Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN học PHẦN PHÁP LUẬT đại CƯƠNG đề tài hậu quả của tham nhũng đối với sự phát triển kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.9 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Đề tài: Hậu quả của tham nhũng
đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Sinh viên thực hiện: ……………..
Mã sinh viên: …………………
Lớp: ………………………..

HÀ NỘI, 01.2022


1

Lời cảm ơn
Năm học 2021-2022 là một năm học đặc biệt với toàn thể học sinh, sinh
viên và các thầy cơ giáo trên cả nước, vì năm học này được đánh dấu bởi những
ảnh hưởng sâu rộng và diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19. Đại dịch đã
mang đến nhiều khó khăn cho tồn đất nước nói chung và cho ngành giáo dục
nói riêng. Do đại dịch nên chúng em không thể đến giảng đường và được học tập
trực tiếp tại Học viện như các anh chị khoá trước, nhưng chúng em đã cố gắng
và nỗ lực trong suốt thời gian vừa qua để học tập và tiếp thu kiến thức của các
mơn học nói chung và mơn Pháp luật đại cương nói riêng. Chúng em cảm ơn các
thầy cô đã tạo điều kiện cho chúng em được làm bài tiểu luận thay cho thi viết để
phù hợp với điều kiện học tập thực tế hiện nay.
Đây là một trong những bài tiểu luận đầu tiên của em, vì vậy dù cố gắng,
nỗ lực rất nhiều, em biết rằng bài tiểu luận vẫn sẽ có những thiếu sót. Em mong
rằng cô Cao Thị Dung và các thầy cô giáo sẽ giúp đỡ em để bài làm của em được


hoàn thiện nhất. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô, đặc biệt là cô Cao Thị
Dung đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong học phần Pháp luật đại
cương cho chúng em trong học kỳ vừa rồi. Em cảm ơn cơ vì đã giành thời gian
đọc bài và đánh giá, góp ý cho bài tiểu luận của em, giúp đỡ em để hồn thành
bài làm của mình một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn!


2

MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4
5. Kết cấu của tiểu luận
4
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận

5

1.1 Khái niệm tham nhũng

5
1.2 Phân loại tham nhũng

8

1.3 Nguyên nhân của tham nhũng

10

Chương 2: Thực trạng về tham nhũng và hậu quả của tham nhũng đối với
sự phát triển kinh tế ở Việt Nam những năm gần đây

14

2.1 Thực trạng về tình trạng tham nhũng ở Việt Nam những năm gần đây

14

2.2 Hậu quả của tham nhũng đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam những năm
gần đây

21

Chương 3: Giải pháp phòng chống tham nhũng

24

3.1 Các biện pháp về thể chế, tổ chức

24



3

3.2 Các biện pháp về kinh tế

25

3.3 Các biện pháp giáo dục liêm chính

26

Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

27

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, chúng ta đang
nỗ lực thực hiện nhiệm vụ “Cơng nghiệp hố, hiện đại hố” đất
nước để xây dựng một nền kinh tế lớn mạnh hơn. Sự phát triển
của nền kinh tế thị trường mang lại nhiều đóng góp to lớn cho
nền kinh tế, nhưng bên cạnh đó cũng có những hạn chế nhất
định làm ảnh hưởng đến nền kinh tế ấy. Một trong số đó là nạn
tham nhũng- một hiện tượng đã và đang xảy ra ở nhiều nơi trên
thế giới và cả ở Việt Nam. Được cảnh báo như một hiểm hoạ
khủng khiếp đối với tất cả các quốc gia, tất cả các chế độ chính
trị và trình độ phát triển kinh tế, tham nhũng thực sự gây ra tác
động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam, và đâu là giải pháp

để chống lại tệ nạn này? Để giải quyết những thắc mắc đó, em
đã quyết định chọn đề tài “Hậu quả của tham nhũng đối với sự phát
triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện bài Tiểu luận cuối kỳ của học
phần Pháp luật đại cương.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: hiểu rõ ràng và có hệ thống các khái niệm, nguyên
nhân, bản chất của tham nhũng, phân tích được quan hệ giữa tham nhũng và tăng


4

trưởng kinh tế, tìm hiểu chính xác hậu quả của tham nhũng đối với nền kinh tế
Việt Nam hiện nay, tìm hiểu và đưa ra những giải pháp thiết thực, thực tế để
chống lại nạn tham nhũng này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: quan hệ giữa tham nhũng và phát
triển kinh tế, hậu quả mà tham nhũng để lại kìm hãm sự phát
triển kinh tế nước ta trong thời đại hiện nay như thế nào, giải
pháp để hạn chế, ngăn chặn, từng bước loại bỏ tệ nạn tham
nhũng ra khỏi đời sống xã hội.
Phạm vi nghiên cứu: Tệ tham nhũng tại Việt Nam trong 10
năm trở lại đây và những hậu quả của nó đến nền kinh tế Việt
Nam, so sánh với thực trạng của một số nước khác trong khu
vực và trên thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài tiểu
luận bao gồm: phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp
so sánh, phương pháp liệt kê, phương pháp dùng số liệu.
5. Kết cấu của tiểu luận
Bài tiểu luận có kết cấu như sau:

