trình hình thành và
phát triển nhân cách của trẻ. Khi xem xét về vấn đề này, chúng ta cần xem xét
nó trên nền tảng gia đình của trẻ. Bởi như chúng ta đã biết, gia đình là nền
tảng cơ bản hình thành nên tính cách và có ảnh hưởng lớn tới tâm tư tình cảm
của trẻ em. Trong đó, vai trò của cha mẹ có thể nói là đặc biệt quan trọng.
Nhất là vai trò của người mẹ. Chăm sóc con cái là vai trò cơ bản của phụ nữ ở
nông thôn. Trong một nghiên cứu của Joyce Halliday và Jo Little- được tiến
hành ở vùng nông thôn Devon và đi đến nhận định rằng “…việc chăm sóc
con cái chủ yếu (hoặc thậm chí hoàn toàn) là công việc của phụ nữ”
( Halliday & Little, 2004: tr.113 ). Mặc dù đây chỉ là nghiên cứu ở một vùng
nông thôn của nứơc Anh nhưng khi mang nó xem xét và so sánh với nông
thôn Việt Nam thì nhận xét này phần nào phù hợp. Áp dụng vào ba trường
hợp cụ thể trong nghiên cứu của tôi cho thấy vai trò quan trọng của người mẹ.

17
Cha của các em thường xuyên vắng nhà, vì thế mọi việngười lớn nhỏ trong
gia đình đều dồn lên đôi vai người mẹ. Thậm chí như trường hợp của Hồng
(mẹ mất sớm), bố thường xuyên vắng nhà nên em vừa phải đảm nhận vai trò
của một người mẹ trong gia đình: chăm sóc em gái (13 tuổi); vừa phải tự lo
cho bản thân.
Từ sự khác biệt về hoàn cảnh gia đình đã dẫn đến sự khác nhau trong
nhận thức cá nhân của các em cũng như những đổi thay trong tình cảm, tâm
tư của các em sau thời gian làm việc tại Hà Nội. Hoàn cảnh gia đình tuy chỉ là
một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự phát triển ý thức cá nhân của
trẻ em nhưng cũng là một khía cạnh quan trọng cần được xem xét tới.
Khi tôi muốn tìm hiểu ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình tới quyết định
ra Hà Nội làm việc của các em như thế nào? (Trong trường hợp cụ thể với
câu hỏi của tôi có nên ra Hà Nội giúp việc gia đình không?) thì ba đối tượng
nghiên cứu này có cách suy nghĩ, phân tích khác nhau mặc dù cuối cùng tất cả
đều đi đến quyết định ra đi. Như vậy, đối với cùng một vấn đề, những trẻ em
có hoàn cảnh gia đình khác nhau sẽ có những cách tiếp nhận, đánh giá khác
nhau.
Trường hợp của Lan, khi quyết định đi giúp việc ở Hà Nội Lan đã nghĩ
rằng: “Nhà vốn đã nghèo mà không thể trông cậy gì ở bố, một mình mẹ xoay
sở nuôi 4 chị em đã khổ rồi thì làm sao mà có tiền cho em học tiếp! Em rất
muốn đi học và giúp đỡ mẹ. Em nghe nói đi làm 10 ngày tết được 350 nghìn thì
bằng số tiền đóng học cả năm của em rồi còn gì…Mà ở nhà cũng chán lắm!
Bố mẹ em toàn đánh nhau thôi!…”
“ Bố không muốn cho em đi làm đâu ! Mẹ em mất lâu rồi, bố hay đi làm
xa nên nhà thường chỉ có 3 anh em. Mà nhà em cũng không phải là nghèo, bố
vẫn có thể nuôi 3 anh em ăn học được nhưng em vẫn muốn đi! Mọi người đi
làm ngoài ấy về bảo là ở Hà Nội sướng lắm! Em muốn đi Hà Nội để xem thế
18
nào lại có thể kiếm thêm tiền tiêu mà không phải xin bố!”. Đó chính là những

