Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Đẩy nhanh việc xây dựng khu kinh tế Dung Quất - Chu Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.93 KB, 79 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ mục
tiêu chiến lược 10 năm 2001-2010 của đất nước ta là: “Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, tập trung xây dựng có chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng
quan trọng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị lại
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp
ứng nhu cầu quốc phòng đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây
dựng nền tảng để tiến đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp”. Với mục tiêu đó, trong định hướng phát triển vùng, nghị quyết đại hội IX
của Đảng cũng đã khẳng định “ Đẩy nhanh việc xây dựng khu kinh tế Dung
Quất – Chu Lai”.
Hướng theo xu hướng chung vào mục tiêu của Đảng và Nhà Nước, là một
sinh viên sắp ra trường, đang trong thời kì thực tập tốt nghiệp em cũng muốn
đóng góp một phần nhỏ của mình vào mục tiêu đó. Trong bài em thể hiện quy
hoạch phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khu công
nghiệp Dung Quất.
Bài viết có sự hướng dẫn của thầy giáo: TS. Nguyễn Tiến Dũng
Và cán bộ hướng dẫn của: TS. Trần Hồng Quang
Cuối cùng em xin chân thành cám ơn Giảng viên chính TS.Nguyễn Tiến
Dũng, cán bộ TS. Trần Hồng Quang cùng các cán bộ trong Viện chiến lược phát
triển đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
1

PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ KẾT CẤU HẠ
TẦNG PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
Chương I: Khái luận chung về khu công nghiệp và phát triển
khu công nghiệp.
I-Khái niệm khu công nghiệp:
Khu công nghiệp là không gian kinh tế trong đó hoạt động sản xuất công
nghiệp giữ chức năng chủ yếu của phần lớn dân cư. Trong điều kiện nền kinh tế


thế giới hiện nay thì việc hình thành các khu công nghiệp là tất yếu và mục đích
của các khu công nghiệp có thể chuyên môn hoá sản xuất theo các hướng sau:
sản xuất nguyên nhiên liệu, năng lượng; sản xuất công nghiệp hàng loạt; sản xuất
phụ tùng và bán thành phẩm; sản xuất các sản phẩm công nghiệp cuối cùng.
Hiện nay tên gọi khu công nghiệp cần phân biệt: khu nghiệp được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và khu công ngiệp do các địa phương phê duyệt. Để có
điều kiện phát triển, một không gian kinh tế cần xem xét đến các yếu tố quy
hoạch, các động thái phát triển.
Trong hơn 10 năm đổi mới, trên lãnh thổ Viêt Nam đã hình thành các không
gian kinh tế theo hướng mở, phát huy các lợi thế trong nước, hướng xuất khẩu.
Đến thời điểm hiện nay, các không gian kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt: theo cấp hành chính hiện đã phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội dến 2010 của 15 tỉnh, thành phố. Về quy hoạch vùng với 61 tỉnh, thành phố
chia làm 8 vùng kinh tế, 3 vùng kinh tế trọnh điểm ở 3 miền, trên 70 khu công
nghiệp hoạt động theo Nghị định 36/CP (trong đó có 6 khu chế xuất, một khu
công nghiệp cao Hoà Lạc, một công viên phần mềm Quang Trung), một khu
kinh tế mở Chu Lai, từ năm 1994 đến nay hình thành 18 khu kinh tế cửa khẩu ở
15 tỉnh biên giới đất liền, 15 khu kinh tế quốc phòng, bước đầu hình thành các
khu kinh tế biển và hải đảo trên thềm lục địa Việt Nam.
II- Khái niệm phát triển khu công nghiệp:
1
1- Khái niệm phát triển khu công nghiệp:
Phát triển khu công nghiệp là phát huy những lợi thế về vị trí địa lý và cảng
biển, cùng với nguồn tài nguyên về vật liệu xây dựng, khoáng sản, nông hải sản
và nguồn lao động tương đối dồi dào là điều kiện hình thành và phát triển khu
công nghiệp.
Tập trung các nguồn lực cho phát triển công nghiệp của vùng, hướng vào các
ngành công nghiệp chế biến, nông lâm hải sản như chế biến mía đường, công
nghiệp thực phẩm, công nghiệp chế biến tổng gỗ chế biến hải sản xuất khẩu…
gắn sản xuất với tìm kiếm và mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài.

Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp
cơ khí,luyện kim… cần được phát triển mạnh để phục vụ tiêu dùng và phục vụ
phát triển các khu công nghiệp.
Phát triển một số ngành công nghiệp mới như lọc hoá dầu, luyện thép, đóng
tầu, điện tử, hình thành các khu công nghiệp tập trung.
Chọn một số sản phẩm mũi nhọn thuộc ngành công nghiệp khai khoáng chế
biến thực phẩm, để tập trung đầu tư bằng công nghệ tiên tiến tạo ra hàng hoá
chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao ở trong nước và tham
gia xuất khẩu.
Coi trọng đầu tư chiều sâu, ưu tiên phát triển quy mô vừa và nhỏ với công
nghệ tiên tiến hiện đại. Đồng thời xây dựng mới nhiều khu công nghiệp tập
trung, khu chế xuất, liên kết liên doanh với nước ngoài để phát triển công
nghiệp. Coi công nghiệp là trọnh tâm đột phá trong phát triển kinh tế của địa bàn
đến năm 2010.
2- Các yếu tố tác động đến sự phát triển khu công nghiệp
2.1. V ị trí địa lý và địa hình:
Vị trí địa lý và địa hình là những nhân tố ảnh hưởng lớn tới bố trí sản xuất,
xây dựng các công trình, ảnh hưởng trực tiếp tới sử dụng các loại tàI nguyên lao
động, vật tư, tiền vốn. Địa hình ảnh hưởng lớn tới việc bố trí các công trình công
nghiệp, ảnh hưởng tới thiết kế, thi công các công trình xây dựng. Ở những vùng
có địa hình phức tạp, núi non hiểm trở, chi phí cho thăm dò khảo sát và đầu tư
phát triển rất lớn. Địa hình còn là nguyên nhân tạo nên sự chênh lệch về các chi
phí trong xây dựng đường xá, cầu cống và vận tải.
2.2. Kh í hậu,thuỷ văn:
2
Khí hậu, thuỷ văn có sự phân li theo vùng là tác nhân ảnh hưởng rất lớn đến
sự phân bố và phát triển các ngành Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản chịu tác động của yếu tố khí hậu Ở nước ta tuy
đặc điểm chung khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm mưa nhiều xong sự phân hoá
của khí hậu khá rõ theo lãnh thổ là nguyên nhân hình thành mhiều tiểu vùng khí