- Mở đầu
- Nội dung
+ Chương 1: Cơ sở lý luận
+ Chương 2: Thực trạng về tham nhũng và hậu quả tham nhũng ở Việt
Nam những năm gần đây


5

+ Chương 3: Giải pháp chống tệ tham nhũng
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo


6

NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm tham nhũng
Mặc dù tồn tại đã lâu trong lịch sử nhân loại, nhưng kể từ
khi xuất hiện đến nay, chưa có một định nghĩa tổng hợp và được
cơng nhận trên tồn thế giới về “tham nhũng”. Do sự khác biệt
về truyền thống lịch sử, văn hố, chế độ chính trị, điều kiện kinh
tế- xã hội, mỗi quốc gia đều có một khái niệm khác nhau để chỉ
hiện tượng “tham nhũng”.
Tài liệu hướng dẫn của Liên Hợp quốc về cuộc đấu tranh
quốc tế chống tham nhũng cho rằng: “Tham nhũng- đó là sự lợi
dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng”.
Theo Từ điển tiếng Việt, “Tham nhũng là lợi dụng quyền
hạn để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Hành vi tham nhũng bao

gồm những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô,
trộm cắp tài sản nhà nước, hoặc là lợi dụng địa vị công tác để
trục lợi riêng q đáng thơng qua việc sử dụng khơng chính thức
địa vị của mình, hoặc là tạo ra sự xung đột về thứ tự quan tâm
giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu
trục lợi. Từ đó có thể thấy, tham nhũng đã vượt ra ngoài những
giới hạn của nạn hối lộ.
Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank): “Tham nhũng là
việc lợi dụng quyền lợi cơng cộng nhằm lợi ích cá nhân.”
Tổ chức minh bạch quốc tế - một tổ chức phi chính phủ đi
đầu trong nỗ lực chống tham nhũng toàn cầu, đưa ra khái niệm
tham nhũng như sau: “Tham nhũng là hành vi của người lạm


7

dung chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục
vụ lợi ích cá nhân.” Ngân hàng phát triển châu Á đưa ra khái
niệm tham nhũng là “lạm dụng chức vụ công hoặc chức vụ tư để
tư lợi.”
Ở Việt Nam, trước năm 2005 văn bản vi phạm pháp luật đề cập một cách
toàn diện nhất về tham nhũng và công tác đấu tranh chống tham nhũng là “hành
vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để để
tham ơ, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài
sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức.”
Theo Tổng thư kỹ Liên Hợp quốc, tội phạm tham nhũng được
chia ra làm các loại như sau:
Một là, hành vi của những người có chức có quyền, ăn cắp,
tham ơ và chiếm đoạt tài sản nhà nước (lạm dụng chức vụ,

quyền hạn để thực hiện nhũng hành vi trái pháp luật, bằng hành
động hoặc không hành động).
Hai là, lạm dụng chức quyền để trục lợi bất hợp pháp thông
qua việc sử dụng quy chế chính thức một cách khơng chính thức
(tạo lợi thế cho người khác hoặc cho người quen vi phạm pháp
luật).
Ba là, sự mâu thuẫn, không cân đối giữa các lợi ích chính
đáng do thực hiện nghĩa vụ xã hội với những món tư lợi riêng (có
sự trả cơng cho hành vi đó).


8

Theo luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam được Quốc hội khoá XI
Kỳ họp thứ 8, tại khoản 2 điều 1 đã chỉ rõ: “Tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ , quyền hạn đã lợi dụng chức vụ , quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Các hành vi tham nhũng được nêu rất cụ thể tại Điều 3 Luật Phòng, chống
tham nhũng, bao gồm 12 hành vi:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ vì vụ lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
- Giả mạo trong cơng tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết cơng việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ
lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì
vụ lợi.

- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Hành vi tham nhũng phải bao gồm đồng thời ba dấu hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất, tham nhũng phải được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn. Luật Phịng, chống tham nhũng quy định 4 nhóm người có chức vụ,
quyền hạn bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sỹ quan, quân nhân chuyên


9

nghiệp, cơng nhân quốc phịng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội Nhân dân,
sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn - kỹ thuật trong
cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh
nghiệp của Nhà nước, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp; Người được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ
có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó. Ngồi ra, theo Bộ luật
Hình sự 2015, chủ thể của các hành vi tham ơ tài sản, nhận hối lộ cịn có thể là
người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngồi nhà nước.
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao. Sự lợi dụng, lạm
dụng thông qua hoặc là chức năng chính quyền, hoặc là chức năng tổ chức, lãnh
đạo, hoặc là chức năng hành chính, kinh tế theo nhiệm vụ, công vụ được giao,
hoặc theo thẩm quyền chuyên mơn mà người đó đảm nhận.
Thứ ba, người thực hiện hành vi tham nhũng phải có mục đích, động
cơ vụ lợi (vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn
đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng).


