Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA HÀNH VI THAM NHŨNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ GIẢI PHÁP NGĂN CHẶN, KHẮC PHỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.45 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 31 (2005 – 2009)
ĐỀ TÀI
TÁC ĐỘNG CỦA HÀNH VI THAM NHŨNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ GIẢI
PHÁP NGĂN CHẶN, KHẮC PHỤC
Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Hữu Lạc Trần Thị Ngọc Giào
MSSV: 5054744
Lớp: Luật Hành Chính-K31

Cần Thơ, 4/2009MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................... 1
2. Mục đích của đề tài ...................................................................................................... 1
3. Phạm vi nghiên của cứu đề tài...................................................................................... 2
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.......................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài .................................................................................... 2
6. Kết cấu của luận văn.................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THAM NHŨNG......................................... 4
1.1Một số lí luận chung về hành vi tham nhũng .............................................................. 4
1.1.1 Lịch sử hình thành hành vi tham nhũng................................................................ 4
1.1.2 Một số khái niệm ở các nước trên thế giới hoặc của các nhà nghiên cứu về
tham nhũng...................................................................................................................... 6
1.2 Cơ sở pháp lý về hành vi tham nhũng ........................................................................ 8
1.2.1 Khái quát sự ra đời của Luật Phòng, chống tham nhũng ....................................... 8
1.2.2 Khái niệm và đặc điểm của tham nhũng theo Luật Phòng, chống tham nhũng .... 10
1.2.3 Các hành vi được xem là tham nhũng theo Luật Phòng, chống tham nhũng........ 12


1.2.4 Nguyên tắc xử lý tham nhũng............................................................................. 14
1.2.5 Các biện pháp xử lý đối với hành vi tham nhũng ................................................ 15
1.2.5.1 Xử lý chủ thể có liên quan đến tham nhũng .................................................. 15
1.2.5.2 Xử lý tài sản tham nhũng .............................................................................. 17
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA HÀNH VI THAM NHŨNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI ...... 20
2.1 Khái quát về tệ nạn tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua....................................... 20
2.1.1 Tình hình tham nhũng ở Việt Nam..................................................................... 20
2.1.2 Nguyên nhân gây ra tham nhũng ........................................................................ 22
2.1.2.1 Các nguyên nhân bên trong........................................................................... 22
2.1.2.2 Các nguyên nhân bên ngoài .......................................................................... 23


2.2 Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội ....................................... 24
2.2.1 Ảnh hưởng của tham nhũng đến chính trị ........................................................... 25
2.2.1.1 Tham nhũng vừa là nguyên nhân vừa là điều kiện làm cho một bộ phận cán
bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất dẫn đến sự lãnh đạo của Đảng bị suy yếu ................ 26
2.2.1.2 Bộ máy nhà nước kém hiệu lực dẫn đến các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước bị vô hiệu hóa .......................................................................... 28
2.2.2 Ảnh hưởng của tham nhũng đến ...........................................................................
292.2.2.1 Tham nhũng là một trong các yếu tố dẫn đến sự phân cực giàu nghèo ngày,
bất công trong xã hội ..................................................................................................... 29
2.2.2.2 Nhân dân bất bình, suy giảm lòng tin vào Đảng và Nhà nước, vào chế độ .... 29
2.2.3 Ảnh hưởng của tham nhũng đến kinh tế ................................................................ 31
2.2.3.1 Tham nhũng làm cho tài sản nhà nước bị thất thoát nghiêm trọng, kinh tế
nhà nước giảm sút, không phát huy được vai trò chủ đạo định hướng ............................ 33
2.2.3.2 Tham nhũng làm thui một môi trường cạnh tranh lành mạnh, cản trở sự phát
triển khả năng cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế nói chung ................................... 35
2.2.3.3 Tham nhũng làm mất khả năng hấp dẫn của môi truờng đầu tư và dần dần
làm suy yếu nền kinh tế ................................................................................................. 35

2.2.4 Ảnh hưởng của tham nhũng đến nền tảng văn hóa đạo đức xã............................ 37
2.2.4.1 Làm gương xấu cho hế thệ trẻ sau này .......................................................... 37
2.2.4.2 Băng hoại đạo đức xã hội.............................................................................. 38
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NGĂN CHẶN, KHẮC PHỤC TÁC ĐỘNG
CỦA HÀNH VI THAM NHŨNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI............................ 40
3.1 Thực trạng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua (từ năm
2006 đến năm 2008) ...................................................................................................... 40
3.1.1 Mặt đạt được ...................................................................................................... 40
3.1.2 Mặt hạn chế........................................................................................................ 44
3.2 Giải pháp ngăn chặn, khắc phục tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống
xã hội ............................................................................................................................ 49
3.2.1 Những giải pháp mang tính chất “khung”........................................................... 49
3.2.2 Những đề xuất giải pháp ngăn chặn, khắc phục tác động của hành vi tham
nhũng đối với đời sống xã hội........................................................................................ 49
3.2.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tham nhũng............................................... 50
3.2.2.2 Tăng cường năng lực, phẩm chất và trách nhiệm giải trình của đội ngũ cán
bộ, công chức ................................................................................................................ 55
3.2.2.3 Phát huy vai trò và khuyến khích sự tham gia tích cực của xã hội vào công
tác phòng, chống tham nhũng ....................................................................................... 56
3.2.2.4 Các biện pháp khác....................................................................................... 57
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn
chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 1 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986 đến nay công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần VI của



Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới, chúng ta
lại gặp nhiều khó khăn trong đó có sự hoành hành của nạn tham nhũng. Tham nhũng
cùng với ô nhiễm môi trường đang là hai căn bệnh ác tính chung của thế giới; trong
nước cùng với “tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới, chệch
hướng xã hội chủ nghĩa, diễn biến hòa bình” được Đảng xác định là bốn nguy cơ đe dọa
sự tồn vong của một chế độ.
Ngày nay cùng với sự năng động của nền kinh tế thị trường tham nhũng ngày
càng phát triển và đã vượt qua phạm vi lãnh thổ của một quốc gia và trở thành một
thách thức mang tính toàn cầu – đó là một nhận định được cả thế giới thừa nhận. Nó là
một trong những trở ngại lớn nhất đối với tăng trưởng và giảm đói nghèo. Ở Việt Nam,
tham nhũng cũng đã được nhận thức khá sâu sắc rằng đó là một trở lực nghiêm trọng.
Bởi vì tham nhũng len lỏi vào mọi ngóc ngách của quan hệ quyền lực lây lan nhanh
chóng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm tha hóa không ít cán bộ, đảng
viên. Tham nhũng cản trở quá trình phát triển kinh tế. Tham nhũng làm đảo lộn các giá
trị đạo đức. Tham nhũng làm vẩn đục các quan hệ xã hội. Nguy hiểm hơn là tham
nhũng đang hình thành một thói quen tồn tại như một thứ luật bất thành văn trong đời
sống xã hội diễn ra trên diện rộng và trở thành một nét ứng xử bị “vật chất hóa”, “tiền
bạc hóa” đến nỗi ai cũng lên án nó nhưng ít ai thoát được khỏi vòng xoáy của nó “cái
vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào”. Và thế là tham
nhũng tiếp tục hoành hành và trở nên trầm trọng hơn, bất chấp các thể chế mà Đảng và
Nhà nước đưa ra để đối phó với nó. Nếu không kịp thời ngăn chặn thì đến một chừng
mực nào đó tham nhũng cùng với những tác động khác sẽ gây mất ổn định chính trị,
kinh tế - xã hội, đe dọa sự tồn vong của một độ. Vì lí do đó nên “Tác động của hành
vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục” đã được
người viết chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cuối khóa của mình.
2. Mục đích của đề tài
Việc phân tích những tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội

và giải pháp ngăn chặn, khắc phục nhằm mục đích:
+ Giúp người viết hiểu rõ hơn về tác hại của hành vi tham nhũng từ đó giải
thích được tại sao Đảng ta lại nhận định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đe dọa
sự tồn vong của một chế độ.Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã
hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
+ Người viết cũng hi vọng qua bài viết này giúp mọi người hiểu rõ hơn về nạn
tham nhũng ở nước ta hiện nay từ đó góp phần làm cho việc phòng, chống tham nhũng
được dễ dàng hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tham nhũng là một mảng đề tài rất rộng và khá nhạy cảm trong xã hội hiện nay
nó có mặt trong mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực hơn thế nó đã vượt ra ngoài ranh
giới phạm vi của một quốc gia trở thành mối quan tâm toàn thế giới. Do khả năng và
kiến thức của người viết có hạn cho nên trong bài nghiên cứu này người viết chỉ tập
trung phân tích những ảnh hưởng của tham nhũng đối với nền kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa của Việt Nam dựa vào những thực tiễn xảy ra trong xã hội thời gian qua từ năm
2006 đến cuối năm 2008 và từ đó đề ra các giải pháp ngăn chăn và đẩy lùi tác động của
hành vi tham nhũng.