hậu, tạo điều kiện để phát triển chuyên canh cây trồng, vật nuôi một cách đa
dạng với năng xuất khác nhau và tốn kém chi phí khác nhau.
2.3. S ự khác biệt giữa tài nguyên đất:
Sự khác biệt giữa tài nguyên đất tạo nên sự phát triển nông nghiệp đa dạng và
trình độ phát triển rất khác nhau theo vùng. Đất lâm nghiệp tập trung chủ yếu ở
vùng chậm phát triển, nhu cầu lâm sản lớn hơn ở các vùng đồng bằng, đô thị.
Đất cao, địa chất công trình tốt tập trung ở dải Trung Du nhưng lao động kĩ thuật
lại tập trung ở vùng đồng bằng nên sự hấp dẫn các nhà đầu tư tới hai vùng này ở
mức độ khác nhau.
2.4. Sự khác biệt về các đặc điểm dân số, lao động và các vấn đề xã hội trên từng
địa bàn lãnh thổ có ý nghĩa quan trọng đối với hình thành cơ cấu kinh tế.
Do điều kiện về tự nhiên và lịch sử phát triển kinh tế và sự phân bố dân cư
trên các vùng khác nhau: đó là sự khác nhau về mật độ dân số, về cơ cấu dân số,
về trình độ lao động, về đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán sinh hoạt và sản
xuất xã hội. Do đó, việc sử dụng và phát huy vai trò của người lao động là rất
khác nhau. Tỷ lệ lao động nam và nữ, cơ cấu lao động theo lứa tuổi khác nhau
cũng ảnh hưởng nhiều tới chi phí lao động. Tất cả những điều đó đều là nguyên
nhân trực tiếp dẫn tới có sự chênh lệch năng suất lao động giữa các vùng. Đối
với những vùng đô thị hoặc vùng đồng bằng có lịch sử phát triển kinh tế văn hoá
từ lâu, nơi tập trung nhiều người có tay nghề cao là điều kiện để phân bố những
ngành đòi hỏi lao động có kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo và ở đó tạo ra những sản
phẩm có giá trị kinh tế cao và đóng góp nhiều cho Quốc gia. Ngược lại, ở trung
du miền núi chậm phát triển là nơi khó khăn, tập trung ít lực lượng lao động kĩ
thuật nên năng suất lao động, hiệu quả kinh tế trong nhiều trường hợp thường
thấp hơn so với các vùng phát triển và đô thị.
2.5. S ự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng của mỗi lãnh
thổ:
Mức độ phát triển sản xuất thường gắn liền với kết cấu hạ tầng. Mức độ tập
trung các cơ sở sản xuất, tập trung các cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là
3

điều kiện thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư, lại còn làm cho các nhà đầu tư tập
trung ở mức độ cao hơn
Ở cá vùng phát triển tập trung nhiều đầu mối giao thông, có sẵn các điều kiện
phát triển sản xuất, do đó các hoạt động kinh tế sống động hơn, các hoạt động
văn hoá - nghệ thuật cũng ở trình độ cao hơn so với vùng chậm phát triển.
4
Chương II: Khái niệm chung quy hoạch phát triển công nghiệp và
kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khu công nghiệp
I- Khái niệm quy hoạch phát triển vùng
1- Khái niệm quy hoạch vùng:
Quy hoạch là một hoạt động nhằm cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của vùng về mặt không gian của quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra trên
lãnh thổ thông qua việc xác định các cơ sở sản xuất, phục vụ đời sống của dân cư
trên lãnh thổ một cách hợp lý để đạt hiệu quả cao.
2- Khái niệm quy hoạch phát triển vùng
Quy hoạch phát triển vùng là một khâu quan trọng trong quy trình kế hoạch
hoá lãnh thổ, bắt đầu từ đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội vùng đến
quy hoạch phát triển và được cụ thể hoá bằng kế hoạch dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn thực hiện trên địa bàn lãnh thổ. Phạm vi quy hoạch phát triển vùng bao
gồm nhiều loại: trên phạm vi cả nước, từ ngành kinh tế lớn, vùng kinh tế hành
chính (tỉnh, huyện), vùng kinh tế ngành chuyên môn hoá hay vùng kinh tế đặc
thù hoặc vùng kinh tế trọng điểm.
3-Ý nghĩa quy hoạch phát triển vùng đến xây dựng khu công nghiệp để phát triển
kinh tế xã hội
Quy hoạch phát triển vùng có ý nghĩa hết sức quan trọng để phát triển kinh tế
xã hội của các vùng và của cả nước. Kinh nghiệm của các nước cho thấyquy
hoạch phát triển vùng là căn cứ không thể thiếu để quy hoạch phát triển các
ngành ,phát triển đô thị, nông thôn, các đơn vị kinh tế cơ sở, để tổ chức phân bố
và sử dụng mọi nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội trên lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển vùng là căn cứ quan trọng để vạch các kế hoạch phát