1.2. Phân loại tham nhũng


10

Căn cứ vào mức độ tham nhũng thì tham nhũng có thể được phân chia
thành hai loại:
Tham nhũng lớn: Là hành vi tham nhũng xâm nhập đến những cấp bậc cao
nhất của Chính phủ quốc gia, làm xói mịn lịng tin vào sự quản lý đúng đắn,
nguyên tắc nhà nước pháp quyền và sự ổn định của nền kinh tế.
Tham nhũng nhỏ: Là hành vi tham nhũng có liên quan đến việc đổi chác
một số tiền nhỏ, việc hàm ơn khơng đáng kể bởi những người tìm kiếm sự đối xử
ưu đãi hoặc việc sử dụng bạn bè hay họ hàng nắm giữ những chức vụ nhỏ.
Căn cứ vào mức độ chủ động của đối tượng có hành vi tham nhũng thì
tham nhũng có thể được phân chia thành hai loại:
Tham nhũng chủ động: dùng để chỉ hành vi đề nghị hoặc là đưa hối lộ.
Tham nhũng bị động: dùng để chỉ hành vi nhận hối lộ.
Căn cứ theo tiêu chí lĩnh vực, tham nhũng có thể được phân chia thành:
Tham nhũng trong lĩnh vực kinh tế.
Tham nhũng trong lĩnh vực chính trị.
Tham nhũng trong lĩnh vực hành chính.
Căn cứ theo tiêu chí giới hạn, phạm vi lãnh thổ mà hành vi tham
nhũng xảy ra thì tham nhũng có thể được phân chia thành hai nhóm:
Tham nhũng trong nội bộ quốc gia.
Tham nhũng xuyên quốc gia.
Căn cứ theo phạm vi tham nhũng thì tham nhũng có thể được phân chia
thành hai loại:


11


Tham nhũng trong lĩnh vực công: Là hành vi tham nhũng xảy ra trong cơ
quan nhà nước.
Tham nhũng trong lĩnh vực tư: Là hành vi tham nhũng xảy ra bên ngồi cơ
quan nhà nước.
Căn cứ theo tính chất của hành vi tham nhũng thì tham nhũng có thể
được phân chia loại thành:
Tham nhũng cá nhân đơn lẻ.
Tham nhũng có tổ chức (tham nhũng tập thể).
1.3 Nguyên nhân của tham nhũng
Tham nhũng là một vấn đề phức tạp, mang tính tồn cầu và cũng chứa
đựng yếu tố đặc thù gắn liền với mỗi quốc gia. Tham nhũng được các quốc gia
đánh giá, định nghĩa và nhìn nhận khác nhau, vì vậy, về cơ bản, điều kiện phát
sinh tham nhũng của các nước trên thế giới cũng có nhiều điểm riêng biệt. Tuy
nhiên, nhìn chung, các nghiên cứu về tham nhũng chỉ ra những nguyên nhân cơ
bản của hiện tượng này như sau:
Nguyên nhân khách khách quan:
Một là, quản lý nhà nước yếu kém. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: cơ
chế kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ
hở, giao tài sản cho nhân viên nhưng khơng có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt
chẽ, gian lận trong công tác để chiếm đoạt tài sản,... Các thủ tục, quy định của
Nhà nước chưa được công khai, rõ ràng, tạo điều kiện cho cán bộ tham nhũng;
thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản lý, trong công tác kê khai tài sản,
trong công tác sử dụng tài sản, và thiếu minh bạch trong các văn bản, quy định,
thủ tục. Hơn nữa, việc thiếu trách nhiệm giải trình của các lãnh đạo cấp cao ở các
cơ quan, đơn vị cũng dẫn đến tình trạng thiếu công khai, minh bạch. Cải cách


12


hành chính diễn ra vẫn chậm và lúng túng, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Thủ tục hành chính tuy đã được rà sốt và loại bỏ một phần
nhưng vẫn còn phức tạp, rườm rà, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp.
Chỉ khi nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý xã hội của mình, các nguyên
tắc của nhà nước pháp quyền như dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch...
được tơn trọng và bảo đảm một cách thực sự thì khi đó tham nhũng mới bị kiềm
chế.
Hai là, khung pháp luật về phòng, chống tham nhũng còn chưa đầy
đủ, chặt chẽ hoặc chưa được thi hành hiệu quả. Dù đang được các cơ quan
nhà nước nỗ lực hoàn thiện, nhưng hệ thống pháp luật của nước ta vẫn còn chưa
đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, tạo kẽ hở cho tham nhũng gia tăng. Hệ thống pháp
luật về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam hiện nay tồn tại một số bất cập,
ví dụ như nhiều quy định cịn chưa chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn phòng,
chống tham nhũng và tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế, một số
quy định về phòng, chống tham nhũng cịn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu các
cơng cụ pháp lý cho phép điều tra và xử lý các hành vi tham nhũng một cách hữu
hiệu, chế tài áp dụng với chủ thể tham nhũng còn chưa đủ sức răn đe, thiếu cơ
chế khuyến khích người dân phát hiện và báo cáo, tố cáo, tố giác, cung cấp thông
tin về hành vi tham nhũng, đặc biệt là cơ chế bảo vệ những người này.
Ba là, hệ thống cơ quan phòng, chống tham nhũng quốc gia tuy đã
được xây dựng nhưng hoạt động cịn thiếu hiệu quả, ít nhiều tính hình thức.
Đặc biệt, cơ quan này hiện nay cịn mang thiếu tính độc lập và chưa có cơ chế
phối hợp hữu hiệu với các cơ quan nhà nước khác trong phòng ngừa và chống
tham nhũng. Pháp luật là công cụ mạnh nhất để ngăn chặn, chế tài và xử lý tham


13

nhũng nhưng pháp luật lại chưa nghiêm, lỏng lẻo tạo điều kiện, cơ hội cho tham
nhũng phát triển.