4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về các vấn
đề liên quan đến tham nhũng.
Những vấn đề được người viết phân tích trong luận văn có thể được sử dụng để
các tổ chức, cơ quan hữu quan nghiên cứu đưa ra những biện pháp khắc phục nhằm
ngăn chặn kịp thời giảm bớt tình trạng tham nhũng tiến tới đẩy lùi nạn tham nhũng.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Dựa vào những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tham
nhũng cùng với các báo cáo của các tổ chức chuyên trách về phòng, chống tham nhũng
trong và ngoài nước: Thanh tra Chính phủ, ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống
tham nhũng, Tổ chức Minh bạch thế giới (TI)… từ đó người viết đã sử dụng các

phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp…để thực hiện việc nghiên cứu đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có ba chương
- Chương 1. Khái quát chung về tham nhũng
Ở chương này người viết trình bày sơ lược về nguồn gốc tham nhũng, tìm
hiểu một số khái niệm của các nước hoặc quan điểm của các nhà nghiên cứu về tham
nhũng đặc biệt phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về tham nhũng nhất
là Luật Phòng, chống tham nhũng.
- Chương 2. Tình hình tham nhũng thời gian qua và tác động của hành vi tham
nhũng đối với đời sống xã hội Việt NamĐề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với
đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 3 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
Trong phạm vi chương này người viết tập trung phân tích tác động của hành
vi tham nhũng đối với đời sống xã hội đồng thời đánh giá tình hình tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay.
- Chương 3. Giải pháp ngăn chặn, khắc phục tác động của hành vi tham nhũng
đối với đời sống xã hội
Từ thực trạng đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua người
viết đề ra giải pháp ngăn chặn, khắc phục tác động của hành vi tham nhũng để cho
công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả.
Tham nhũng là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp cần phải được nghiên cứu một
cách sâu sát, toàn diện. Trong quá trình nghiên cứu đề tài do kiến thức có hạn nên bài
viết còn nhiều thiếu xót, vì vậy người viết rất mong nhận được sự đóng góp chân thành
của quý thầy cô cùng các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.Đề tài: Tác động của hành
vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 4 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THAM NHŨNG
Chương này gồm có hai phần:
- Phần một: Tìm hiểu về nguồn gốc của tham nhũng, quan điểm của các nước

và các nhà nghiên cứu trên thế giới về tham nhũng.
- Phần hai: Những quy định của tham nhũng trong Luật Phòng, chống tham
nhũng (2005 sửa đổi, bổ sung 2007).
1.1 Một số lí luận chung về hành vi tham nhũng
1.1.1 Lịch sử hình thành hành vi tham nhũng


Từ khi xuất hiện đến nay con người đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội
(nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa) và ba
lần phân công lao động, mà mỗi lần phân công xã hội lại có những bước tiến mới:
- Sau lần phân công lao động xã hội đầu tiên - Chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt
trở thành một nền kinh tế độc lập thì những mầm mống đầu tiên của chế độ tư hữu
xuất hiện, xã hội phân chia thành người giàu, người nghèo;
- Đến lần phân công lao động lần hai - Thủ công nghiệp tách ra khỏi nông
nghiệp, nô lệ đã trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội;
- Lần phân công lao động lần thứ ba - Ngành thương nghiệp phát triển, xuất
hiện tầng lớp thương nhân.
Như vậy, dưới chế độ công xã nguyên thủy không có sự bóc lột, sự thống trị, sự
nô dịch giữa người này với người khác hay tập đoàn này với tập đoàn khác. Sở dĩ như
vậy là vì của cải là thuộc sở hữu tập thể của thị tộc, của bộ lạc, không ai nảy sinh ra tư
tưởng bóc lột người khác. Trong xã hội nguyên thuỷ, sự công bằng và bình đẳng là
“nguyên tắc vàng”, bởi lúc ấy người ta sống trong cộng đồng, dựa vào nhau vì tình
trạng đời sống còn quá thấp. Tuy nhiên, bắt đầu từ lần phân công lao động xã hội đầu
tiên, thời kỳ xuất hiện đồ kim loại, do điều kiện sản xuất đã tiến bộ hơn, năng suất lao
động cũng cao hơn, lao động của mỗi người không những có thể đảm bảo được những
nhu cầu tối thiểu cho đời sống bản thân và con cái, mà còn có thể sản xuất dôi hơn một
ít nữa, có thể làm ra được một số sản phẩm thặng dư, lúc có sản phẩm thừa thì lại có ý
nghĩ là không thể đem chia đều cho mọi người. Do đó mà có thể nảy sinh hiện tượng
người bóc lột người tức là sự chiếm đoạt sản phẩm thặng dư của người khác làm ra để
làm của riêng mình. Một số người được cử chỉ huy dân binh, chuyên trách lễ nghi hoặc

điều hành các công việc chung của thị tộc, bộ lạc (xây đền, làm nhà, làm đường, đắp
đê…). Những người này đã lợi dụng chức phận của mình để chiếm một phần sản phẩm
xã hội cho riêng mình khi chi dùng vào các công việc chung. Từ đó người ta bắt đầu Đề
tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn,
khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 5 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
nghĩ đến cách bóc lột sức lao động của những tù binh bị bắt trong chiến tranh. Đây
chính là hình thức sơ khai của tham nhũng thông qua sự bóc lột sản phẩm thặng dư của
cá nhân, của tập thể.
Chẳng bao lâu, họ chiếm hữu được nhiều của cải vật chất hơn người khác. Thế là
của tư hữu bắt đầu xuất hiện, quan hệ cộng đồng dần dần bị phá vỡ, đồng thời đó cũng
là một bước tiến lớn của lịch sử. Những thay đổi trên đã làm thay đổi đời sống thị tộc,
những xung đột về lợi ích giữa các giai cấp, giữa người giàu và người nghèo diễn ra
gay gắt. Xã hội đòi hỏi cần phải có một tổ chức đứng ra giải quyết mâu thuẫn, xung
đột đó, tổ chức đó chính là Nhà nước. Nhà nước ra đời kịp thời giải quyết những mâu
thuẫn xung đột đồng thời cũng kế thừa những mầm mống tham nhũng sơ khai. Do đó
tham nhũng chỉ trở thành vấn đề của xã hội và phát triển mạnh khi xã hội bắt đầu có
giai cấp, Nhà nước.
Thiết nghĩ lịch sử hình thành, phát triển các hệ thống chính trị là lịch sử tập trung
quyền lực, đi đôi với phân chia quyền lực và kiểm soát quyền lực. Nếu không có một cơ
chế hữu hiệu thì để kiểm soát quyền lực của các cơ quan và công chức nhà nước thì
quyền lực chung của Nhà nước sẽ bị lạm dụng, chiếm đoạt, thoái hóa thành quyền lực cá
nhân, biến thành công cụ, thủ đoạn mưu cầu lợi ích chung của xã hội. Đó chính là quá


trình tha hóa của bộ máy nhà nước mà một trong những biểu hiện của nó là tệ quan liêu,
tham nhũng. Như vậy, tham nhũng là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển,
quản lí kinh tế - xã hội lõng lẽo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực,
hiện tượng tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền
lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế.

Tham nhũng thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền kinh tế kém phát
triển hoặc có mức thu nhập bình quân / đầu người thấp. Tại các nước này con người
thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để tham nhũng. Đối với
một số nước kinh tế phát triển, có mức thu nhập bình quân / đầu người cao, các cá
nhân có sở hữu tài sản lớn mới bắt đầu tham gia chính trường để làm lãnh đạo.
Tóm lại nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là ở sự gặp nhau của hai nhân tố:
- Một là, sự tồn tại, phát triển của xã hội luôn đòi hỏi phải có những cơ quan
quyền lực để điều hòa những lợi ích khác nhau, thậm chí đối lập nhau giữa cá nhân với
cá nhân, giữa cá nhân và xã hội, mà quyền lực thì bao giờ cũng được thể hiện và thực
thi thông qua những con người cụ thể.
- Hai là, con người sống và hành động theo lợi ích. Các Mác nói rằng: “Lịch sử
loài người là lịch sử của những con người hành động nhằm theo đuổi những mục đích
của mình, nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình; nhưng nhu cầu của con người không
ngừng cao hơn, do đó không ngừng nảy sinh, cái sau tiếp theo cái trước và cao hơn cái
trước”. Nếu trước đây chúng ta phấn đấu được ăn no, mặc ấm thì bây giờ chúng ta lại Đề
tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn,
khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 6 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
phấn đấu để được ăn ngon, mặc đẹp. Từ đó, ở một số người nảy sinh một xu hướng tận
dụng đến mức cao nhất quyền lực do địa vị xã hội, chức vụ nhà nước mà có để đạt tới
mục đích, thõa mãn nhu cầu, lợi ích cho bản thân mình. Lòng ham muốn lợi ích, sự
khát vọng về quyền lực trở thành xu hướng hết sức bền vững, mãnh liệt mang tính chất
của con người.
Đến đây chúng ta đã nhận rõ là những nguyên căn của cá nhân quan liêu, tệ tham
nhũng đã từng tồn tại trong các xã hội cũ vẫn không mất đi trong xã hội mới xã hội
chủ nghĩa của chúng ta. Đi vào chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần nắm chắc trong tay bộ
máy chính quyền của ta là của nhân dân. Tuy nhiên, nó vẫn phải được hiện diện và
thực thi thông qua những cán bộ, công chức nhà nước, quyền lực nhà nước vẫn phải
phân chia cho một số cá nhân cụ thể, công dân cụ thể. Những cá nhân này mặc dù đều
được giác ngộ về chủ nghĩa xã hội được giáo dục về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa vẫn

là những con người cụ thể bằng xương bằng thịt với những nhu cầu và ham muốn lợi
ích riêng tư của mình. Hai yếu tố quyền lực và lợi ích được kết hợp trong những con
người cụ thể vẫn là cội nguồn sâu xa và là điều kiện tự nhiên cho sự nảy sinh và phát
triển các hành vi tham nhũng.
1.1.2 Một số khái niệm ở các nước trên thế giới hoặc của các nhà nghiên cứu về
tham nhũng
Dưới thời đế chế La Mã, khái niệm “corumpire” (tham nhũng) được hiểu rất rộng
rãi là việc phá vỡ, làm hỏng, phá hoại, làm hư hỏng, giả mạo, mua chuộc và hành động
phi pháp, ví dụ trong quan hệ với Tòa án. Khái niệm này được hình thành bằng sự kết
hợp giữa hai từ trong tiếng La tinh gồm “correi” – chỉ một vài thành viên của một bên
có quan hệ trách nhiệm về một đối tượng duy nhất và từ “rumpere” – nghĩa là bẻ gãy,