triển kinh tế-xã hội trên lãnh thổ, và là chỗ dựa để thực hiện việc quản lý Nhà
nước về việc thực hiện chính sách, pháp luật, hạn chế tình trạng tự phát không
5
theo quy hoạch, gây lãng phí nguồn lực xã hội và giảm hiệu quả trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, quy hoạch phát triển
vùng đúng đắn với những chính sách thích hợp cho phát triển sẽ cho phép thực
hiện sự chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của mỗi vùng theo
hướng sử dụng nguồn lực có hiệu quả hơn. Chuyển dần lao động nông nghiệp
sang lao động phi nông nghiệp, dịch vụ.Không ngừng nâng cao, năng suất lao
động, thu nhập cho người dân.Từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng
thuần nông, tạo điều kiện mở rộng thị trường để phát triển sản xuất trong cả
nước.
4-Mục đích và tính chất của quy hoạch phát triển vùng
4.1. M ục đích chủ yếu của quy hoạch:
Phát triển kinh tế-xã hội là phục vụ cho công tác điều hành và chỉ đạo vĩ mô
về phát triển kinh tế và cung cấp những căn cứ cần thiết cho hoạt động kinh tế-xã
hội của dân cư trong vùng, cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư trong
vùng.Giúp các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp có căn cứ khoa học để đưa ra
các chủ trương chính sách, các kế hoạch phát triển cũng như các giải pháp chỉ
đậo điều hành, phát triển kinh tế- xã hội, giúp dân cư trong vùng, các nhà đầu tư
hiểu rõ tiềm năng kinh tế-xã hội trong vùng đó.
4.2. Y êu cầu quy hoạch:
Yêu cầu quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng phải đáp ứng được yêu cầu
tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ, đáp ứng đòi hỏi của kinh
tế thị trường, sử dụng nguồn lực có hiệu quả, ứng dụng tiến bộ công nghiệp kỹ
thuật, tạo ra môi trường phát triển vùng ổn định, bền vững.
4.3. T ính chất của quy hoạch:
Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng là một quá trình biến động có trọng
điểm cho từng thời kỳ. Do đó quy hoạch phải đề cập được nhiều phương án, phải

thường xuyên cập nhật, bổ xung thông tin tư liệu cần thiết để có giải pháp điều
chỉnh kịp thời cho phù hợp với thực tế, quy hoạch vùng không chỉ xây dựng một
lần là xong.
Quy hoạch phát triển vùng là kết quả của quá trình nghiên cứu, đề xuất và lựa
chọn khác nhau cho các giải pháp khác nhau.
6
II- Kh ái niệm quy hoạch phát triển công nghiệp:

Quy hoạch phát triển công nghiệp là tổng kết, đánh giá về cơ cấu phân ngành
công nghiệp, sản phẩm mũi nhọn và sức cạnh tranh trên thị trường của nó.
Tổng kết, đánh giá về phân bố không gian công nghiệp, bao gồm cả các khu,
cụm công nghiệp, (có bao nhiêu khu công nghiệp, thực hiện được thế nào, sắp
tới có phát triển thêm nữa không?).
Tổng kết, đánh giá về phát triển công nghiệp nông thôn (đánh giá các chủ
trương, chính sách về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở khu vực
nông thôn gắn với việc giải quyết việc làm và thu hút lao động, phát triển ngành
nghề và tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, ...).
Tổng kết, đánh giá về các chương trình và dự án ưu tiên.
Tổng kết,đánh giá về các giải pháp và chính sách đã thực hiện để phát triển
công nghiệp.
III-Kh ái niệm quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
1- Khái niệm kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng là toàn bộ những yếu tố vật chất, tinh thần, cơ chế và tổ chức
gắn liền với sản xuất xã hội làm thành môi trường thuận lợi để nền kinh tế vận
động và tăng trưởng bình thường.Trong một Quốc gia, kết cấu hạ tầng có thể bao
gồm cả hệ thống hành chính và quản lý Nhà nước, hệ thống quy tắc thể chế và
pháp chế, hệ thống tài chính tiền tệ và dự trữ Quốc gia, tổ chức bộ máy và cơ chế
kinh tế-xã hội, trình độ quản lý, trình độ dân trí của người dân…
Nhóm kết cấu hạ tầng: Là nhóm ngành mà kết quả hoạt động của nó không
phải là sản phẩm vật chất cụ thể mà là dịch vụ đảm bảo điều kiện cho sự phát

triển của vùng và các ngành trong cơ cấu vùng.Vì thế nhóm kết cấu hạ tầng được
ví như hệ thống tuần hoàn của lãnh thổ tiếp nối giữa các cơ sở sản xuất –dân cư
để làm cho cơ thể vùng được hoạt động bình bình thường. Không chỉ với những
bộ phận trong vùng mà còn là cầu nối giữa vùng với thị trường ngoài vùng.
Những vùng có kết cấu hạ tầng phát triển thì có sức thu hút đầu tư hơn hẳn các
vùng khác, do tiét kiệm được chi phí xây dựng, các công trình phục vụ công
cộng, các công trình bảo vệ môi trường, cây xanh, xử lý nước thải…
7
2- Phân loại kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng kinh tế: là hệ thống các công trình vật chất kĩ thuật phục vụ
cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực trong nền Kinh tế Quốc dân.
Kết cấu hạ tầng xã hội là toàn bộ hệ thống các công trình vật chất kĩ thuật
phục vụ cho các hoạt động văn hoá, xã hội, bảo đảm cho việc thoả mãn và nâng
cao trình độ dân trí, văn hoá tinh thần của dân cư, đồng thời cũng là điều kiện
chung cho quá trình tái sản xuất sức lao động và nâng cao trình độ lao động xã
hội.
3- Đặc điểm, tính chất của các công trình kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước tạo cơ sở và tiền đề cho sản xuất như
xây dụng giao thông với chất lượng tốt, đồng bộ để mở đường cho phát triển một
vùng kinh tế mới hay khu kinh tế mới… Yếu tố nhà ở, điện, nước, thông tin liên
lạc, cần phải chuẩn bị trước cho việc hình thành điểm dân cư, đảm bảo đời sống
người lao động. Tuy nhiên yếu tố đi trước của kết cấu hạ tầng.
Dịch vụ kết cấu hạ tầng có tính chất cộng đồng cao, phục vu cho cả cộng đồng
dân cư mà không phân biệt thành phần kinh tế, tầng lớp dân cư hay giai cấp xã
hội... Chính vì vậy mà ta nói dịc vụ của kết cấu hạ tầng là dịch vụ công cộng xã
hội mang tính phối hợp lại để đảm bảo công bằng và không ngừng nâng cao
phúc lợi xã hội.
Hoạt động của kết cấu hạ tầng đòi hỏi tính đồng bộ cao, vì vậy để nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng thì phải tính đến sự phối hợp giữa
các công trình kết cấu hạ tầng về thời gian xây dựng, công suất thiết kế và thời