Bốn là, lương và chế độ đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên
chức cịn thấp, khơng đủ trang trải cuộc sống của bản thân và gia đình họ.
Năm là, thể chế chính trị và truyền thống văn hóa hàm chứa những
yếu tố ủng hộ hay khoan dung với hành vi tham nhũng. Ở nước ta còn tồn tại
nhiều phong tục, tập quán dễ bị lợi dụng để ủng hộ hay biện minh cho hành vi
tham nhũng như: Tập quán “miếng trầu là đầu câu chuyện”, “đầu xuôi đuôi lọt”,
“đồng tiền đi trước là đồng tiên khôn”, “không vạch áo cho người xem lưng”,
“đóng của bảo nhau”... Những phong tục, tập quán trên tuy mang bản chất tốt
đẹp nhưng lại dễ bị lợi dụng như chất xúc tác hành vi tham nhũng.
Sáu là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phịng, chống
tham nhũng chưa được coi trọng, cịn hình thức, mang nặng tính phong
trào. Cách thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cịn chưa phù hợp, vì vậy, chưa
tác động sâu sắc đến nhận thức và ý thức của người dân về sự cần thiết của
phòng, chống tham nhũng. Điều này khiến cho người dân chưa phát huy được
tinh thần trách nhiệm trong việc tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tham
nhũng.
Nguyên nhân chủ quan:
Một là, nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng tham
của con người. Mọi hành vi tham nhũng dù dưới hình thức nào chăng nữa đều có
thể quy về “lợi ích cá nhân”. Vì lợi ích cá nhân, người ta có thể làm tất cả, bất


14

chấp mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức,
pháp luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng.
Hai là, phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức bị xuống
cấp. Việc Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa bên cạnh những mặt tích cực thì cũng gây ra
một số tác động tiêu cực. Mặt trái của nền kinh tế thị trường như sự phân hóa

giàu nghèo, sự cạnh tranh khơng lành mạnh, lối sống hưởng thụ, tuyệt đối hóa
giá trị của đồng tiền... đã ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận cán bộ, công
chức, viên chức khiến họ nảy sinh tâm lý làm giàu bằng mọi cách, kể cả tham
nhũng. Bên cạnh đó, do cách thức quản lý nền kinh tế tập trung bao cấp tồn tại từ
lâu nên một số cán bộ, công chức vẫn mang nặng tư tưởng, tâm lý tiêu cực của
thời kỳ này như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu, gây khó khăn cho
người dân...
Ba là, do tâm lý, “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của một bộ
phận người dân còn yếu kém. Với quan niệm sử dụng đồng tiền để giải quyết
mọi công việc là nguyên nhân thúc đẩy tệ tham nhũng trong xã hội. Chính hành
vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vơ tình làm cho khơng ít cán bộ, nhân
viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng này kéo dài làm xuất hiện tư tưởng gây
khó dễ ở cán bộ, cơng chức để nhận “phong bì” từ dân mới giải quyết công việc,
cho rằng nhận hối lộ là một thủ tục tất yếu trong quá trình xử lý cơng việc. Vơ
hình trung điều này tạo nên một cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán
bộ công chức và cả những người muốn dùng tiền để giải quyết cơng việc, dần
dần hình thành nên “văn hóa phong bì”.


15

Bốn là, nhận thức của một số cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị về tính nghiêm trọng, sự nguy hại của
tham nhũng còn chưa đầy đủ. Trong hoạt động phòng, chống tham nhũng, nhiều
cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức một cách sâu sắc về tầm quan trọng của
của công tác này. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng làm trầm trọng thêm
tình trạng tham nhũng ở nước ta.
Những nguyên nhân được phân tích ở trên là nhưng nguyên nhân cơ bản
dẫn đến tình trạng tham nhũng ở Việt Nam. Bên cạnh đó cũng có nhiều nguyên
nhân khác chi phối, góp phần làm nảy sinhm làm trầm trọng hố tình trạng này ở

nước ta.
(Học viện Báo chí và Tun truyền, (2017), “Giáo trình Pháp luật đại cương”,
NxB Tư pháp, Hà Nội.)

Chương 2: Thực trạng về tham nhũng và hậu quả của tham nhũng đối với
sự phát triển kinh tế ở Việt Nam những năm gần đây
2.1 Thực trạng về tình trạng tham nhũng ở Việt Nam những năm gần đây
Là một vấn đề mang tính tồn cầu, tình trạng tham những đã xuất hiện ở
Việt Nam từ khá lâu và ngày càng có xu hướng lan rộng trong xã hội. Những
năm gần đây, thực trạng về tình trạng tham nhũng ở Việt Nam được thể hiện
dưới những hình thức, hành vi như sau:
a. Thất thốt, thiệt hại vơ kể về tài chính và đất đai, nhà cửa tính bằng
tiền, do ‘bộ tứ” gồm 4 tội đồ: Tham ơ, hối lộ, lãng phí, quan liêu gây nên.
Số tiền tham ơ cơng quỹ, bịn rút xà xẻo các dự án, đưa và nhận hối lộ diễn
ra thường xuyên, không ngăn chặn được, gây lo ngại, do dự, nản lòng các nhà
đầu tư.