làm hư hại, phá hoại, hủy bỏ. Sự kết hợp này tạo ra một thuật ngữ độc lập chỉ sự tham
gia của một vài (ít nhất là hai) người trong hoạt động “làm hỏng”, “gây hư hại” cho
tiến trình xét xử của Tòa án hoặc tiến trình quản lý công việc của xã hội. Như vậy,
tham nhũng là vấn đề không mới nó xuất hiện từ rất lâu trong đời sống của con người,
nhưng đến nay lại có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về nó.
Dự luật chống tham nhũng của Nga đưa ra khái niệm: “Tham nhũng là hành vi
nhận phi pháp các phúc lợi vật chất và phi vật chất của những cá nhân được giao trách
nhiệm thực hiện các chức năng nhà nước, hoặc các cá nhân có quyền tương tự sử dụng
quy chế của mình và các khả năng liên quan, cũng như việc mua chuộc các cá nhân đã
nêu trên”.
Ở Đức: tham nhũng là hiện tượng một phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra
đối với công chức có quyền hành.
Ở Áo lại cho rằng “Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột”.Đề tài: Tác động
của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 7 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
Ở Thụy Sĩ cho rằng “Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của
tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước đó là hành vi vi phạm pháp luật để

phục vụ lợi ích cá nhân”.
Theo Ngân hàng thế giới (World Bank viết tắt là WB) tham nhũng là sự “lạm
dụng quyền lực công cộng nhằm thõa mãn lợi ích cá nhân”.
Trong công ước 1999, tại Điều 2 Hội đồng Châu Âu định nghĩa “Tham nhũng là
hành vi đòi hỏi, đề nghị đưa hoặc nhận hối lộ hoặc một lợi ích khác hoặc hứa hẹn hối
lộ hoặc lợi ích khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, làm sai lệch thực hiện đúng đắn của bất
kì chức trách hoặc hành vi theo nghĩa vụ nào của người nhận hối lộ, lợi ích khác hoặc
hứa hẹn hối lộ và lợi ích khác đó”.
Công ước về chống tham nhũng của liên Hiệp Quốc (UNCAC) đã cho rằng
“Tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước trục lợi cho mục đích cá nhân”.
Hội nghị Quốc tế về chống tham nhũng ở Bắc Kinh – Trung Quốc: Tham nhũng
là lòng tham của con người thông qua quyền lực.
Theo Rick Stapenhurst – chuyên gia quản lí công cộng và Shahrzad Secligh, nhà
tư vấn của viện phát triển kinh tế, Ngân hàng thế giới thì “Tham nhũng theo nghĩa đơn
giản nhất là sự lạm dụng quyền lực đa phần là đạt được lợi ích của một nhóm mà
người ta phải trung thành với nó. Tham nhũng có thể do lòng tham thúc đẩy, do ước
muốn duy trì hoặc tăng thêm quyền lực, hay một cách khác khá vô lý là do niềm tin
thường được áp dụng phổ biến nhất cho sự lạm dụng quyền lực công của các chính
khách hay công chức nhà nước, thì nó lại mô tả một mẫu hình ứng xử có thể thấy ở
hầu như mọi lĩnh vực của cuộc sống”.
Giám đốc phụ trách nghiên cứu Trasperency International, ông Jeremy Pope và
Petter Langseth – chuyên gia cao cấp về quản lý khu vực công cộng, bộ phận cải cách
quy
chế và phát triển khu vực tư nhân, Viện phát triển kinh tế, Ngân hàng thế giới thì quan
niệm rằng “Tham nhũng có thể được định nghĩa như sự lạm dụng quyền lực công để mưu
cầu lợi ích cá nhân hay lợi ích của một nhóm người mà ta phải trung thành với nó”.
Theo định nghĩa của một học giả Nye, một định nghĩa được đánh giá là vừa ngắn
gọn, lại có thể khái quát được bản chất của tham nhũng và được nhiều người chấp
nhận thì: “Tham nhũng là hành vi làm sai lệch trách nhiệm, bộ phận chính thống của



một vai trò vì tiền hoặc tài sản trục lợi cho cá nhân (hoặc cho người thân), xâm phạm
các quy tắc, ngược lại với hành xử chuẩn mực, liên quan đến quyền lợi cá nhân”
1
. Qua
định nghĩa trên, tham nhũng bao gồm cả hối lộ, lợi lộc cá nhân do chức vụ đem đến,
chọn người quen, người thân vào những chức vụ mà lẽ ra nhiều người khác có thể làm
nhiệm vụ đó tốt hơn, quyết định không dựa trên nền tảng ích lợi của đơn vị (công ty, xí
nghiệp, thành phố, quốc gia …) mà người có quyền quyết định, như chọn công ty, thực
1
Tạp chí nghiên cứu Lập pháp, số 2 (9/2005), trang 1Đề tài: Tác động của hành vi tham
nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 8 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
hiện dự án không qua tiêu chuẩn giá cả, chất lượng hay những tiêu chuẩn đặc biệt đã
được qui định (ưu tiên cho những công ty trong vùng để yểm trợ phát triển địa
phương hay giảm tình trạng thất nghiệp của địa phương…) mà theo tiêu chuẩn bè
phái cá nhân hay đổi chác…
Theo Mackiavelly – chính trị gia, nhà sử học, nhà văn, nhà ngoại giao Italia
“Tham nhũng là việc sử dụng các khả năng công cộng nhằm lợi cá nhân”.
Mặc dù “tham nhũng” là thuật ngữ được sử dụng rất nhiều và tham nhũng là vấn
đề đau đầu của mọi quốc gia, ở mọi thời đại nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa có
một định nghĩa thống nhất cho nó. Lý do là tham nhũng được tiếp cận từ nhiều quan
điểm khác nhau, từ kinh tế, đạo đức, tôn giáo đến chính trị, xã hội và giai cấp, và các
quan điểm này lại mang dấu ấn lịch sử và cá nhân. Có thể thấy, giữa các nước tuy có
sự khác nhau về truyền thống lịch sử, đặc điểm văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội, tình
hình tham nhũng nhưng qua tìm hiểu ta thấy rằng hầu hết các ý kiến về tham nhũng
đều có sự thống nhất về chủ thể, động cơ, mục đích của hành vi tham nhũng. Quan
niệm phổ biến nhất hiện nay coi “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn, lợi dụng hoặc lạm dụng chức, quyền để vụ lợi, gây thiệt hại đến tài sản, lợi ích
của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các

cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội, làm suy yếu nền kinh tế, nền quốc phòng
và an ninh quốc gia”.
1.2 Cơ sở pháp lí về hành vi tham nhũng
1.2.1 Sự cần thiết phải ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng
Trong những năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trong
trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội không ngừng phát triển, trật tự, an ninh xã
hội được giữ vững, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Tuy nhiên, chúng ta vẫn
đang đứng trước những nguy cơ và thách thức lớn. Tình hình tham nhũng diễn ra
phức tạp ở nhiều lĩnh vực và có xu hướng tăng về quy mô, tính chất ngày càng
nghiêm trọng, thể hiện ở số lượng tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt, thất thoát; số
đối tượng vi phạm pháp luật, trong đó có nhiều cán bộ, công chức, thậm chí có cả
một số cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có hành vi tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của
Nhà nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đánh giá:
“tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài
trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ


lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”. trong nhiều văn kiện, hội nghị của Đảng và
Nhà nước ta cũng đã thể hiện quyết tâm cao trong cuộc đấu tranh với các hành vi Đề tài:
Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc
phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 9 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
tham nhũng nhằm đẩy lùi, ngăn chặn, hạn chế đến mức thấp nhất các hậu quả xấu
của tệ nạn này.
Pháp lệnh chống tham nhũng được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm
1998 và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2000, đã làm cơ sở pháp lý quan
trọng cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng. Các cấp, các ngành
đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử
lý kịp thời nhiều vụ, việc tham nhũng, thu hồi một số lượng lớn tiền, tài sản cho

Nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, Pháp lệnh chống tham nhũng còn bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng ngừa, chống tham
nhũng hiện nay, cụ thể là:
- Chưa quy định đầy đủ, cụ thể về sự công khai, minh bạch của các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng ngân sách, đất
đai, mua sắm tài sản công, quản lý đầu tư, xây dựng, tuyển dụng, đề bạt, đào tạo,
khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
- Chưa có quy định nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, định
mức, tiêu chuẩn và việc xử lý đối với các trường hợp tự ý sửa đổi các chế độ, định
mức, tiêu chuẩn hoặc thực hiện không đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ nhằm
mục đích vụ lợi.
- Chưa có cơ chế, quy định để thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của
pháp luật về những điều cán bộ, công chức không được làm; trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong việc báo cáo kịp thời về hành vi tham nhũng; chưa có quy định
cụ thể về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức và quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
- Chưa có quy định đầy đủ, cụ thể về những người phải kê khai tài sản, thu
nhập của mình; những loại tài sản phải được kê khai; thời gian, điều kiện phải kê
khai; việc xác minh tài sản kê khai và kết luận, công khai kết luận về sự minh bạch
trong việc kê khai tài sản.
- Chưa có quy định cụ thể về việc tổ chức, trách nhiệm và hoạt động phối
hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm toán Nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án và các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong phòng, chống tham nhũng.
Các quy định của pháp luật hiện hành về chống tham nhũng chưa đáp ứng với
yêu cầu của tiến trình hội nhập quốc tế, chưa phù hợp với tinh thần và nội dung của
Công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam ký kết năm 2003;
Chương trình chống tham nhũng khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và sáng kiến
chống tham nhũng trong khuôn khổ APEC mà Việt Nam tham gia năm 2004.
Từ những lý do trên đây đã đặt ra yêu cầu cấp thiết sớm xây dựng và ban hành
Luật Phòng, chống tham nhũng để đáp ứng yêu cầu phòng, chống tham nhũng hiện
nay, khắc phục những hạn chế của pháp lệnh chống tham nhũng hiện hành, đồng Đề tài:

Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc
phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 10 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
thời thể hiện quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong cuộc đấu


tranh chống tham nhũng.
Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 7 đề nghị ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng,
Quốc hội đã thảo luận đưa ra lấy ý kiến nhân dân và đã ban hành Luật Phòng, chống
tham nhũng số 55/2005/QH11 vào ngày 09/12/2005 có hiệu lực thi hành ngày
01/6/2006. Luật Phòng, chống tham nhũng ra đời thể hiện chủ trương đẩy mạnh phòng
ngừa tham nhũng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay của Nhà nước ta,
coi đó là một giải pháp có tính chiến lược, căn bản lâu dài để chủ động ngăn chặn ngay
từ đầu nguy cơ tham nhũng, từng bước hạn chế, đẩy lùi nạn tham nhũng. Đây là một
điểm mới trong pháp luật về phòng, chống tham nhũng; là một bước ngoặt đột phá
trong tư duy lập pháp về phòng, chống tham nhũng nói riêng quản lý nhà nước nói
chung. Nếu trước kia, nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu theo tinh thần của Pháp lệnh
chống tham nhũng năm 1998 là phát hiện và xử lý tham nhũng thì hiện nay, Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2005 cho thấy, bên cạnh tăng cường phát hiện và xử lý
kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, công tác phòng ngừa tham nhũng cũng
phải được coi là một nhiệm vụ lâu dài, then chốt.
Việc đề cao cơ chế phòng ngừa tham nhũng nhằm:
- Góp phần hạn chế những khiếm khuyết, hàn gắn lỗ hỏng trong hệ thống chính
sách, pháp luật hiện hành, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
- Tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động phát hiện, xử lý
tham nhũng khắc phục hậu quả hành vi tham nhũng.
- Tăng cường vai trò, sự tham gia tích cực của nhân dân, các tổ chức đoàn thể,
báo chí trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước nói chung và công tác phòng, chống
tham nhũng nói riêng.
- Góp phần xây dựng một nền quản lý chuyên nghiệp, liêm chính và một xã hội

trong sạch, phi tham nhũng.
Liền sau khi Luật Phòng, chống tham nhũng đi vào đời sống thì có rất nhiều văn
bản dưới luật của Chính phủ, các cơ quan hữu quan ... được ban hành tạo thành hành
lang pháp lý góp phần năng cao hiệu lực thi hành của Luật Phòng, chống tham nhũng.
1.2.2 Khái niệm và đặc điểm của tham nhũng theo Luật Phòng, chống tham
nhũng
Điều 1 khoản 2 của Luật quy định “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Như vậy tham nhũng được mô tả dưới dạng hành vi, bao gồm 3 yếu tố:
- Thứ nhất, hành vi này được thực hiện bởi một đối tượng đặc biệt là người có
chức vụ, quyền hạn.Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và
giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 11 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
- Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
- Thứ ba, hành vi này được thực hiện với mục đích vì vụ lợi. Yếu tố vụ lợi được
hiểu không chỉ là vụ lợi cho cá nhân mình mà còn có thể là vụ lợi cho cơ quan, tổ
chức, đơn vị, địa phương mình hoặc tổ chức, cá nhân khác. Lợi ích được hướng tới ở
đây không chỉ là lợi ích về vật chất mà có thể là lợi ích về tinh thần. Lợi ích đó có thể
trực tiếp hoặc gián tiếp.
Được coi là hành vi tham nhũng nếu có đủ ba yếu tố, nếu thiếu một trong các yếu
tố đó thì tuy không là tham nhũng nhưng có thể là một hành vi vi phạm pháp luật khác


(chẳng hạn: hành vi cố ý làm trái, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…).
Về đối tượng được coi là người có chức vụ, quyền hạn, khoản 3 Điều 1 quy định:
- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn
vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;

- Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo,
quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
- Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực
hiện nhiệm vụ , công vụ đó.
Như vậy có bốn nhóm đối tượng được coi là người có chức vụ, quyền hạn.
- Nhóm thứ nhất là cán bộ, công chức, viên chức được quy định cụ thể trong
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung các năm 2000, 2003). Đây là
nhóm đối tượng chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn về số lượng trong số người có chức vụ, quyền
hạn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng. Đồng thời cán bộ,
công chức, viên chức cũng là nhóm đối tượng thường nắm giữ những vị trí, công việc
liên quan đến vốn, tài sản nhà nước hoặc tiếp xúc trực tiếp, giải quyết công việc của
công dân, doanh nghiệp, có nhiều cơ hội để thực hiện hành vi tham nhũng nên cần được
thể chế hóa và giám sát chặt chẽ để giảm thiểu nguy cơ tham nhũng.
- Nhóm thứ hai gồm những người có địa vị pháp lý tương đối đặc thù, thuộc các
Lực lượng vũ trang nhân dân và được quy định cụ thể tại Luật Quốc phòng và Luật
Công an nhân dân.
- Nhóm thứ ba có hai loại:
+ Thứ nhất, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của
Nhà nước trong các doanh nghiệp khác.
+ Thứ hai, những cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước,
theo đó, doanh nghiệp của Nhà nước được hiểu là doanh nghiệp một trăm phần trăm
vốn của Nhà nước. Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và
giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 12 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
- Nhóm thứ tư là người có chức vụ, quyền hạn tại Phần các tội phạm về chức vụ
của Bộ luật Hình sự. Theo đó, bên cạnh đối tượng là cán bộ, công chức nhà nước,
những người tuy không phải là cán bộ, công chức nhà nước nhưng được giao nhiệm
vụ, công vụ đó cũng là người có chức vụ, quyền hạn và thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật Phòng, chống tham nhũng.
1.2.3 Các hành vi được xem là tham nhũng theo Luật Phòng, chống tham nhũng

Cần nhìn nhận rằng không phải bao giờ chúng ta cũng dễ xác định được hành vi
nào là tham nhũng, hành vi nào không phải là tham nhũng. Điển hình trong mọi xã hội
đều có phong tục quà cáp, đãi đằng… khi nào thì những tập quán đó một khi liên quan
đến người có chức vụ, quyền hạn thì được xem là tham nhũng.
Theo Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành 29/11/2005 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng 2007 thì các hành vi tham nhũng
gồm có:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.


- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lạm dụng quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn
để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Như vậy, so với hành vi tham nhũng tại Pháp lệnh Chống tham nhũng và các tội
phạm về tham nhũng trong Bộ luật Hình sự thì Luật Phòng, chống tham nhũng có bổ
sung năm hành vi tham nhũng mới. Đây là những hành vi xuất hiện ngày càng phổ
biến trong thời gian gần đây. Việc quy định thêm năm loại hành vi mới này là cần thiết
và là cơ sở pháp lý để đấu tranh với những biểu hiện ngày càng phức tạp của tham nhũng.
- Về hành vi “đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức

vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương
vì vụ lợi”. Đây là một biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Khác với trước kia, tham
nhũng thường là những hiện tượng nhỏ lẻ, được thực hiện bởi một hoặc một vài cá Đề
tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn,
khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 13 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
nhân, thì hiện nay, tham nhũng đã trở nên tinh vi, phức tạp hơn và nhiều khi mang tính
tập thể, có tổ chức. Lợi ích mà hành vi tham nhũng nhằm đạt tới nhiều khi không trực
tiếp mà “vòng vèo”. Do vẫn còn tồn tại cơ chế “xin - cho” trong nhiều lĩnh vực nên có
nhiều cá nhân đại diện cho cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương đã tìm cách hối
lộ cho người có chức vụ, quyền hạn phụ trách việc phê duyệt chương trình, dự án, cấp
kinh phí, ngân sách để được lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình và
thông qua đó để đạt được các lợi ích cá nhân. Hành vi này được coi là hành vi tham
nhũng. Điều cần lưu ý là hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là tội danh được quy định
trong Bộ luật Hình sự không thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng mà thuộc nhóm
các tội phạm về chức vụ. Nhưng hành vi đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ được thực
hiện bởi chủ thể có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức,
đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi thì mới được coi là hành vi tham nhũng. Hành vi này
vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự với tội danh tương ứng (nếu hành vi đó
cấu thành tội phạm) vừa là hành vi tham nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về
tham nhũng.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà
nước vì vụ lợi”. Đây là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của Nhà
nước để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó thay vì phục vụ cho lợi
ích công. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là cho thuê tài sản như: nhà xưởng,
trụ sở, xe ô tô và các tài sản khác để lấy tiền chia nhau, nhiều khi là một số lượng rất
lớn và tình trạng này có ở hầu hết các cấp, từ Trung ương đến địa phương và cần phải
ngăn chặn kịp thời.



- Về hành vi “nhũng nhiễu vì vụ lợi”. Nhũng nhiễu là hành vi đã được mô tả
trong phần giải thích từ ngữ. Cần nhấn mạnh thêm hành vi này rất phổ biến trong hoạt
động của cơ quan công quyền, nhất là tại các cơ quan hành chính, nơi trực tiếp giải
quyết công việc của công dân và doanh nghiệp. Một số cán bộ, công chức không thực
hiện trách nhiệm với thái độ công tâm và tinh thần phục vụ mà ngược lại, thường tìm
cách lợi dụng những sơ hở hoặc không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí tự ý đặt ra các
điều kiện gây thêm khó khăn cho công dân và doanh nghiệp để buộc công dân và
doanh nghiệp phải quà cáp, biếu xén cho mình. Thực chất của hành vi này là sự ép
buộc đưa hối lộ được che đậy dưới hình thức tinh vi, rất khó có căn cứ để xử lý. Cũng
có thể coi hành vi nhũng nhiễu là hành vi “đòi hối lộ” một cách gián tiếp hoặc ở mức
độ chưa thật nghiêm trọng và có thể dùng biện pháp xử lý hành chính.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi
vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi”. Không ít hành
vi tham nhũng được che chắn, thậm chí là đồng lõa của những người có chức vụ, Đề tài:
Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc
phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 14 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
quyền hạn ở cấp cao hơn. Việc bao che cho người có hành vi tham nhũng, việc cản trở
quá trình phát hiện tham nhũng nhiều khi được che đậy dưới rất nhiều hình thức khác
nhau: thư tay, điện thoại, nhắc nhở, tránh không thực hiện trách nhiệm của mình hoặc
có thái độ, việc làm bất hợp tác với cơ quan có thẩm quyền…
- Hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi”. Đây là hành vi được
thực hiện dưới dạng không hành động. Theo đó, người có chức vụ, quyền hạn đã
không làm một việc mà pháp luật buộc phải làm, chủ yếu là không ngăn chặn hành vi
vi phạm pháp luật, không thực hiện các nghĩa vụ về bảo đảm an toàn, an ninh hay bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức để tạo điều
kiện cho các hành vi vi phạm pháp luật. Và đổi lại, với việc không thực hiện nhiệm vụ,
công vụ, người có chức vụ, quyền hạn sẽ được trao một lợi ích nhất định nào đó. Đây
là hiện tượng hết sức nguy hại, xuất hiện ngày càng nhiều và cần phải đấu tranh mạnh

mẽ.
1.2.4 Nguyên tắc xử lý tham nhũng
Theo điều 4 của Luật phòng chống tham nhũng quy định:
- Mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp
thời, nghiêm minh.
- Người có hành vi tham nhũng ở bất kỳ cương vị nào, chức vụ nào phải bị xử
lý theo quy định của pháp luật.
- Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu; người có hành vi tham nhũng
gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
- Người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát hiện,
tích cực hạn chế thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, tự giác nộp lại tài
sản tham nhũng thì có thể đựoc xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật, giảm nhẹ hình
phạt hoặc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
- Việc xử lý tham nhũng phải được thực hiện công khai theo quy định của pháp luật.
- Người có hành vi tham nhũng đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác vẫn
phải bị xử lý về hành vi tham nhũng do mình thực hiện.