gian sử dụng nhằm gia tăng giá trị đột biến, thúc đẩy phát triển của vùng lãnh
thổ.
8
PHẦN II
THỰC TRẠNG VỀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
VÀ KẾT CẤU HẠ TẦNG CỦA KHU
CÔNG NGHIỆP DUNG QUẤT
Chương I: Tiềm năng và nguồn lực của Tỉnh ảnh hưởng tới phát
triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng
I- Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng của Tỉnh Quảng Ngãi
1-Vị trí địa lý kinh tế:
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có diện
tích tự nhiên là 5131,51 Km
2
, dân số1216,6 nghìn người, chiếm 1,55%
diện tích và 1,62% dân số cả nước. Về hành chính tỉnh Quãng Ngãi hiện có 1 thị
xã, 13 huyện cả miền núi và trung du đồng bằng ven biển. Có bờ biển dài
. Phía bắc giáp tỉnh Quãng Tín, Phía Nam giáp tỉnh Bình Định, phía Tây giáp
tỉnh KonTum, phía đông giáp biển Đông.
Tỉnh Quãng Ngãi ở vào trung độ của đất nước, nằm trên trục giao thông Bắc
Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Các quốc lộ
14B và 24 nối các cảng biển đến Tây Nguyên và tương lai gần nối với hệ thống
đường xuyên Á qua Lào, đông bắc Campuchia, Thái Lan, Miama, là cửa ngõ ra
biển của Tây Nguyên và các nước trên đến các nước vùng bắc Á. Vị trí địa lý là
lợi thế quan trọng tạo điều kiện cho tỉnh mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh
trong vùng Duyên Hải, Tây Nguyên và cả nước, kích thích và lôi kéo các ngành
kinh tế trong tỉnh phát triển. Đồng thời cũng đặt cho tỉnh những thách thức phải
vượt qua để phát triển nhanh nền kinh tế nhất là những ngành mũi nhọn theo thế
mạnh đặc thù có ý nghĩa thúc đẩy tỉnh và các tỉnh khác.
2- Điều kiện tự nhiên, địa hình:

9
Địa hình tương đối phức tạp, chủ yếu là đồi núi thấp (thấp dần từ Tây sang
Đông). Phía Tây của tỉnh giáp với dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp
và đồi xen kẽ đồng bằng, thỉnh thoảng có núi chảy ra sát biển. Lãnh thổ bị chia
cắt theo các bồn lưu vực, lưu vực sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, sông Trà Cầu,
mỗi lưu vực sông ở hạ lưu đều tạo thành các dải đồng bằng ven biển nhỏ hẹp.
Địa hình đồng bằng nghiêng nên rất dễ bị rửa trôi, dẫn đến đất bị bạc mầu và
mặn hoá. Ngoài ra là cồn cát ven biển có độ dốc không đối xứng giữa hai sườn
Đông và Tây.
Vùng đồng bằng ven biển nhỏ hẹp theo hạ lưu các sông và bị chia cắt thành
nhiều mảnh nhỏ. Ven biển có nhiều đầm, vịnh, cửa biển, chứa đựng nhiều
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Các sông ngòi không lớn, có độ dốc cao, ngắn, chảy từ đông sang tây, hàm
lượng phù sa thấp, nhưng tiềm năng thuỷ điện lớn. Độ che phủ của rừng đến nay
chỉ còn khoảng trên 40% nên hàng năm, các sông này gây lũ lụt sa bồi, thuỷ phá
nghiêm trọng. Ngược lại, mùa khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới.
Chênh lệch giữa lưu lượng lũ và lưu lượng kiệt đến trên 1000 lần.
Khí hậu quanh năm nóng, nhiệt độ trung bình hằng năm 25
0
C- 27
0
C, lượng
mưa giảm dần từ Bắc vào Nam, khô hạn thường xuyên xảy ra và gần như địa
hình cả tỉnh đều chịu ảnh hưởng của gió Lào.
3- Cơ sở hạ tầng:
3.1. H ệ thống giao thông:
- Đường bộ: Hệ thống giao thông quốc gia gồm đường bộ và đường sắt xuyên
Việt chạy dài theo các tỉnh xuyên suốt theo trục giao thông Bắc-Nam.
+ Đường số 9 từ Đông Hà qua Lao Bảo sang Xavanakhet (Hạ Lào) và chạy
dài tới Đông Bắc Thái Lan.

+ Đường 12 từ Cảng Vũng Áng qua Quãng Bình sang Thà Khẹt đến Đông
Bắc Thái Lan.
+ Đường 19 nối Cảng Quy Nhơn với Thị xã Plâyku qua cửa khẩu Đức Cơ
nối với vùng Đông Bắc Campuchia.
+ Quốc lộ 24 từ Thạch Trụ (km 1068 quốc lộ 1A) qua Quãng Ngãi đến Kon
Tum dài 168Km.
+ Hệ thống giao thông nội tỉnh cũng được chú trọnh phát triển.
10
- Đường hàng không: Tỉnh Quãng Ngãi cũng có sân bay nhưng chưa lớn, đang
được xây dựng và nâng cấp.
- Đường thuỷ: Hệ thống sông ngòi tuy ngắn, nhưng cũng giúp ích cho giao thông
nội bộ và giao thông nối với các tỉnh trong vùng Kinh Tế Trọng Điểm Miền
Trung. Và có cả Cảng biển phục vụ chu chuyển hàng hoá đang được đầu tư nâng
cấp.
3.2. Th ông tin liên lạc:
100% số huyện có tổng đài điện tử, có thể liên lạc thuận tiện ở trong nước với
nước ngoài. 100% số xã có điện thoại, bình quân điện thoại là 28 máy/1000 dân.
3.3. Điện, nước, thuỷ lợi:
- Đến năm 2000, 70% số huyện trong vùng đã có điện lưới Quốc Gia và tỷ lệ xã
có điện là 79,8% thấp hơn tỷ lệ xã có điện của toàn quốc (85,8%).
- Nước sạch mới đáp ứng được cho các thị trấn, thành phố: Ở nông thôn chưa có
hệ thống cung cấp nước sạch. Nguồn nước ngầm trong vùng bị hạn chế.
- Hệ thống thuỷ lợi đã được chú trọng phát triển nhưng do thiếu vốn nên chưa
đáp ứng đủ yêu cầu. Một số công trình chất lượng thấp, vì vậy tình trạng thiếu
nước dẫn đến hạn hán xảy ra ở nhiều nơi, gây hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất
và đời sống.
II- Ti ềm năng và nguồn lực của Tỉnh Quảng Ngãi
1- Nguồn nhân lực, tiềm năng con người, công tác đào tạo, nghiên cứu
khoa học kỹ thuật:
Tính đến năm 2000, dân số trong Tỉnh là khoảng 1216600 người, chiếm