suy nghĩ của Hồng trước khi em đưa ra quyết định đi làm. Những lý do mà
Hồng đưa ra thuyết phục bản thân và mọi người không giống với các lý do
của Lan. Sự khác biệt này được quy định bởi sự khác nhau giữa hoàn cảnh
của hai gia đình.
2.3 Tạo dựng quan hệ
Mặc dù có thuận lợi căn bản là được một nhân vật trung gian vốn là
người trong làng, nhưng tôi vẫn phải đối diện với một vài trở ngại trong quá
trình tiếp cận với người dân địa phương. Điều trở ngại lớn nhất là ngay từ
đầu, họ đã coi tôi là người lạ từ Hà Nội tới. Phần lớn trong số họ chưa hiểu rõ
về Hà Nội mà chỉ biết đến qua phim ảnh, sách báo. Vì thế, họ tỏ ra dè dặt, e
ngại khi tiếp xúc với tôi. Thêm nữa, họ cũng ít nhiều bộc lộ vẻ lo lắng, hoài
nghi trước tình hình tệ nạn xã hội ngoài thành phố như: buôn người qua biên
giới, ép buộc, lôi kéo các em gái đi vào con đường nghiện hút, mại dâm…
Sau thời gian tiến hành nghiên cứu, tôi đã thu thập được một số kinh
nghiệm mà những kinh nghiệm này chỉ có thể thu được trên thực địa trong khi
tiến hành quan sát tham gia. Những kinh nghiệm này được tích luỹ dần từng
ngày cùng với sự tiến triển của quá trình nghiên cứu trên thực địa.
Không thể không nhắc đến kinh nghiệm trong ngày đầu tiên tôi tới xã
Quảng Châu. Khi tôi đi bộ lững thững vào làng tới nhà chị Hà (nhân vật trung
gian), tôi đi ngang qua một chợ cóc ven đường. Thấy tôi một người dân nói:
“Không biết con cái nhà ai mà mồm để đâu không chào ai cả ?!”. Với sự cảm
nhận của cá nhân tôi thì đây chính là khó khăn đầu tiên tôi gặp phải trong
ngày đầu nơi thực địa. Chính bài học kinh nghiệm này đã giúp tôi rất nhiều
trong việc thiết lập mối quan hệ dân làng. Ở làng có lệ gặp người lớn tuổi hơn
phải chào hỏi lễ phép không kể có quen hay không. Đấy có lẽ là một trong số
những chuẩn mực đạo đức địa phương để xác định thế nào là một người hiểu
19
biết, có trên có dưới. Tôi nhận thấy sau khi chào hỏi thì dường như tôi có thể
phá vỡ phần nào tảng băng vô hình ngăn cách tôi và người dân nơi đây. Đó
chính là một trong những điều kiện thuận lợi giúp tôi gây dựng được quan hệ

thân thiện với mọi người. Về phía người dân, họ luôn muốn biết tôi làm gì và
với mục đích gì? và tôi có làm điều gì xấu không? Chính vì lẽ đó, thường
xuyên giao tiếp, trao đổi với họ là rất cần thiết. Nó giúp tôi phá bỏ được
khoảng cách “vô hình” giữa một sinh viên đến từ thành phố với người dân
quê.
Trong quá trình điền dã, khoảng thời gian để tôi có thể tạo lập các mối
mối quan hệ với từng cá nhân thường khác nhau. Giai đoạn đầu là giai đoạn
mà việc tiếp cận, xây dựng mối quan hệ với những người trong địa phương
khó khăn nhất và tốn nhiều thời gian nhất. Vì sau khi đã sự quen biết nhất
định với một vài người làng thì việc tiếp cận với những người còn cũng trở
nên thuận lợi hơn. Ở đây tôi áp dụng phương pháp quả bóng tuyết, một
phương pháp rất phổ biến trong các nghiên cứu mang tính đặc thù cao.
Ngày đầu tiên đến Quảng Châu, tôi nghỉ tại nhà chị Hà và cũng trong
ngày ấy chị đã giới thiệu tôi với Hoa. Sang ngày thứ hai, tôi tự tiếp cận với
gia đình Hoa. Mặc dù tỏ ra dễ gần, nhưng họ vẫn có chút gì đó e ngại và chưa
tin tưởng vào tôi- một người hoàn toàn xa lạ. Vì họ vẫn chưa hiểu rằng tôi
cần gì ở họ và con cái họ nên cũng không muốn tôi tiếp xúc với con cái họ khi
không có mặt họ. Mặ dù lúc đó phần nào đã có sự bảo đảm từ mối quan hệ
cuat chị Hà, người trung gian nhưng vì những tin đồn về người chuyên đi lừa
phụ nữ để bán sang Trung Quốc khiến họ ban đầu còn e sợ tiếp xúc với tôi.
Sau một ngày, tôi đã cố gắng bằng thái độ, lời nói đã khiến họ bớt vẻ nghi
ngờ và tối hôm ấy tôi đã nghỉ lại ở nhà họ.
Khoảng 1 tuần ở Quảng Châu, tôi đã tạo lập được mối quan hệ với
nhiều người trong làng Hạ (Một trong số 6 làng của xã Quảng Châu). Mọi
20
công việc có thể tiến hành thuận lợi hơn và cũng từ những mối quan hệ ở làng
Hạ cộng thêm người quen giới thiệu, tôi có thể làm quen với những đối tượng
cụng cấp tin ở các làng khác trong khoảng thời gian rút ngắn hơn rất nhiều. Vì
lẽ đó, việc tiếp xúc với người dân địa phương càng về sau càng thuận lợi hơn
do có nền tảng từ các mối quan hệ trước đó.