Các nguyên tắc nêu trên thể hiện một thái độ nghiêm khắc và công bằng trong
việc xử lý tham nhũng. Các nguyên tắc xử lý tham nhũng trong Luật được quy định
toàn diện, nghiêm khắc hơn so với các nguyên tắc xử lý trong Pháp lệnh trước đây.
Theo đó, người có hành vi tham nhũng có thể được giảm nhẹ chứ không được miễn xử
lý hoàn toàn, nguyên tắc này nhằm loại trừ việc các cơ quan nhà nước “xuê xoa”,
không xử lý đối với người có hành vi tham nhũng, vốn đang là một hiện tượng tương
đối phổ biến, gây bất bình trong dư luận hiện nay. Ngoài ra, nguyên tắc công khai hóa
việc xử lý kỷ luật đối với người có hành vi tham nhũng cũng là một sự bổ sung quan
trọng và cần thiết nhằm góp phần nâng cao nhận thức của xã hội đối với tham nhũng
và răn đe đối với những người có ý định vi phạm. Quy định về việc xử lý người có Đề
tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn,
khắc phục

CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 15 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
hành vi tham nhũng đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác cũng là để ngăn chặn tình
trạng một số kẻ lợi dụng lúc còn đương chức tranh thủ đục khoét, vơ vét sau đó “hạ
cánh an toàn” trước khi bị phát hiện.
1.2.5 Các biện pháp xử lí đối với hành vi tham nhũng
Không phải mọi hành vi tham nhũng đều bị xử lý về hình sự mà chỉ những hành
vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật Hình sự thì mới được
xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp hình sự (các hành vi được quy định từ
khoản 1 đến khoản 7 điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng), còn những hành vi khác
(từ khoản 8 đến khoản 12 điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng) thì được xác
định là hành vi tham nhũng nhưng chưa cấu thành tội phạm thì được xử lý bằng hình
thức kỷ luật.
Điểm mới của Luật là ngoài việc xử lý người có hành vi tham nhũng, luật còn
quy định việc xử lý tài sản tham nhũng. Quy định này cũng thể hiện rõ quan điểm của
Đảng, Nhà nước trong việc xử lý nghiêm khắc, triệt để, cương quyết thu hồi tài sản do
tham nhũng mà có. Thực tế cho thấy, có nhiều vụ việc tham nhũng đã bị phát hiện và
xử lý, nhưng tài sản tham nhũng không thu hồi được hoặc mức độ thu hồi rất hạn chế,
dẫn tới hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng không cao.
1.2.5.1 Xử lý chủ thể có liên quan đến tham nhũng
Luật Hồng Đức cũng dành hẳn một chương “Vi chế” với 144 điều quy định về
hình phạt đối với hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ. Thiếu trung thực,
chạy chọt xin quan tước, gian dối, chạy án, vượt thẩm quyền, lấy quyền mưu lợi riêng,
chểnh mảng trách nhiệm, chậm trễ việc công, nhằm lẫn gây hại, cố ý làm trái, say mê
tửu sắc làm hại việc công, ngay cả ăn mặc, nói năng không đúng phép …đều bị xử tội.
Đặc biệt là tội tham nhũng bị xử nặng. Ăn hối lộ 20 quan tiền trở lên: chém! Đi sứ
thông đồng ăn hối lộ tiết lộ việc nước: chém! Ngay cả việc để cho vợ, con, người nhà
cậy thế nhũng nhiễu dân hay cho vay nặng lãi: biếm hay bãi chức.
* Đối tượng bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự (Điều 68)
Luật Phòng, chống tham nhũng quy định khá rõ các đối tượng bị xử lý kỷ luật, xử
lý hình sự, ngoài các đối tượng thực hiện các hành vi bị coi là hành vi tham nhũng

(Điều 3), Luật còn quy định một số đối tượng khác thực hiện các hành vi vi phạm quy
định của Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng cũng có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý
hình sự. Quy định này có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của những
người có trách nhiệm, quyền hạn, cũng như của cá nhân, công dân trong cuộc đấu


tranh phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể, những người bị xử
lý kỷ luật, xử lý hình sự bao gồm:Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời
sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 16 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
- Người có hành vi tham nhũng quy định tại Điều 3 (bao gồm 12 hành vi tham
nhũng). Đây là đối tượng có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó
để vụ lợi. Đối tượng này trực tiếp thực hiện các hành vi tham nhũng và là đối tượng
chủ yếu mà Luật Phòng, chống tham nhũng hướng tới điều chỉnh. Ở đây cần lưu ý, đối
tượng trên thực hiện hành vi tham nhũng nào thì bị xử lý hình sự, hành vi tham nhũng
nào thì bị xử lý kỷ luật. Về nguyên tắc, chỉ có 7 hành vi đầu quy định ở Điều 3 Luật
Phòng, chống tham nhũng là có thể xử lý hình sự về tội phạm tham nhũng (theo các tội
danh tương ứng quy định trong Bộ luật Hình sự 1999) bao gồm các tội danh sau: Tội
tham ô tài sản (Điều 278), Tội nhận hối lộ (Điều 279), Tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280), Tộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
công vụ (Điều 281), Tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282), Tội
lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283),
Tội giả mạo trong công tác (Điều 284); hình thức xử lý kỷ luật có thể áp dụng cho tất
cả 12 hành vi tham nhũng được quy định tại Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng.
- Người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng. Đối tượng
này không phải là người trực tiếp thực hiện hành vi tham nhũng, nhưng qua hoạt động
công tác của mình, họ biết được có người thực hiện hành vi tham nhũng, trong trường
hợp này pháp luật yêu cầu họ phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo, tố giác hành vi tham
nhũng đó.
- Người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng. Đây có thể

là người có thẩm quyền xử lý các báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng, cũng
có thể là người không có thẩm quyền nhưng trực tiếp tiếp nhận các báo cáo, tố giác, tố
cáo về hành vi tham nhũng. Trường hợp này họ phải có nghĩa vụ chuyển hồ sơ, tài liệu
liên quan cho người có thẩm quyền xử lý. Trong thời hạn luật định họ có nghĩa vụ xử
lý kịp thời các báo cáo, tố giác, tố cáo đó, nếu không xử lý, tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự. Quy định này nhằm tránh tình trạng cá
nhân có thẩm quyền né tránh trách nhiệm, chậm xử lý, hoặc không xử lý những báo
cáo, tố giác, tố cáo về các hành vi tham nhũng.
- Người có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố
cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng. Đối tượng được quy định ở khoản này
có thể là người trực tiếp thực hiện hành vi tham nhũng, sau khi bị xử lý có hành vi đe
dọa, trả thù người đã phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi
tham nhũng của mình cho cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý hoặc có thể là đối
tượng không trực tiếp thực hiện hành vi tham nhũng (ví dụ cấp dưới hoặc gia đình, họ
hàng, bạn bè của người đã bị xử lý về hành vi tham nhũng) có hành vi đe dọa, trả thù,
trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham
nhũng của cấp trên, người thân của họ.Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với
đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 17 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi tham nhũng trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách được xử lý theo Nghị định
107/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 22/9/2006. Quy định này nhằm nâng


cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác đấu tranh
phòng ngừa, chống tham nhũng.
- Người thực hiện hành vi khác vi phạm quy định của Luật Phòng, chống tham
nhũng và quy định khác của pháp luật có liên quan. Các đối tượng theo quy định tại
khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 68 thì tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà có thể xử lý kỷ luật, xử lý hình sự.