khoảng 12,69% của dân số trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, và chiếm
1,62% dân số cả nước. Mật độ dân số trung bình của tỉnh là 237 người/km
2
xấp
xỉ mật độ trung bình của cả nước. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên toàn tỉnh là
0,83%/năm. Trong tỉnh có 30 dân tộc anh em sinh sống, đong nhất là người
Kinh, chiếm 80% dân số của toàn vùng. Tỷ lệ cư dân sống ở thành thị là 26%.
Dân số trong tỉnh thuộc diện trẻ, gần 50% trong độ tuổi lao động.
Tổng lao động thường xuyên của tỉnh là 614851 người, trong đó số lao động
được đào tạo chính quy có bằng cấp từ công nhân kĩ thuật đến đại học và trên đại
học là 40201 người chiếm 6,53% tổng số lao động thường xuyên. Số cán bộ
khoa học có trình độ đại học trở lên phần lớn tạp trung trong khu vực quốc
11
doanh. Kỹ năng của đội ngũ lao động chưa cao, lao động thủ công chưa qua lao
động còn phổ biến. Để đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp trong tương lai,
nguồn lao động này cần được đào tạo, đào tạo lại, bổ sung cả về số lượng và chất
lượng, đặc biệt cần thích nghi với cơ chế thị trường.
Hiện nay, số lao động đang có yêu cầu chuyển mạnh từ nông nghiệp sang
công nghiệp rất lớn. Phát triển công nghiệp nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho
số lao động đó cũng là một yêu cầu đặt ra cho công nghiệp. Nguồn lao động dồi
dào vừa là một thế mạnh, vừa là một sức ép phát triển công nghiệp giải quyết
công ăn việc làm. Vấn đề này đặt ra cho việc lựa chọn phát triển các ngành công
nghiệp vừa thu hút được nhiều lao động, đồng thời vừa có công nghệ hiện đại,
thích hợp, đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do đó có thể
nói để đảm bảo cho phát triển công nghiệp theo yêu cầu, vấn đề phát triển nguồn
nhân lực về chất lượng cần được chú trọng và đặt lên hàng đầu.
2-Tiềm năng đất:
2.1. Qu ỹ đất và cơ cấu đất
a) Đất nông nghiệp.
Hiện có 797.44ha, tiềm năng có thể phát triển thêm 228.125ha dự kiến

phát triển thêm đến năm 2010 là 188.800ha (trong đó đến năm 2005 là
85.200ha). trong đất nông nghiệp, chú trọng phát triển thêm cây công nghiệp lâu
năm và cây ăn quả đến năm 2010 là 79.300ha trong tiềm năng của loại đất này là
94.033ha.
b) Đất lâm nghiệp
Diện tích đất có rừng hiện có trong toàn vùng là 789.267ha, tiềm năng
phát triển thêm 225.545ha, trong đó 74.374ha rừng phục hồi tái sinh và
151.171ha rừng trồng và vườn ươm.
c) Đất chưa sử dụng
Hiện còn 111.711ha chiếm 38,94% diện tích tự nhiên. Sâu khi đưa vào sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, diện tích chưa sử dụng giảm xuống còn 28,84% vào
năm 2005 và 22,08% vào năm 2010.
2.2. H ệ số sử dụng đất
Nhìn chung tỉnh Quảng Ngãi cũng như các tỉnh miền Trung có tài nguyên
đất thuộc loại nghèo so với cả nước. Tuy nhiên diện tích tự nhiên không phải là
nhỏ nhưng do cấu tạo địa hình nên diện tích đất canh tác ít và chất lượng đất xấu.
12
Địa hình dốc, đồng bằng nhỏ hẹp ở ven biển, không thuận lợi cho việc cơ giới
hoá nông nghiệp. Hệ số sử dụng đất năm 2000 của tỉnh là 1,2 lần.
2.3. Ngu ồn nguyên liệu từ nông lâm ngư nghiệp
a) Trồng trọt
Do địa hình dốc, đất bị rửa trôi nhiều nên đất trồng trọt xấu. Sản xuất nông
nghiệp chưa có chuyển biến mạnh.Chưa hình thành được những vùng chyên
canh trồng cây công nghiệp. Diện tích trồng cây lương thực ít. Cây thuốc lá có
điều kiện phát triển, nhưng do khả năng tiêu thụ thấp nên không mở rộng được
diện tích. Các cây công nghiệp lâu năm có tiềm năng lớn như dừa, cao su, điều,
hồ tiêu, đều có khả năng phát triển mạnh trong tương lai diện tích trồng cây ăn
quả ít và phân tán chỉ có 29.260ha.
b) Chăn nuôi
Chăn nuôi của tỉnh phát triển chậm do điều kiện tự nhiên và khí hậu không