Một điểm nữa dẫn đến sự khác biệt về khoảng thời gian cần thiết để
thiết lập mối quan hệ với đối tượng cung cấp tin là do sự khác biệt về: lứa
tuổi, nhận thức, tính cách của mỗi người nên việc làm thế nào để có thể tiếp
cận được với họ trong một khoảng thời gian nào đó là không giống nhau. Với
những đối tượng là trẻ em, tôi không gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận, cho dù
là trẻ em nam hay nữ. Nhưng với những người lớn tuổi thì khác, những người
dễ gần thì có thể nhanh chóng đặt quan hệ nhưng cũng có những người do
khó tính, ít nói hay không thích tiếp xúc với người ngoài và ít tiếp xúc với
người lạ…thì tôi phải mất nhiều thời gian để tiếp cận hơn.
Với gia đình Hoa là một ví dụ. Khi tôi bắt đầu thiết lập mối quan hệ với
gia đình Hoa, mẹ Hoa là người hay nói và dễ gần nên chỉ 1 giờ ngồi nói
chuyện là tôi có thể nói chuyện với bà một cách vui vẻ. Sau một ngày, tôi đã
có thể tạo được sự tin tưởng với mẹ của Hoa. Nhưng, bố của Hoa là người ít
nói và cẩn thận nên phải ba ngày sau tôi mới có thể thực sự nói chuyện tự
nhiên với ông được. Bố Hoa ít nói nên việc tạo sự thoải mái, gần gũi với ông
là điều rất khó. Lúc đầu khi tôi bắt chuyện, ông thường trả lời qua loa và nếu
tôi không hỏi thì ông cũng không nói gì. Sau một thời gian tiếp xúc và nghe
tôi giới thiệu về bản thân, công việc và đặc biệt là nói chuyện về một số người
quen của tôi trong xã mà ông cũng biết thì ông mới hoàn toàn tin tưởng và
thoải mái khi tiếp xúc với tôi.
21
Như vậy, quá trình thiết lập mối quạn hệ với người cung cấp tin phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố. Trong đó, có cả những yếu tố về khoảng thời gian
cũng như cách thức tiếp cận… người cung cấp tin.
Ví dụ đầu tiên và rõ ràng nhất là với gia đình Hoa mà tôi vừa nêu ở
trên: đó chính là kinh nghệm đầu tiên khi tôi bắt đầu đi điền dã . Có thể cách
tiếp cận nói chuyện đơn thuần có thể áp dụng tốt với mẹ Hoa nhưng không
thể áp dụng với bố Hoa. Đơn giản là vì mỗi người có độ tuổi, giới, tính cách
khác nhau nên cần có cách tiếp cận khác nhau. Do vậy, tôi đã cố gắng linh
hoạt lựa chọn một cách tiếp cận mà tôi cho là phù hợp nhất để tiếp cận được