* Xử lý đối với người có hành vi tham nhũng (Điều 69)
Người có hành vi tham nhũng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự; trong trường hợp bị kết án về hành vi tham
nhũng và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải bị buộc thôi việc; đối
với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì đương nhiên mất quyền đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều lưu ý ở quy định này là đối với người có hành vi tham nhũng đã bị xử lý về
mặt hình sự thì đồng thời cũng phải chịu xử lý kỷ luật với hình thức buộc thôi việc,
điều này thể hiện thái độ kiên quyết của Đảng, Nhà nước trong việc xử lý người có
hành vi tham nhũng. Theo đó, người có hành vi tham nhũng đã bị xử lý hình sự, không
căn cứ vào hình phạt nặng hay nhẹ đều bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc; đối với đại biểu
các cơ quan quyền lực nhà nước thì đương nhiên bị mất quyền đại biểu.
1.2.5.2. Xử lý tài sản tham nhũng
Xử lý tài sản tham nhũng là vấn đề quan trọng, bởi tài sản là đối tượng chủ yếu
mà những kẻ thực hiện hành vi tham nhũng hướng tới. Việc Luật Phòng, chống tham
nhũng quy định các nguyên tắc cơ bản trong việc xử lý tài sản tham nhũng là cần thiết.
Trên thực tế, công tác xử lý tài sản tham nhũng còn nhiều bất cập, hiệu quả thu hồi tài
sản tham nhũng không cao, nhiều trường hợp phát hiện tham nhũng nhưng không thu
hồi được tài sản tham nhũng. Tình trạng đó diễn ra là vì một phần chưa có cơ chế cụ
thể, rõ ràng, một phần vì không kiểm soát được tài sản của đối tượng thực hiện hành vi
tham nhũng, nên vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt
khi tài sản tham nhũng được tẩu tán ra nước ngoài. Luật Phòng, chống tham nhũng
quy định về xử lý tài sản tham nhũng như sau:Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng
đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 18 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
* Nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng (Điều 70)
Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi,
tịch thu tài sản tham nhũng. Nhận thức được tính quan trọng của việc thu hồi, tịch thu
tài sản tham nhũng, Luật nêu nguyên tắc quy định trách nhiệm cho các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài sản

tham nhũng.
Tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp
hoặc sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp tài sản của công dân, tổ chức bị chiếm đoạt
bởi các hành vi tham nhũng thì phải trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp tài sản đó. Trường hợp tài sản đó được sử dụng với mục đích để thực hiện hành
vi trái pháp luật thì được coi là công cụ, phương tiện thực hiện hành vi trái pháp luật,
trường hợp này tài sản phải được sung quỹ nhà nước.
Người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát hiện hành vi đưa hối lộ
thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ. Quy định này đặt ra theo hướng giảm nhẹ
trách nhiệm cho người đưa hối lộ để khuyến khích họ phát giác các hành vi nhận hối


lộ. Thực tế cho thấy việc xử lý cả người đưa hối lộ khi họ đã chủ động khai báo là
không công bằng. Bộ luật Hình sự cũng quy định người đưa hối lộ chủ động khai báo
trước khi bị phát giác có thể được trả một phần hoặc toàn bộ tài sản đã dùng để hối lộ.
Do vậy, theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, người đưa hối lộ chủ động
khai báo trước khi bị phát giác thì đương nhiên được trả lại toàn bộ tài sản đã dùng để
hối lộ.
Việc tịch thu tài sản tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng được thực hiện bằng
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Quyền
tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp.
Do đó, việc tịch thu, thu hồi tài sản tham nhũng phải được thực hiện bằng quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo trình tự, thủ tục luật định. Quy định này
tránh tình trạng tùy tiện, lạm dụng của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc thu
hồi, tịch thu tài sản tham nhũng.
* Thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài (Điều 71)
Trên cơ sở điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Chính phủ Việt
Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam hoặc
của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp.

Xét về hiệu quả việc thu hồi các tài sản tham nhũng, quy định này là quy định có
lợi cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Việc Chính phủ Việt Nam hợp
tác với Chính phủ các nước trong việc thu hồi tài sản tham nhũng là cần thiết và hoàn
toàn phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đề
tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn,
khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 19 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
Quy định này đặt nền tảng cho việc xây dựng cơ chế đảm bảo cho việc thu hồi các tài
sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Chế định thu hồi tài sản tham nhũng là nội dung
quan trọng nhất của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, trong đó, thu hồi
tài sản được coi là mục đích cao nhất của Công ước.Đề tài: Tác động của hành vi tham
nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 20 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
85.87%
84.81%
47%
40.64%
38.69%
35.51%
34.45%
29.33%
QL đất đai
Dự án công trình xây dựng
Cấp phép
Thuế, lệ phí, quĩ
Điều tra xét xử, thi hành án
Hải quan
Thu, chi ngân sách



Hộ tịch, hộ khẩu
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH THAM NHŨNG THỜI GIAN QUA
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HÀNH VI THAM NHŨNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI VIỆT NAM
Chương này tập trung phân tích những tác động của hành vi tham nhũng đối với
đời sống xã hội Việt Nam trên 4 lĩnh vực: Chính trị - xã hội, kinh tế, đạo đức xã hội
bên cạnh việc đánh giá khái quát về tình hình tham nhũng ở Việt nam thời gian qua để
từ đó làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở chương sau.
2.1 Khái quát về tệ nạn tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua
2.1.1 Tình hình tham nhũng ở Việt Nam
Chính những hiệu quả sau hai năm Luật Phòng, chống tham nhũng có hiệu lực
cùng với hàng loạt biện pháp, công cụ chống tham nhũng được triển khai đã không còn
những vụ tham nhũng, hối lộ đặc biệt nghiêm trọng, lộ liễu. Thay vào đó là hiện tượng
tham nhũng phổ biến, tràn lan trong tất cả các lĩnh vực và không có sự khác biệt giữa
các vùng lãnh thổ. Hai lĩnh vực bị tham nhũng nhiều nhất là quản lý đất đai và dự án
xây dựng công trình.
Hình 1: Lĩnh vực tham nhũng thường xảy ra ở địa phương2
.
Điểm đặc trưng của tham nhũng Việt Nam là có nhiều vụ tham nhũng nhỏ nhặt
tới mức tiền hoặc tài sản của đương sự hối lộ cho các quan chức chỉ trên mức quà biếu
thông thường một chút mà xã hội có thể chấp nhận được, nhưng nó lại mang tính phổ
biến. Và điều nguy hại nhất của nạn tham nhũng ở nước ta lại nằm ở chính đặc điểm
2
Xuân Linh – Dân không dám tố cáo vì sợ bị trả thù. Htpp:// vietbao.vn/Chinh-Tri/Dankhong-dam-to-caotham-nhung-vi-so-bi-tra-thu/20818347/96/Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối
với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 21 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
này, nó cũng chính là nguyên nhân của việc đấu tranh chống tham nhũng của các cơ
quan chức năng kém hiệu quả, làm cho thói quen nhận hối lộ của quan chức và việc
đưa hối lộ của người dân khi có việc trở thành bình thường trong đời sống hàng ngày,

thậm chí còn coi là “văn hóa ứng xử” khi đến làm việc tại cơ quan công quyền và
chính việc nhận và đưa hối lộ trở thành bình thường đã dẫn đến tham nhũng ở nước ta
mang tính phổ biến. Vì vậy, không có giải pháp tích cực nó sẽ phát triển thành một qui
luật trong hoạt động công quyền thì hậu quả khó lường cho sự phát triển của đất nước,
của dân tộc.
Ở nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường, hội nhập nền kinh tế thế giới có một
dạng tham nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ với các quan chức để mưu
lợi riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu tư, cho doanh nghiệp, chạy
chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá gây mất đoàn kết nội bộ cơ quan.
Tham nhũng đã xuất hiện trong đông đảo cán bộ cấp cơ sở, những “quan lại” mới ở
nông thôn bớt xén tiền do dân đóng góp, tiền từ đầu tư của nhà nuớc, tiền thuế, tiền
viện trợ nhân đạo của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước; tiền để xóa đói giảm
nghèo; tiền thực hiện chính sách ưu đãi người có công…


* Về quy mô, tính chất, mức độ, phạm vi vi phạm
Có đủ loại, đủ mức độ tham nhũng của cá nhân, của tập thể; tham nhũng không
có tổ chức và tham nhũng có tổ chức với nhiều đối tượng tham gia. Trong những năm
qua, một số vụ việc tham nhũng nghiêm trọng đã xảy ra với những diễn biến hết sức
phức tạp, liên quan đến một số cán bộ trung, cao cấp, các ngành, địa phương, đơn vị;
trong một số vụ việc lại được sự bao che, bọc lót của cấp trên đối với cấp dưới, hoặc
có sự câu kết chặt chẽ trên dưới, trong ngoài, kể cả với bọn xã hội đen và sự đồng tình,
làm ngơ của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền cùng công tác.
Qua các vụ việc vi phạm tham nhũng nghiêm trọng thời gian vừa qua, có một số
đặc điểm nổi lên cần chú ý về tính chất, mức độ, phạm vi vi phạm, về phương thức,
thủ đoạn vi phạm và che giấu tội phạm, về thái độ của các tổ chức, cá nhân có trách
nhiệm đối với các vụ việc vi phạm.
- Thứ nhất, các vụ việc tham nhũng đều mang tính chất tập thể, với một số cán
bộ chủ chốt chủ trì và tham gia với phương thức, thủ đoạn tham nhũng rất tinh vi, xảo
quyệt. Đó là cấp trên và cấp dưới của người đứng đầu các cơ quan trực thuộc hoặc

cùng với những cán bộ, công chức có liên quan. Thậm chí có nhiều vụ tham nhũng
theo cơ chế “gia đình trị” trong một cơ quan, đơn vị điều này thường phổ biến ở các cơ
quan quan lý cấp xã. Đối với các tổ chức kinh tế của Nhà nước thì còn có cả cấp trên
và các tổ chức, đơn vị cấp dưới trực thuộc hoặc cả đối tác bên ngoài tham gia như các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoặc người nhà của các quan chức để thực hiện việc
rút và chia tiền của nhà nước từ các dự án đầu tư.Đề tài: Tác động của hành vi tham
nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 22 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
- Thứ hai, các vụ việc tham nhũng đa số xảy ra trong thời gian dài nhưng không
phát hiện được hoặc chậm phát hiện gây hậu quả nghiêm trọng về tiền, tài sản của nhà
nước, tập thể, làm mất niềm tin của nhân dân đối với tổ chức đảng, chính quyền địa
phương ở những nơi có tham nhũng. Có vụ việc lúc đầu được phát hiện nhưng không
được xem xét hoặc không kiên quyết, triệt để, đồng bộ nên vi phạm ngày càng nghiêm
trọng, kéo dài gây hậu quả khó lường vừa mất cán bộ, vừa thất thoát tài sản…
* Dự báo tương lai
Tình hình tham nhũng trong thời gian tới có thể giảm về số vụ, số đối tượng
nhưng tính chất vi phạm có thể phức tạp hơn, tinh vi hơn, xảo quyệt hơn, đối tượng
tham nhũng là người nước ngoài, người có trình độ, kiến thức pháp luật ngày càng
tăng làm cho việc phát hiện điều tra, khởi tố cũng khó hơn.
2.1.2 Nguyên nhân dẫn đến tham nhũng
Như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam cũng đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề phát triển, trong đó có vấn nạn tham nhũng. Nhìn chung nguyên
nhân gây ra tham nhũng rất đa dạng chúng không tác động một cách riêng lẻ, đơn điệu

luôn nằm trong mối quan hệ tổng thể, đan xen nhau. Tham nhũng ở nước ta có những
nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự lạc hậu, nghèo đói của một xã hội tiểu nông,
phong
kiến gia trưởng lại bị chủ nghĩa thực dân cai trị bóc lột đến kiệt quệ gần 100 năm. Ở các
nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng, tham nhũng thường bắt nguồn
từ những căn nguyên:

2.1.2.1 Các nguyên nhân bên trong


* Thứ nhất: Các nguyên nhân thuộc về chính sách pháp luật.
Vì hệ thống chính sách pháp luật của nước ta hiện đang trong giai đoạn xây dựng,
sửa đổi để tiến tới hoàn thiện dần, do đó còn rất nhiều kẽ hở cho tham nhũng lợi dụng.
- Còn tồn động cơ chế xin – cho, tạo ra hiện tượng “lại quả”, “phần trăm”.
- Các văn bản chính sách pháp luật còn có hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo,
nhiều khe hở.
- Thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp không rõ ràng.
- Quy định về quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ thiếu chặt chẽ, người có
chức quyền có thể tùy tiện.
- Có những quy định không phù hợp với thực tế tạo cơ hội cho cán bộ công
chức gây nhũng nhiễu.
* Thứ hai: Các nguyên nhân có liên quan đến công tác tổ chức và cán bộ.
- Công tác cán bộ còn nhiều điểm yếu nhất là trong khâu tuyển chọn, đánh giá,
đề bạt, quản lý…
- Tiền lương thấpĐề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải
pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 23 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
- Lối sống, phẩm chất, đạo đức, tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ công
chức suy thoái.
- Do bè cánh nếu ai không muốn tham nhũng sẽ bị loại ra.
* Thứ ba: Các nguyên nhân liên quan đến công tác giám sát, kiểm tra, tố tụng,
điều tra, xét xử.
- Chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của người có chức quyền.
- Chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở.
- Thực hiện các chế tài xử lý tham nhũng chưa nghiêm.
* Thứ tư: Các nguyên nhân có tính chất xã hội
- Trình độ dân trí thấp nên cán bộ dễ dàng nhũng nhiễu.

- Mọi người ít quan tâm đến vốn tài sản công.
- Đưa quà/tiền khi cần giải quyết công việc trở thành thói quen của người dân.
- Do lợi dụng quan niệm “miếng trầu là đầu câu chuyện”.
- Quan niệm không đúng đắn rằng “ai có cơ hội mà không tham nhũng là dại”.
- Quan hệ gia đình, thân nhân trong dòng tộc cũng là điều kiện để phát triển
tham nhũng.
2.1.2.2 Nguyên nhân bên ngoài
Do sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, động cơ vì vụ lợi của hoạt động
kinh doanh đã khiến các nhà doanh nghiệp tìm cách lạm dụng quyền lực công để thu
lợi tư, công chức cũng cố tạo cho mình một đặc quyền nào đó để nhận hối lộ khi cấp
một giấy phép, tiết lộ thông tin…
Tóm lại: Ở trên là những nguyên nhân chung gây ra mọi loại tham nhũng và tùy
từng loại tham nhũng mà có những nguyên nhân đặc thù riêng. Qua đó nhiều người
cho rằng thu nhập thấp của công chức là nguyên nhân quan trọng nhất của bệnh tham
nhũng. Đó có thể là sai lầm lớn. Nhận thức như vậy khó hạn chế được tham nhũng, vì
ít nhất nó cũng tạo ra “lí do tâm lí thuận” nguy hiểm cho tham nhũng bao biện. Rõ
ràng việc đổ lỗi cho đồng lương thấp là có cơ sở tuy nhiên vẫn chưa hợp lý. Hiện mặt
bằng lương ở xã hội ta khác nhau là mấy, có chăng chỉ vài ngành liên quan đến độc
quyền mới có thu nhập siêu ngạch, song chính ở những ngành này lại thường có những


vụ tiêu cực lớn! Nếu do đồng lương thấp vậy tại sao ở ngành dầu khí (cụ thể là Petro
Việt Nam), ngành có thu nhập loại cao nhất nước ta, đặc biệt là thu nhập của các vị
lãnh đạo cao cấp còn hơn nữa, sao họ vẫn tham nhũng?! Tại sao trong thời kỳ đất nước
còn khó khăn trước đây mà bộ máy nhà nước lại trong sạch hơn, ngay cả hiện tại vẫn
còn rất nhiều người dù cuộc sống gia đình vẫn còn khó khăn nhưng họ vẫn sống trong
sạch, thanh liêm, chân chính? Điều này chỉ có thể lí giải bởi lòng tham vô đáy, bởi sự
vị kỷ chỉ vì lợi ích cá nhân mà chà đạp lên lợi ích công cộng, quốc gia, dân tộc và của
cả tương lai con cháu, bởi sự lóa mắt trước đồng tiền và lối sống sa đọa của những kẻ Đề
tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn,

khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 24 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
tham nhũng. Trong thực tế hoạt động công vụ vẫn luôn có những kẻ hở, sự lõng lẽo
khó tránh khỏi của một thời kỳ quá độ, thời kỳ cải cách, chuyển đổi cơ chế vận hành
của nền kinh tế. Vấn đề ở chổ bản thân những người cán bộ, công chức có muốn lợi
dụng kẽ hở, tạo ra kẽ hở để tham nhũng hay không mà thôi. Cơ chế hay chính sách, hệ
thống các quy định đều là những chủ thể kiểm soát bên ngoài đối với việc phòng,
chống tham nhũng còn cơ chế kiểm soát bên trong đối với việc phòng, chống tham
nhũng lại chính là ý thức, sự giác ngộ và sự hiểu biết của chính bản thân người cán bộ,
công chức. Luật pháp mới chỉ là xử “cái ngọn” đã xảy ra chứ không thể xử triệt để “cái
gốc”, cái căn nguyên. Vì thế có thể nói mạch nguồn trước hết dẫn đến tham nhũng
nằm ngay trong bản thân người cán bộ, công chức. Đó là nguyên nhân cơ bản và sâu
xa nhất – nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra tham nhũng.
Nhìn ra thế giới, chúng ta thấy ở các quốc gia nào mà có nền giáo dục tiên tiến,
có trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật hiện đại, người dân có đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần phong phú, có thái độ tôn vinh, trọng thị những tài năng lao động, cống
hiến cho xã hội thì tỉ lệ tham nhũng ở quốc gia đó rất thấp. Hiện tượng tham nhũng có
tính chất tràn lan, phổ biến chỉ diễn ra ở những nước có nền kinh tế xã hội cũng như
nền giáo dục lạc hậu, chậm phát triển. Hình thức tham nhũng thường thấy ở các nước
này là: lợi dụng chức quyền, vị trí quản lý để sách nhiễu, vòi vĩnh hối lộ; biễu diễn ảo
thuật, làm trò phù phép để chia chác tài sản, đất đai, công quỹ, hoặc làm sai lệch hóa
đơn, chứng từ thanh toán; khai gian. Khai khống, bớt xén, rút ruột các dự án có nguồn
tiền trong nước và ngoài nước… Cách thực hiện có khi là cá nhân, có khi là tập thể
theo kiểu móc nối, ràng buộc trên dưới, trong ngoài để ăn chia và bóc lột, che chắn,
chạy tội cho nhau…ở những nước này, tham nhũng và tình trạng đói nghèo, lạc hậu,
bất bình đẳng thu nhập dẫn đến phân hóa, bất ổn định xã hội là một cái vòng lẩn quẩn.
2.2 Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội
Tham nhũng diễn ra khá phổ biến, nghiêm trọng, phức tạp bao trùm tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp, mọi ngành chính vì thế mà ảnh hưởng của hành vi
tham nhũng đối với đời sống xã hội là rất lớn bởi vì hậu quả do tham nhũng gây ra trong

từng ngành, từng lĩnh vực riêng lẽ liên kết với nhau tạo thành lực cản phá hủy sự phát
triển bền vững của quốc gia, ảnh hưởng nguy cơ tồn tại của một chế độ theo nguyên lý
“Domino”. Nhà văn hóa nhà giáo dục lớn của nước ta – Lê Quý Đôn – từng nói:
“Quan kiêu, tướng thoái
Tham nhũng tràn lan
Sĩ, phu ngoảnh mặt


Xã tắc lâm nguy…”Đề tài: Tác động của hành vi tham
nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 25 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
2.2.1 Ảnh hưởng của tham nhũng đến chính trị
Tham nhũng trong lĩnh vực này chủ yếu thông qua việc giới thiệu, tuyển chọn,
bầu, bổ nhiệm người vào các cơ quan nhà nước.
- Tham nhũng qua việc bổ nhiệm hay bầu chọn quan chức công thường được
thực hiện dưới dạng người có quyền lực chính trị cao hơn, tạo ra các cơ hội, các ưu
tiên riêng cho các đối tượng họ muốn được lựa chọn, để có được những đặc ân này,
các đối tượng được lựa chọn phải “chăm lo” cho các quan chức cấp trên dưới nhiều
hình thức quà biếu, quà tặng hay những cơ hội có tiền, có lợi khác nhau và hứa hẹn
tiếp tục duy trì nguồn lợi này cho người tiến cử khi đã được đắc cử.
- Tham nhũng trong bổ nhiệm, tuyển chọn còn thể hiện ở việc bổ nhiệm các
thành viên gia đình, những người trong họ hàng, bạn bè, vào những cơ quan công
cộng có vị thế độc quyền, có thể thu lợi nhuận, trong một lĩnh vực hoạt động nào đó
ở khu vực tư nhân hoặc công cộng.
Như vậy, thông qua quyền lực chính trị mà mình có được các quan chức “cài,
cắm” người của mình vào những vị trí trọng yếu để nhằm tiếp cận, hoặc thực hiện
các hành vi tham nhũng từ các hoạt động của các tổ chức tư nhân hay Chính phủ
chịu tác động từ họ hoặc quyền lực của họ có thể chi phối được. Ở hành vi tham
nhũng này, tác động trước mắt là không lớn, nhưng nguy cơ lũng đoạn kinh tế, rồi
lũng đoạn chính trị là tiềm ẩn rất lớn và lại rất khó phát hiện.