thuận lợi cho phát triển đàn gia súc. Trong vùng không có nhiều đồng cỏ lớn,
thiếu nước. Chưa hình thành được trang trại chăn nuôi lớn, chăn nuôi tập trung
chủ yếu ở các hộ gia đình.
c)Lâm nghiệp
Tính đến đầu năm 2000 vùng có 1.198.267ha đất rừng chiếm 20,19% diện
tích rừng toàn quốc. Diện tích rừng tự nhiên chiếm 80% diện tích rừng của vùng
và chiếm 19,67% diện tích rừng tự nhiên toàn quốc. Diện tích rừng trồng là
330.226ha, chiếm 30,2% diện tích rừng trồng toàn quốc và chiếm 15,1% diện
tích rừng toàn vùng.
d) Thuỷ hải sản
Tiềm năng tài nguyên thuỷ, hải sản của tỉnh khá phong phú. Bờ biểm dài,
trữ lượng hải sản cho phép hàng năm có thể khai thác khoảng 300.000 tấn, ven
biển có nhiều bãi triều, đầm phá, đó là những nơi thuận lợi cho việc nuôi trồng
thuỷ sản nước lợ.
Việc khai thác thuỷ sản chưa tương xứng với tiềm năng. Cũng như các
vùng khác, những đổi mới trong chính sách của Nhà nước đang có tác động tích
cực tới sự phát triển của thuỷ sản. Hệ thống cảng biển còn chưa đáp ứng yêu cầu.
Việc chế biến thuỷ sản để nâng cao chất lượng thương phẩm cũng còn nhiều hạn
chế. Ở một số vùng ven biển, môi trường bị suy thoái, nguồn lợi thuỷ sản cũng bị
đe doạ suy giảm.
2.4. T ài nguyên khoán sản
13
Do có cấu tạo địa chất phức tạp, mức độ thăm dò khảo sát còn rất thấp.
Bản đồ địa chất được lập ở tỷ lệ 1/200.000, sau đó tiến hành lập bản đồ 1/50.000.
Việc đánh giá trữ lượng tài nguyên mới ở mức độ dự báo cấp C
1
, C
2
, rất ít mỏ có
trữ lượng cấp cao. Công tác thăm dò địa chất những năm gần đây đã làm sáng tỏ

thêm những khoáng sản có triển vọng cần được đầu tư để có thể khai thác. Các
loại khoáng sản của tỉnh: than bùn; bốcxít; quặng sắt; vàng gốc và sa khoáng;
nước khoáng; dầu khí…
2.5. T ài nguyên nước
Do nguồn nước mưa cung cấp hàng năm ít, cùng với địa hình dốc nên khả
năng thấm và giữ nước mưa kém, dẫn đến tình trạng nước ngầm cung cấp kém.
Nguồn nước mặt đóng vai trò quan trọng trong việc giữ cân bằng sinh thái của cả
vùng, ngoài ra nó còn là nguồn cung cấp chủ yếu nước cho nhu cầu sinh hoạt và
sản xuất của toàn vùng, nhưng không được dồi dào như những vung khác. Mặc
dù hệ thống sông có diện tích lưu vực và lưu lượng dòng chẩy lớn, thuỷ chế của
hệ thống sông này rất thất thường. Tuy vậy do địa hình dốc lớn, sông suối ngắn
nên có thể xây dựng các công trình thuỷ điện cỡ vừa và nhỏ.
III- Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Ngãi
1- Tổng sản phẩm GDP
Năm 2000, tổng sản phẩm GDP toàn vùng theo giá so sánh năm 1994 đạt
2221,2 tỷ đồng. Cơ cấu GDP theo các nghành kinh tế (năm 2000) là: nông, lâm
nghiệp 34,36%; công nghiệp và xây dựng 21,62%; dịch vụ 44,02%. Cơ cấu này
so sánh với cơ cấu chung của toàn quốc thì tỷ trọng công nghiệp và xây dựng
còn thấp.
2- Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là cơ cấu: dịch vụ và thương mại; nông, lâm, thuỷ sản;
công nghiệp và xây dựng. Đến thời điểm năm 2000, theo giá so sánh năm 1994,
cơ cấu kinh tế của tỉnh như sau:
 Dịch vụ và thương mại: 44,02%
 Nông, lâm, thuỷ sản: 34,36%
14
 Công nghiệp và xây dựng: 21,62%
Cơ câu GDP của tỉnh năm 2000
3- Thu chi ngân sách
Thu ngân sách của tỉnh đạt 464,9 tỷ đồng chiếm 0,63% của tổng thu ngân

sách nhà nước và chiếm 6,5% tổng thu ngân sách của miền Trung.
Chi ngân sách năm 1998, chi ngân sách của tỉnh là 403,6 tỷ đồng chiếm
0,5% của tổng chi ngân sách nhà nước 7,8% tổng thu ngân sách của miền Trung.
4- Xuất nhập khẩu:
Tổng giá trị xuất khẩu của Tỉnh năm 2000 là 8,28 triệu USD chiếm 0,06%
giá trị xuất khẩu toàn quốc. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hải sản chiếm 20%
giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, Tỉnh còn xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp, thủ
công nghiệp. Thị trường xuất khẩu chính là các nước Châu Á: Nhật Bản, Trung
Quốc, Hàn Quốc và một số nước EU.
Nhập khẩu của tỉnh tăng chậm từ 8,28 triệu USD năm 1995 lên 9,72 triệu
USD năm 2000 chiếm 0,06 tổng giá trị nhập khẩu của cả nước. Tốc độ tăng bình
quân giá trị nhập khẩu thấp, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất
chiếm hơn 10% giá trị nhập khẩu của cả nước.
5- Vốn đầu tư
Năm 1999, tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh là 953,0 triệu đồng, chiếm
9,7% tổng vốn đầu tư của toàn vùng. Tốc độ tăng bình quân của tổng vốn đầu tư
của toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 là 8%/năm. Đầu tư vào tỉnh bằng nhiều
nguồn vốn khác nhau. Khối lượng đầu tư và cơ cấu đầu tư chưa được hợp lý:
DV-TM
44%
N-L-TS
34%
CN-XD
22%
15
năm 1999, vốn thu hút đầu tư vào công nghiệp chiếm 45% tổng vốn đầu tư của
Tỉnh, vốn đầu tư vào các ngành dịch vụ chiếm 35,3% tổng vốn đầu tư của tỉnh,
trong khi đầu tư trực tiếp vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp thấp chỉ chiếm
14,5% tổng vốn đầu tư của Tỉnh.
IV- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn chủ yếu của vùng và từng địa