16

Các tập đồn kinh tế, tổng cơng ty sở hữu nguồn vốn khổng lồ của Nhà
nước tới hơn 1 triệu 240 nghìn tỷ đồng, số làm ăn có lãi rất ít, phần lớn đều làm
ăn cầm chừng, kém hiệu quả. Khơng ít doanh nghiệp nợ tín dụng cao hơn 10 lần
vốn sở hữu. Chưa kể một số khác đầu tư dàn trải tràn lan ngoài ngành, làm mất
hết vốn của Nhà nước, khơng cịn khả năng trả nợ, phải làm thủ tục phá sản. Khá
nhiều cơng ty, xí nghiệp, nơng trường quốc doanh làm ăn thua lỗ triền miên,
nhưng có một nghịch lý là, trong khi đời sống người lao động điêu đứng thì
những người lãnh đạo chủ chốt ở đây lại giàu lên nhanh chóng, trở thành những
nhà tỷ phú, “tư sản đỏ”.
Nợ xấu khó địi của các ngân hàng thương mại quốc doanh tồn đọng khá

lớn, đến nay vẫn chưa giải quyết xong.
Nợ cơng của Chính phủ khơng ngừng tăng lên, năm 2017 tương đương
58% GDP, năm 2018 Chính phủ trình Quốc hội nợ cơng có thể tương đương hơn
64% GDP. Tuy tình hình chưa có gì nguy hiểm, nhưng tính bình qn đầu người,
mỗi người dân gánh nợ cho Chính phủ trên dưới 20 triệu đồng cho các khoản chi
tiêu cơng của Chính phủ, trong khi đại đa số nhân dân cịn rất nghèo.
Tình hình trốn thuế, lậu thuế, khai man thuế, nhất là nợ thuế không trả
được đã lớn hơn cả chục ngàn tỷ đồng. Các cơng ty ma bn bán hóa đơn giá trị
gia tăng, gây thiệt hại cho cơng quỹ hàng trăm tỷ đồng.
Tình hình bất tn lệnh Chính phủ, đua nhau xây dựng trụ sở mới, trang bị
nội thất đắt tiền, mua và đổi ơ tơ sang trọng, chi tiêu hành chính vượt xa mức
quy định. Dùng công quỹ làm quà biếu với giá trị lớn. Đi khảo sát, tham quan,
du lịch, học tập ở nước ngồi cho bản thân và gia đình.
Lập quỹ đen chi dùng cho cá nhân và phe, nhóm liên hoan chè chén, ăn
chơi trác táng… gây thiệt hại nặng nề cả về vật chất và uy tín của Đảng.
Đặc biệt, không nơi nào trên thế giới như ở Việt Nam, những vụ kiện tụng
về đất đai, công sở, nhà ở của dân chiếm tỷ lệ lớn nhất, phức tạp nhất, kéo dài


17

nhiều ngày nhất với 70% tổng số các vụ, việc tiêu cực tham nhũng. Hàng trăm
ngàn héc-ta đất, hàng chục triệu m2 nhà đã rơi vào tay “giặc nội xâm”, gây nên
nhiều thảm cảnh hết sức đau lòng. Những vụ kiện tụng vượt cấp lên Trung ương
diễn ra liên miên, đến này vẫn chưa chấm dứt được. Nguyên do của nó là đua
nhau “trải thảm đỏ” mời gọi đầu tư, khiến cho nhiều khu “đất vàng” ở đô thị,
nhiều khu “đắc địa” ở nông thôn, bờ biển bán với giá rẻ như bèo, nhà đầu tư thu
siêu lợi nhuận. Hàng trăm dự án treo, có những dự án treo hơn chục năm, dân
mất đất, mất nhà, mất công ăn việc làm, sống bần cùng. Đất công, nhà công bị
đem cho thuê, san nhượng, buôn bán trái phép.

Bỏ ra hàng chục triệu USD mua phương tiện, máy móc cũ, lạc hậu đem về
không dùng được, phải đắp chiếu làm phế liệu.
Cổ phần hóa trì trệ, chậm chạp, định giá tài sản công thấp hơn giá thị
trường cả chục lần. Số tiền lớn thất thốt chắc chắn chảy vào túi phe nhóm tham
nhũng.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và các chuyên gia kinh tế giàu kinh
nghiệm của thế giới công tác ở Việt Nam từng nhận xét: Tình hình tham ơ, hối
lộ, lãng phí, quan liêu như đã nêu, cùng với nhiều rủi ro khác, đã dẫn đến hệ
lụy công quỹ Việt Nam thất thốt nhiều năm khơng dưới 5 tỷ USD/mỗi năm.