với họ trong một thời gian nhất định.
Khi gặp Hồng, tôi chuyện trò thân thiện cùng em về bạn bè, về chuyện
học hành ở lớp…thậm chí về một bộ phim nào đó được chiếu trên ti vi. Thế
nhưng, với bố Hồng tôi hay nói về cách mà bố Hồng chăm sóc các con khi vợ
mất sớm…
Điều quan trọng nữa ảnh hưởng tới quá trình thiết lập mối quan hệ với
đối tượng cung cấp tin là hoàn cảnh, thời điểm tiếp cận đối tượng. Cụ thể là
trong trường hợp của chú Hùng ( Bố Lan) có vợ bé và đi làm xa thường ít khi
về nhà nên phải 3 tuần tôi mới có thể nói chuyện một cách gần gũi với chú.
Mỗi lần chú về nhà, tôi luôn tìm cách tiếp cận chú khi có điều kiện để thu
thập thông tin cần thiết về Lan trước khi chú đi. Vì thời gian chú về nhà ít mà
lại có nhiều việc phải làm nên cơ hội để tôi có thể phỏng vấn là khi chú nói
chuyện với các con hay tranh thủ đan cho vợ cái rổ (Thời điểm mà tôi cho là
chú và những người trong gia đình sẽ không cảm thấy quá khó chịu vì bị làm
phiền).
Và như vây, khi điều kiện, hoàn cảnh tiếp cận với đối tượng cung cấp
tin hạn chế tất yếu sẽ dẫn đến thời gian thiết lập mối quan hệ phải kéo dài.
22
Do vậy, tôi cần phải biết tận dụng những thời điểm thuận lợi để tiếp cận với
người cung cấp tin.
2.4 Quan sát tham gia
Khi bước đầu thiết lập mối quan hệ với đối tượng cung cấp tin tôi cũng
đồng thời tiến hành quan sát tham gia. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu tôi
đã tham gia một số hoạt động cùng với người cung cấp tin. Nếu chỉ đợi những
lúc đối tượng cung cấp tin rảnh rỗi để ngồi trò chuyện cùng tôi thì có rất ít
thời gian. Mọi người đều bận rộn với những công việc khác nhau: trẻ em đi
học và ngoài giờ đi học còn phải giúp đỡ gia đình làm nhiều công việc, người
lớn thì cả ngày bận rộn với công việc đồng áng, chăn nuôi…Tất cả đều có
một công việc gì đó để làm. Vì vậy, muốn phỏng vấn một người nào đó mà họ
không có thời gian nhàn rỗi để ngồi trò chuyện thì tôi sẽ tham gia lao động

cùng họ. Tôi học cách lao động cùng họ, làm những công việc mà họ làm hay
ít ra là cũng có thtrong phụ giúp họ một việc gì đó. Do đặc thù công việc của
nghề nông nên mọi người thường đi ngủ sớm và dậy sớm để làm việc. Tôi
cũng dậy sớm đi làm cùng họ. Khi một người cung cấp tin đi nhổ cỏ tại ruộng
trồng lạc thì tôi cũng cùng họ ra ruộng nhổ cỏ lạc…Trong lúc lao động, vui
chơi hay nghỉ ngơi cùng họ tôi có thể hỏi họ về những vấn đề mà tôi quan
tâm. Tôi thấy rằnngười. khi cùng làm việc với họ thì mối quan hệ giữa tôi và
họ tiến triển nhanh chóng. Chúng tôi có thể gần gũi, thân thiện với nhau hơn
và họ có thể coi tôi như người cùng làng, xóm, thậm chí như người thân trong
gia đình.
2.5 Phỏng vấn
Trong thời gian điền dã, tôi tiến hành phỏng vấn 20 đối tượng và thực
hiện phỏng vấn 8 nhóm ở mọi lứa tuổi và cả hai giới (nam, nữ). Những đối
tượng này bao gồm những em gái đã từng đi giúp việc ngắn ngày ở Hà Nội,
23
người thân trong gia đình của các em, họ hàng, bạn bè hàng xóm và thầy cô
giáo của các em.
Phương pháp nghiên cứu chính ở đây là nghiên cứu trường hợp vì vậy
cần phải chuẩn bị và thực hiện tốt kỹ thuật phỏng vấn sâu cá nhân: Tôi muốn
tạo điều kiện cho người được phỏng vấn nói về vấn đề mà không bị gián đoạn
thì thông tin thu thập sẽ đầy đủ hơn so với trường hợp dùng câu hỏi. Chính vì
vậy, thay vì sử dụng cách phỏng vấn “có – không”, tôi muốn thể hiện như một
cuộc đàm thoại để tạo cảm giác thoải mái, tự nhiên cho người được hỏi.
Trong lúc nói chuyện, những suy nghĩ sâu xa của họ sẽ được bộc lộ. Nhưng
cách phỏng vấn này cũng có những khiếm khuyết riêng: trong khi tôi có thể
gợi mở cho người được phỏng vấn có thể kể hay nói một cách thoải mái về
câu chuyện nào đó và họ có thể sẽ nói nhiều điều mà tôi cho là đi ra ngoài vấn
đề. Vì vậy, những lúc ấy tôi cần cố gắng khéo léo ngắt quãng câu chuyện
bằng một câu hỏi nào đó để lái câu chuyện của họ về phía vấn đề mà tôi quan
tâm.