Điển hình là vụ bổ nhiệm nguời tham nhũng vào bộ máy chính quyền ở xã Bình Sơn
huyện Phước Long: từ tháng 9/2006 đến tháng 2/2007, ông Hoàng Sỹ Năm – cán bộ địa
chính xã, tham gia đường dây làm sổ đỏ bị kỷ luật sa thải, phải chấp hành hai bản án dân
sự số 16, 17 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long. Tuy nhiên người dân hết sức ngạc
nhiên khi ông Năm lại ngồi vị trí cán bộ lãnh đạo xã và đang chuẩn bị ngấp nghé chức
phó chủ tịch phụ trách văn xã
3
. Hay trường hợp ông Nguyễn Xuân Nhương là nhân viên
bảo vệ kho bạc huyện Ninh Phước (Bình Thuận). Năm 2001 ông xin chuyển công tác về
Ngân hàng Chính sách xã hội, tuy không có trình độ, năng lực, vậy không hiểu sao ông
được lên chức Phó giám đốc Ngân hàng4
.
Từ những hành vi tham nhũng trên dẫn đến các hệ lụy sau:
2.2.1.1 Tham nhũng vừa là nguyên nhân vừa là điều kiện làm cho một bộ phận
cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất dẫn đến sự lãnh đạo của Đảng bị suy yếu
Hồ Chủ tịch vẫn dạy, cán bộ là đầy tớ, là công bộc của dân, phải biết lo trước
nỗi lo của dân, hưởng sau niềm vui của dân. Thực tiễn cho thấy, trong kháng chiến
chống xâm lăng, dù rất gian khổ, ác liệt, hy sinh nhưng tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng
3
Lao động số 222 ngày 25/09/2007
4


Quy Tường - Phó giám đốc ngân hàng xã hội chiếm dụng hàng tỷ đồng. Pháp luật
11/2007Đề tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp
ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 26 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
viên của Đảng vẫn kiên định vững vàng, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Song, hiện nay tham
nhũng đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm
chất, đạo đức và lối sống…điều đó được thể hiện qua các biểu hiện sau:

- Trước hết, việc phát triển nền kinh tế vận hành theo kinh tế thị trường tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Trong đó kinh tế tư nhân phát triển mạnh
mẽ. Động cơ làm giàu đã thôi thúc mọi người. Nhiều cán bộ, đảng viên chưa có điều
kiện tự sản xuất kinh doanh đã “xoay xở” đục khoét tiền của Nhà nước để làm giàu
cho cá nhân mình.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên xa rời quần chúng, quan liêu mệnh lệnh, hách
dịch cửa quyền, không lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân. Khi được giao
những chức vụ quan trọng họ tự coi mình như một ông vua con. Họ bắt những người
dưới quyền phục dịch họ, đối với cấp trên thì tỏ ra khúm núm, xu nịnh. Đối với cấp
dưới họ kiêu ngạo, hống hách. Dân có việc cần họ ngoảnh mặt làm ngơ. Nếu có ai phê
bình, họ tìm cách trù dập ức hiếp. Vì quyền lợi cá nhân họ “cố leo lên” địa vị quan
trọng. Để rộng đường tiến thân, họ sẵn sàng giày xéo lên nhân phẩm người khác. Họ
tìm cách trù dập, cô lập người hiền tài, bổ nhiệm những kẻ kém phẩm chất, kém
chuyên môn nhưng sẵn sàng phục vụ lợi ích cá nhân của họ.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ ra sống xa hoa. Khi quản lý tiền, hàng của
cơ quan họ để thất thoát. Khi mua sắm tài sản công họ cố ý mua cũ bán mới để kiếm
lời chia chác lẫn nhau. Khi tổ chức hội họp chưa chú ý nhiều đến hiệu quả. Nhiều khi
hội họp chỉ là cái cớ để họ nhận quà, nhận tiền biếu xén. Đó là chưa kể họ mượn đến
cớ liên hoan, sinh nhật để đãi cấp trên, nhận hối lộ cấp dưới. Cấp trên biết mười mươi
những khoản ghi trong phiếu công tác của cấp dưới là không đúng nhưng họ vẫn ký
bởi vì nếu xét theo nguyên tắc thì không ai muốn rời khỏi căn phòng máy lạnh với đầy
đủ tiện nghi để đi thực tế ở địa phương.
- Mặt khác quan hệ tiền lương giữa các khu vực còn nhiều bất cập. Một số cán
bộ, công chức ở các cơ quan kinh tế đã phất lên nhanh chóng. Nhiều cán bộ, đảng
viên, công chức liêm khiết hoặc giữ các cương vị lãnh đạo trong các cơ quan hành
chính sự nghiệp đời sống vẫn khó khăn, họ tỏ ra suy tư bất mãn. Đây là cơ hội cho
những phần tử xấu dùng chính sách kinh tế để tấn công. Chính vì vậy trước những “cơ
hội béo bở” từ các dự án đầu tư với số tiền lên đến hàng trăm tỷ USD đã làm cho một
số cán bộ, đảng viên bị mờ mắt, bất chấp nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó là
phải kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham

nhũng, không những thế họ còn tạo ra những “khoảng trống” pháp luật cho những ai
có nhu cầu bất chính. “Chức tước vẫn đưa lại nhiều cơ hội hơn. Do vậy họ cố bám lấy
cái ghế trên suốt đời, rồi quyền lợi đi theo. Nếu thấy chưa tròn trách nhiệm, thấy lương
tâm cắn rứt hãy nên từ chức. Ở Việt Nam, không khéo người ta làm chính trị vì mục Đề
tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội và giải pháp ngăn chặn,
khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 27 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
đích kinh tế, điều đó dẫn tới tệ tham nhũng. Ban đầu là lãnh đạo tốt nhưng quyền lực
có thể làm tha hoá con người" - tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, Phó chủ nhiệm Văn phòng


Quốc hội
5
.
ĩnh vực đầu tư Nhóm A Nhóm B Nhóm C
1. Dự án đầu tư thuộc lĩnh
vực an ninh, quốc phòng có
tính chất bảo mật quốc gia;
có ý nghĩa chính trị - xã hội
quan trọng.
Không kể mức
vốn
2. Đầu tư dự án sản xuất
chất độc hại, chất nổ; dự án
đầu tư xây dựng hạ tầng khu
công nghiệp.
Không kể mức
vốn
3. Dự án đầu tư trong khu
công nghiệp điện, khai thác

dầu khí, hoá chất, phân bón,
chế tạo máy, xi măng, luyện
kim, khai thác chế biến
khoáng sản, xây dựng khu
nhà ở.
Vốn trên 600 tỷ
đồng
Vốn đầu tư từ
30 đến 600 tỷ
đồng
Vốn đầu tư
dưới 30 tỷ
đồng
4. Dự án đầu tư trong lĩnh
vực thuỷ lợi, giao thông
(cầu, cảng, sân bay, đường
sắt, đường bộ…), cấp thoát
nước, hạ tầng kỹ thuật, sản
xuất thiết bị thông tin điện
tử, tin học, hoá dược, thiết bị
y tế, cơ khí, sản xuất vật
liệu, bưu chính viễn thông.
Vốn đầu tư trên
400 tỷ đồng
Vốn đầu tư từ
20 đến 400 tỷ
đồng


Vốn đầu tư

dưới 20 tỷ
đồng
5. Dự án đầu tư xây dựng hạ
tầng khu đô thị mới, dự án
đầu tư trong lĩnh vực công
nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ
tinh, in, vườn quốc gia, khu
bảo tồn khu thiên nhiên, sản
Vốn đầu tư trên
300 tỷ đồng
Vốn đầu tư từ
15 đến 300 tỷ
đồng
Vốn đầu tư
dưới 15 tỷ
đồng
5
Phạm Hiếu, Anh Thư – Bộ trưởng Đào Đình Bình từ chức.
tài: Tác động của hành vi tham nhũng đối với đời sống xã hội
và giải pháp ngăn chặn, khắc phục
CBHD: Nguyễn Hữu Lạc 28 SVTH: Trần Thị Ngọc Giào
xuất nông lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản, chế biến
nông lâm thuỷ sản.
6. Dự án y tế, văn hoá, giáo
dục, phát thanh truyền hình,
xây dựng dân dụng, kho
tàng, du lịch, thể dục thể
thao, nghiên cứu khoa học…
Vốn đầu tư trên

200 tỷ đồng
Vốn đầu tư từ 7
đến 200 tỷ đồng
Vốn đầu tư
dưới 7 tỷ
đồng
Nếu không kịp thời đưa ra khỏi hàng ngũ của Đảng những đảng viên thoái hóa,
biến chất thì sẽ dẫn đến trong nội bộ Đảng những người thoái hóa biến chất sẽ chiếm
đa số đó là nguy cơ làm cho sự lãnh đạo của Đảng bị suy yếu.
2.2.1.2 Bộ máy nhà nước kém hiệu lực dẫn đến các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước bị vô hiệu hóa
Dưới thời phong kiến, khi vua, chúa vùi đầu vào chốn ăn chơi hưởng lạc, bê trễ
việc nước, triều chính rơi vào khủng hoảng thì quan lại bên dưới (thường là những loại


×