phương trong vùng so sánh với cả nước và vùng kinh tế khác
1- Thuận lợi
1.1.V ề điều kiện tự nhiên
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở cách hai đầu Nam Bắc do đó được hưởng lợi thế
là tiếp nhận những ảnh hưởng tốt của hai miền. Tuy vị trí trải dài và chiều ngang
nhỏ hẹp, địa hình vùng Tỉnh Quảng Ngãi có đủ ba vùng: Miền núi, trung du,
đồng bằng và ven biển.
Tỉnh Quảng Ngãi nằm giữa hành lang giao thông Nam Bắc, là vùng
chuyển hàng hoá, nguyên vật liệu của 20 tỉnh Bắc Bộ với các tỉnh Nam Bộ,
thông qua hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ khá hoàn chỉnh nối liền
cảng biển Hải Phòng với các cảng ở Nam Bộ.
Tỉnh Quảng Ngãi có mối quan hệ trực tiếp với 3 vùng kinh tế lớn của cả
nước (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Khu Bốn Cũ), đặc biệt là Tây Nguyên, một
vùng có nhiều tiềm năng về cung cấp các loại nguyên liệu từ nông, lâm nghiệp,
trong đó quan trọng là các cây công nghiệp lâu năm có giá trị xuất khẩu lớn.
Ngoài ra, Tỉnh Quảng Ngãi có vị trí đặc biệt quan trọng, là cửa ngõ tuyến hành
lang Đông Tây có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy giao
lưu kinh tế, hợp tác mọi mặt với nước Lào, Campuchia, Thái Lan.
Hệ thống sông ngòi tuy ngắn, nhưng Tỉnh có 3 con sông tương đối lớn
như: Trà Bồng, Trà Khúc, Sông Vệ vừa là nguồn cung cấp nước ngọt cho sản
xuất nông nghiệp và sinh hoạt, vừa là mạch máu giao thông thuỷ thuận tiện vừa
điều hoà khí hậu cho toàn Tỉnh nhất là các trung tâm đô thị, các khu công nghiệp
tập trung.
Tỉnh Quảng Ngãi có hệ thống núi đá vôi chạy dài gần như suốt toàn bộ tỉnh,
là nguồn cung cấp vật liệu xây dựng quý giá, có khả năng đáp ứng đủ yêu cấu
phát triển giao thông và sản xuất vật liệu xây dựng.
Điều kiện tự nhiên đầy đủ với các yếu tố sông, đồng bằng, đồi núi và biển,
cùng với vị trí thuận lợi đã tạo ra cho Tỉnh Quảng Ngãi phát triển công nghiệp
16
theo hướng CNH, HĐH tuy không vượt trội như các Tỉnh ĐBSH nhưng cũng có

rất nhiều tiềm năng.
1.2. V ề nguồn lực con người
Dân số và nguồn lao động Tỉnh Quảng Ngãi cũng là một thế mạnh. Với
dân số toàn vùng là 1216,6 triệu người, chiếm 0,15% dân số toàn quốc. Tỷ lệ
phát triển dân số xấp xỉ 0,94%.
Tỉnh Quảng Ngãi là vùng dân cư có trình độ dân trí và trình độ tay nghề
của người lao động ở mức trung bình so với các Tỉnh khác. Vùng có một số
trường Đại học, Viện nghiên cứu, trường đào tạo công nhân khá hoàn chỉnh.
Trong những năm đổi mới.
1.3. Điều kiện cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh. Hệ thống điện và đường giao thông
nông thôn đến tận xã, thôn và không ngừng được nâng cấp. Hệ thồng trường
học, trạm y tế, nhà văn hóa, chợ… cũng thuộc loại phát triển so với những vùng
khác.
Giao thông vận tải thuận lợi, nằm trên hệ thống đường giao thông huyết
mạch của cả nước gắn với các sân bay cùng hệ thống cảng biển hiện đại, đồng
thời có hệ thống đường ngang nối liền các tỉnh trong vùng với Tây Nguyên, tạo
điều kiện để phát triển và giao lưu kinh tế.
2- Khó khăn
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi trên đây, Tỉnh Quảng Ngãi cũng còn có
nhiều khó khăn và hạn chế, xuất phát từ đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của
vùng.
2.1. Điều kiện tự nhiên
Ruộng đất đã ít lại manh mún và phân tán, rất khó khăn trong quá trình cơ
giới hoá, điện khí hoá nông nghiệp.
Địa hình tỉnh có độ dốc lớn, thấp dần từ Tây sang Đông, do đó sông suối
ngắn, cùng với khí hậu trong vùng tương đối khắc nghiệt, mưa lụt vào mùa mưa
và khô hạn nặng vào mùa khô, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp.
Quá trình phá rừng là nguyên nhân hình thành một số lượng lớn diện tích
đất trồng, đồi núi trọc và làm cho môi trường diễn biến theo xu thế ngày càng