18

b. Chỉ số cảm nhận thám nhũng của Việt Nam những năm gần đây
Đầu năm 2021, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) đã công bố bảng xếp
hạng Cảm nhận tham nhũng (CPI) 2020 trên tồn cầu. Theo đó, Việt Nam đạt
36/100 điểm, giảm 1 điểm so với năm 2019 và đứng thứ 104/180. Chỉ số được
đánh giá dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và chuyên gia trong về tham
nhũng trong khu vực công.
Điểm CPI của Việt Nam hiện đang thấp hơn điểm trung bình của khu vực
ASEAN (42/100), nhưng vẫn cao hơn một số quốc gia trong khu vực như
Philippines, Lào, Myanmar và Campuchia.
Theo nhận định của tổ chức này, về mặt thống kê, việc giảm 1 điểm của
Việt Nam so với năm 2019 là không đáng kể. Song, xét trên thang điểm 0-100
của CPI (trong đó điểm 0 thể hiện mức độ cảm nhận tham nhũng cao nhất và 100
là mức độ cảm nhận tham nhũng thấp nhất), năm 2020 Việt Nam vẫn thuộc
nhóm nước có điểm dưới 50. Điều này cho thấy tình trạng tham nhũng trong khu
vực công vẫn được cho là nghiêm trọng ở Việt Nam.
Vài năm gần đây, điểm CPI của Việt Nam đã có xu hướng cải thiện theo
hướng tích cực. Lý do theo Tổ chức Hướng tới minh bạch là bởi điều này phản

ánh kết quả các nỗ lực của Đảng trong việc đẩy mạnh cơng tác phịng, chống
tham nhũng, đặc biệt là việc truy tố, xét xử hàng loạt vụ án tham nhũng lớn.


19

Chỉ số tham nhũng của Việt Nam theo Tổ chức Minh bạch thế giới (Transparency
International) từ năm 2002 đến năm 2011

Chỉ số tham nhũng của Việt Nam theo Tổ chức Minh bạch thế giới (Transparency
International) từ năm 2012 đến năm 2020

c. Tình trạng tham nhũng trong đại dịch Covid-19 ở Việt Nam
Đại dịch Covid- 19 trong hơn 2 năm qua đã càn quét qua mọi quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới, gây ảnh hưởng nghiêm trọng và làm đảo lộn đời sống
kinh tế- xã hội của tất cả các quốc gia. Trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức
tạp, nghiêm trọng, khi cả hệ thống chính trị và người dân cùng chung tay thực
hiện các biện pháp để đẩy lùi dịch bệnh để trên cơ sở bảo đảm an tồn, Việt Nam
sớm có thể trở lại cuộc sống bình thường “mới”, thì nhiều đối tượng đang tâm lợi
dụng dịch bệnh để kiếm lời, trục lợi. Một số vụ án tiêu biểu sau có thể cho chúng
ta thấy được mức độ nghiêm trọng của tình hình tham nhũng, hối lộ, lợi dụng


20

chức vụ, quyền hạn để trục lợi trong thời gian qua, đặc biệt là trong đại dịch
Covid- 19. Những vụ án này đặc biệt nghiêm trọng, vì các đối tượng là những
nhà quản lý, những bác sĩ giỏi, có chuyên môn, ảnh hưởng và quan hệ xã hội
rộng rãi.
"Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng" xảy ra tại

CDC Hà Nội
Từ đầu năm 2020, CDC Hà Nội thực hiện mua sắm một số hệ thống
Realtime PCR tự động nhằm đáp ứng nhu cầu xét nghiệm phòng, chống dịch
COVID-19. Do thời gian gấp nên việc mua sắm này được thực hiện theo phương
thức chỉ định thầu. Lợi dụng tình trạng dịch bệnh, Nguyễn Nhật Cảm, giám đốc
CDC Hà Nội đã câu kết với Nguyễn Ngọc Nhất, Nguyễn Thanh Tuyền, Đào Thế
Vinh thỏa thuận giá mua máy xét nghiệm cùng các vật tư khác trước khi thực
hiện quy trình, thủ tục chỉ định thầu thơng thường. Giám đốc CDC Hà Nội cũng
câu kết với Nguyễn Trần Duy gian lận, hợp thức thủ tục thẩm định giá gói thầu
theo đúng giá do CDC Hà Nội yêu cầu. Việc "thổi giá" hệ thống Realtime PCR
tự động được các doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối sử dụng các công ty con
hoặc các cơng ty mua bán hóa đơn mua bán lịng vòng với nhau trong thời gian
ngắn. Như vụ án này, các đối tượng đã mua bán máy xét nghiệm lòng vịng qua 4
cơng ty trong chưa đến 2 ngày, nâng giá trị máy từ 2,3 tỷ đồng lên 7 tỷ đồng (cao
gấp 3 lần giá trị thực của máy). Sau đó, Cơng ty CP định giá và bán đấu giá tài
sản Nhân Thành căn cứ đó đề xuất mức giá và CDC Hà Nội "nhắm mắt" mua
vào. Ngồi gói thầu mua sắm máy xét nghiệm COVID-19 trên, từ năm 2019 đến
tháng 3-2020, CDC Hà Nội còn thực hiện đấu thầu với 16 gói thầu mua trang
thiết bị, vật tư tiêu hao trị giá hơn 81 tỷ đồng. Cùng với đó là 2 gói thầu thiết kế,
in ấn các tài liệu và phát sóng các nội dung tun truyền phịng, chống dịch trị
giá hơn 1,9 tỷ đồng.