Ví dụ, khi tôi nói chuyện cùng với mẹ của Hoa về vấn đề học tập của
Hoa tại trường, mẹ của Hoa đã kể rất nhiều và bà kể cả một câu chuyện rất dài
về đời tư của ông hiệu trưởng nhà trường. Nhận thấy đã đi quá xa đề tài, tôi
liền đặt ngay một câu hỏi “ Cô có muốn cho Hoa đi học thêm không?” để lái
câu chuyện về đề tài học tập của Hoa thì mẹ Hoa lại quay trở về với vấn đề
học tập của Hoa mà không cảm thấy bị gián đoạn mạch kể chuyện.
Nhưng trong lúc tiến hành phỏng vấn, tôi cũng gặp phải một số vướng
mắc. Những ngày đầu tiến hành phỏng vấn, tôi cảm thấy gặp nhiều khó khăn
trong cách đặt câu hỏi như thế nào cho người được phỏng vấn có thể nắm bắt
được vấn đề mà tôi quan tâm. Với tuỳ từng cá nhân người được phỏng vấn mà
tôi lựa chọn cách đặt câu hỏi khác nhau. Trong quá trình tiến hành phỏng vấn,
tôi sử dụng cả hai loại câu hỏi là: câu hỏi đóng và câu hỏi mở


(10)
.
24
Đối với trường hợp trẻ nhỏ, tôi thường đưa ra những câu hỏi đóng và
những câu hỏi mở để trẻ em có thể tự do diễn đạt suy nghĩ của mình thay
bằng những câu hỏi không rõ ràng hoặc có nhiều phương án trả lời để tránh
khả năng dẫn dắt trẻ em trả lời theo cách hiểu của người lớn. Những câu hỏi
dành cho trẻ em là những câu hỏi về: bản thân, gia đình, nguyên nhân dẫn đến
hoạt động lao động giúp việc, kinh nghiệm lao động, tiền công, những cảm
nhận về công việc, những cảm nhận về Hà Nội (con người, cuộc sống…),
quan hệ xã hội (với gia đình, bạn bè, hàng xóm…)
Những câu hỏi mà tôi đưa ra cho đối tượng là bố mẹ, họ hàng, hàng
xóm của trẻ em là về các vấn đề: thông tin cá nhân, gia đình, những điều mà
họ biết về lao động giúp việc ở Hà Nội, thái độ của họ như thế nào về vấn đề
này…(Xem phụ lục)
Có những lúc tôi đưa ra câu hỏi đóng (có/ không) tôi cảm thấy dường

như đối tượng được phỏng vấn đưa ra câu trả lời không chính xác vì có thể
câu trả lời mà họ có thể sẽ đưa ra không nằm trong hai khả năng “có/ không”
ấy.
Khi nói chuyện với Hoa, thay vì câu hỏi “em có thích cuộc sống ở Hà
Nội không ?” tôi hỏi “em thấy cuộc sống ở Hà Nội như thế nào ?”. Với một
câu hỏi như vậy Hoa có thể tự do nói về những cảm nhận của em về Hà Nội
mà không phải lựa chọn giữa câu trả lời là: “có/ không”. “ Ở Hà Nội có
những cái em thích nhưng có những cái em không thích. Khó nói lắm chị ạ!”.
Nếu tôi không đưa ra một câu hỏi mở mà là một câu hỏi đóng thì có lẽ câu trả
lời của Hoa sẽ là: “có/ không” và như vậy thông tin mà tôi nhận được không
thể chính xác với những điều mà Hoa nghĩ. Trong trường hợp này tôi cần gợi
mở cho Hoa có thể đưa ra những thông tin về những điều mà Hoa thích hay
không thích bằng câu hỏi: Em thấy thích/không thích Hà Nội ở những điểm
nào?
25

×