21

Vụ án “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ" tại
Bệnh viện Bạch Mai
Ngày 25/9/2020, dư luận bàng hoàng khi Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ
Công an công bố sai phạm tại Bệnh viện Bạch Mai, khởi tố bị can, bắt tạm giam
ông Nguyễn Quốc Anh, nguyên Giám đốc bệnh viện; ông Nguyễn Ngọc Hiền,

nguyên Phó Giám đốc bệnh viện và bà Trịnh Thị Thuận, Kế tốn trưởng, Trưởng
phịng Tài chính kế tốn về hành vi "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành cơng vụ". Q trình điều tra, cơ quan chức năng làm rõ hành vi của một số
lãnh đạo, cán bộ BV Bạch Mai đã lợi dụng cơ chế tự chủ của các đơn vị sự
nghiệp y tế, chủ trương xã hội hóa liên doanh, liên kết mua sắm trang thiết bị y tế
phục vụ khám, chữa bệnh, vì động cơ cá nhân làm trái quy định của Nhà nước,
quy định của Bộ Tài chính và Bộ Y tế; chấp thuận cho Công ty BMS tham gia đề
án, nâng giá thiết bị lên nhiều lần, đẩy giá dịch vụ lên cao nhằm mục đích chiếm
đoạt tiền của người bệnh, gây bất bình trong dư luận xã hội. Theo đó, tháng
1/2017, đề án xã hội hóa được ký kết, Bệnh viện Bạch Mai trang bị hai loại robot
phẫu thuật, trong đó robot Rosa có giá 39 tỷ đồng, robot Mako có giá 44 tỷ đồng.
Thời điểm trên, Công ty BMS vẫn chưa nhập robot Rosa, song Công ty thẩm
định giá VFS đã phát hành chứng thư trái với quy định của pháp luật để cấp
"khống" chứng thư thẩm định 2 robot trên theo giá Tuấn đưa ra là 39 và 44 tỷ
đồng (trong khi giá trị thực của robot Rosa chỉ 7,4 tỷ đồng, tức nâng "khống" gấp
5 lần). Từ ngày 27/2/2017 đến tháng 5/2020, Bệnh viện Bạch Mai đã sử dụng
robot Rosa thực hiện phẫu thuật sọ não cho 629 ca bệnh, thu hơn 22,5 tỷ đồng,
đã thanh tốn chi phí cho Công ty BMS liên quan 551 ca bệnh, tương đương
19,8 tỷ đồng. Bệnh viện được hưởng hơn 4,3 tỷ đồng.


22

Vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng" tại
Bệnh viện Tim Hà Nội
Chiều 13/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án
"vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng", xảy ra tại Bệnh viện
Tim Hà Nội và một số đơn vị liên quan, đồng thời khởi tố bị can, bắt tạm giam 7
bị can. Kết quả điều tra bước đầu cho thấy, một số lãnh đạo, cán bộ tại Bệnh viện
Tim Hà Nội và là thành viên Hội đồng mua sắm, thành viên Tổ chuyên gia đấu

thầu, thành viên Tổ thẩm định đấu thầu cùng một số cán bộ Công ty CP Đầu tư
định giá AIC đã có các hành vi vi phạm hoạt động đấu thầu trong việc mua sắm
vật tư, hóa chất, thiết bị y tế tại bệnh viện, làm tăng chi phí, gây thiệt hại tài sản
cho nhà nước và người bệnh, ảnh hưởng đến hoạt động khám chữa bệnh, gây
bức xúc dư luận. Theo thống kê về các gói thầu được cung cấp bởi Cơng ty
Hồng Nga, mỗi stent cơng ty này nhập khẩu từ Ấn Độ về chỉ 8-11 triệu đồng,
nhưng cung cấp vào bệnh viện vọt lên tới 36,6 đến 42 triệu đồng/stent (chênh từ
28-31 triệu đồng). Chỉ tính riêng 5.587 stent mà Cơng ty Hồng Nga đã cung cấp
vào Bệnh viện Tim Hà Nội từ năm 2015 đến nay, số tiền chênh lệnh mà công ty
này trục lợi là hơn 129,5 tỷ đồng, trực tiếp gây thiệt hại quỹ Bảo hiểm Y tế TP
Hà Nội và túi tiền của bệnh nhân.
(Báo Công an nhân dân. Ngày 16 tháng 6 năm 2021. Phá án tham nhũng giữa đại
dịch COVID-19, bài 1 và bài 2)
2.2 Hậu quả của tham nhũng đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam
những năm gần đây
Tham nhũng là hiện tượng đang xảy ra trên rất nhiều lĩnh vực trong đời
sống xã hội. Từ trong bộ máy chính trị, trong các lĩnh vực về kinh tế, kinh
doanh, trong y tế, giáo dục,… ta đều có thể bắt gặp tình trạng đáng buồn này.
Cũng từ đó, tham nhũng gây ra hậu quả nghiêm trọng về tất cả các lĩnh vực kinh


23

tế, chính trị, văn hố, xã hội và hậu quả cho hầu hết chủ thể trong xã hội. Riêng
đối với triển kinh tế, vấn nạn tham nhũng đã thực sự ảnh hưởng rất nhiều đến sự
phát triển kinh tế nước ta.
Đối với Nhà nước
Với Nhà nước, nạn tham nhũng một mặt làm thất thoát, giảm nguồn thu
ngân sách, thiếu hụt ngân sách do tình trạng trốn thuế hoặc giảm thuế nhờ đút
lót. Mặt khác, các hình thức tham nhũng làm bội chi ngân sách, ngân quỹ, lạm

chi cho nhiều chính sách xã hội và công nghiệp. Việc khiếm thu và lạm chi sẽ
góp phần làm tăng nợ cơng, ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế, xã hội. Khi
ngân sách bị thiếu hụt, Nhà nước hoặc phải cắt giảm các chương trình phúc lợi,
gây thiệt thịi đến các đối tượng xứng đáng thụ hưởng, hoặc phải tăng thuế. Việc
tăng thuế nếu được thực hiện thì trong trường hợp này vẫn chỉ là một giải pháp
ngắn hạn trước mắt, chưa giải quyết căn nguyên vấn đề, lại dẫn đến hậu quả khác
nữa là có thể làm nghèo hố một bộ phận người dân, gây ra bức xúc, bất hợp tác
với các chính sách của chính phủ, đe doạ an ninh xã hội. Bên cạnh đó, thiếu hụt
ngân sách khiến có thể dẫn đến việc nhà nước khơng có đủ tiền chi trả cho các
khoản chi đặc biết, chi phí đầu tư phát triển hoặc trả nợ. Từ đó dẫn đến nợ công
tăng, nền kinh tế đất nước ngày càng bị hạn chế, chậm phát triển.
Đối với khu vực tư nhân
Với khu vực tư nhân, tham nhũng cũng gây ra rất nhiều khó khăn cho các
hủ doanh nghiệp, chủ kinh doanh, các nhà đầu tư, doanh nghiệp kinh doanh, các
công ty,… Tham nhũng kìm hãm sự phát triển của cơng ty, doanh nghiệp, ảnh
hưởng đến doanh thu và lợi nhuận ròng. Về chi tiết, hành vi tham nhũng xuất
phát từ bên trong các doanh nghiệp tư nhân sẽ làm mất tài sản chung của doanh
nghiệp, cơng ty đó, dẫn đến vốn cơng ty sụt giảm, khiến cho công ty không đủ


24

tiền đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, dây chuyền sản xuất,… Từ đó, sản phẩm
sản xuất ra không giữ được chất lượng, không bán được giá cao, từ đó lại ảnh
hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thiệt hại kinh tế từ tham nhũng
đến chủ thể này còn thể hiện trực tiếp ở chỗ họ phải trả những chi phí “bơi trơn”
khi họ phải đối mặt với sự nhũng nhiễu, gây khó dễ của các cơ quan, nhân viên
công quyền.
Đối với cá nhân các công dân
Với cá nhân người dân, tham nhũng trở thành một loại “thuế khơng chính

thức” đánh vào họ. Một mặt, giá thành của hàng hoá, sản phẩm bán ra trên thị
trường đã bị nâng lên nhiều, do các doanh nghiệp sản xuất phải cộng cả chi phí
tham nhũng, đút lót trong quá trình sản xuất, kinh doanh, quảng cáo vào giá
thành để bù chi phí và khơng bị thua lỗ. Trong trường hợp này, chủ thể bị ảnh
hưởng nặng nhất chính là người dân. Mặt khác, các cơng dân cịn phải chịu thiệt
hại kinh tế trực tiếp khi họ phải gửi tiền “lót đường”, “tiền cảm ơn” cho các cơ
quan, nhân viên cơng quyền khi họ có nhu cầu tiếp cận các dịch vụ xã hội như
giáo dục, y tế, thụ hưởng văn hố,… hay có nhu cầu giải quyết các thủ tục hành
chính, pháp lý,… Hậu quả tham nhũng về kinh tế trên người dân làm cho một bộ
phận người dân ngày càng nghèo, điều đó cũng làm ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế quốc gia. Không những thế, tham nhũng cũng ảnh hưởng đến việc phân
hoá thu nhập và công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế. Sự chênh lệch thu nhập
gây nên do tham nhũng sẽ làm yếu đi động lực làm việc, hy sinh vì lợi ích chung.
Bộ phận người dân cịn nghèo, khó khăn sẽ trở nên ngày càng khó khăn, cán bộ,
cơng chức vì tham nhũng mà ngày càng trở nên giàu có, sau thời gian dài có thể
khẳng định, tham nhũng đã góp phần đáng kể vào tốc độ phân hoá giàu nghèo,
khắc sâu hơn những ấn tượng bất cơng, gây kích động và phẫn nộ đối với chế độ
chính trị. Vì thế, ở khía cạnh tham nhũng ảnh hưởng đến cá nhân cơng dân, có


×