xấu. Tiềm năng đất lớn nhưng khả năng sử dụng rất hạn chế do đất xấu, tầng đất
nông, độ dốc lớn và hầu hết phân bổ ở các vùng kinh tế phát triển quá chậm.
17
Sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản nhiều nơi do thiếu kỹ thuật
hoặc do phát triển quá mức đã gánh lấy hậu quả về môi trường.
Tài nguyên của tỉnh còn nghèo. Tuy có nhiều loại khoáng sản nhưng trữ
lượng thấp, nằm rải rác ở nhiều địa phương nên khó triển khai khai thác ở quy
mô công nghiệp.
2.2. V ề nguồn lực
Đại bộ phận dân cư nông thôn chỉ thạo làm nông nghiệp, ít am hiểu về
công nghiệp và dịch vụ.
Trình độ cơ giới hoá khâu làm đất và các khâu thu hoạch khác kém hơn
nhiều so với các vùng khác. Tuy có tình trạng dư thừa lao động nông nghiệp ở
một số tỉnh nhưng việc tuyển dụng lao động cho các trung tâm, khu công nghiệp
cũng bị hạn chế vì trình độ văn hoá. Kỹ năng nghề nghiệp của số lao động này
lại không đáp ứng được yêu cầu của các loại hoạt động công nghiệp và dịch vụ.
2.3. C ơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng nhất là hệ thống giáo thông, tuy có vị trí thuận lợi và đã
hình thành đầy đủ các mạng tuyến nhưng chất lượng chưa cao. Các điều kiện hạ
tầng khác tuy đã hình thành nhưng thiếu đồng bộ, thiếu sự tham gia đầu tư của
nước ngoài, do vậy còn lạc hậu chưa đáp ứng được tốt cho nhu cầu phát triển.
Hệ thống thuỷ lợi đã được chú trọng phát triển, nhưng thiếu vốn nên chưa
đáp ứng được yêu cầu. Một số công trình chất lượng thấp, vì vậy tình trạng thiếu
nước, dẫn đến hạn hán xẩy ra ở nhiều nơi, gây hậu quả nghiêm trọng cho sản
xuất nông nghiệp và đời sống.
2.4. C ơ cấu kinh tế
Điểm xuất phát về kinh tế Tỉnh Quảng Ngãi nói chung là thấp, năm 2000
tổng sản phẩm GDP của tỉnh đạt 23.166,5 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng GDP và
tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH nói chung là chậm và chưa
hợp lý, chưa tương xứng với tiềm năng (nông, lâm, thuỷ sản 26,7%, công nghiệp

27%, dịch vụ 45,45%). Tiềm lực kinh tế, thu ngân sách ở khu vực nông thôn còn
rất hạn chế.
Do điểm xuất phát về kinh tế thấp, tốc độ tăng trưởng GDP chậm, cùng
với mấy năm gần đây thiên tai liên tiếp dẫn đến đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở tỉnh còn cao: 1,87% (cả nước là 14,45%), tuy vậy tỷ
lệ này còn thấp hơn ở vùng núi phía Bắc: 24,29%, Tây Nguyên: 20,29%.
18
ChươngII: Hiện trạng công nghiệp và kết cấu hạ tầng
của tỉnh Quảng Ngãi
I- Quá trình phát triển
So với các vùng trong cả nước , công nghiệp tỉnh đạt mức phát triển trung
bình tiên tiến , chỉ đứng sau hai trung tâm công nghiệp lớn của cả nước là vùng 2
và vùng 5, nhưng phát triển vượt trội so với các vùng còn lại . trước khi thống
nhất đất nước kinh tế của vùng này kém phát triển và mới chỉ hình thành một số
cơ sở công nghiệp nhỏ ở các địa phương trong tỉnh.sau năm 1975, công nghiệp
được phát triển ở khắp cả 10 tỉnh trong vùng, tuy cũng có mức độ khác nhau
nhưng đã bao gồm tất cả các ngành và lĩnh vực sản xuất công nghiệp (đặc biệt là
tỉnh Quảng Ngãi) như khai thác khoáng sản, công nghiệp cơ khí công nghiệp
luyện kim, hoá chất lắp giáp và sản xuất các mặt hàng tiêu dùng, sản xuất và
phân phối điện nước… tỷ trọng công nghiệp trong GDP của mối địa phương
từng bước được nâng lên.
19
Theo số liệu thống kê những năm gần đây tỷ trọng công nghiệp của tỉnh
luôn chiếm ở mức khoảng 4% so với giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc, tốc
độ tăng trưởng bình quân 9,17%/năm.trong đó cao nhất vẫn là ngành chế biến
nông lâm thuỷ sản, chiếm tới 60% trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp toàn
vùng. Tiếp đến là ngành dệt may, giày da khoảng 13%, sản xuất vật liệu xây
dựng trên 10,5%. Ngành công nghiệp cơ bản bao gồm nhiều phân ngành nhỏ như
cơ khí luyện kim, điện tử tin học, hoá chất, nhưng chiếm xấp xỉ chỉ 11%. Công
nghiệp khai thác chỉ chiếm khoảng 3%. điều đó chứng tỏ công nghiệp của tỉnh

nói chung và của vùng 3 nói chung chủ yếu dựa trên nền tảng nguồn nguyên liệu
tại chỗ từ nông, lâm, ngư nghiệp.
II- Hi ện trạng phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng của tỉnh giai đoạn
1995-2000
1- Cơ sở sản xuất công nghiệp
Cơ sở sản xuất công nghiệp không có sự thay đổi lớn trong 5 năm qua.
Năm 1999 so với năm 1995 chỉ tăng khoảng 9%. Sau 3 năm tăng liên tiếp, năm
1998 số cơ sở sản xuất có sự giảm so với năm 1997, nhưng năm 1999 lại có sự
tăng trưởng cao so với năm 1998, tăng thêm 307 cơ sở, trong đó số cơ ngoài
quốc doanh chiếm chủ yếu (trên 90%). Số lượng các công nghiệp quốc doanh chỉ
chiếm khoảng 0,25-0,3%, trong đó đa phần là quốc doanh địa phương. Số lượng
có sở công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất nhỏ, mặc dù có sự gia tăng tuyệt
đối lớn nhưng do số lượng quá nhỏ bé so với các cơ sở ngoại quốc doanh. Tuy
nhiên cơ cấu về số lượng các doạng nghiệp theo thành phần kinh tế này không
phản ánh quy mô của công nghiệp theo giá trị sản xuất , vì các doanh nghiệp
ngoại quốc doanh tuy nhiều về số lượng nhưng quy mô thường rất nhỏ. Còn các
cơ sở công nghiệp quốc doanh và đầu tư nước ngoài thì ngược lại, số lượng ít
nhưng quy mô thường gấp nhiều lần so với các cơ sở ngoài quốc doanh.
2- Lao động công nghiệp
Tổng số lao động công nghiệp của cả tỉnh là 30.887 người, đứng thứ 5
trong vùng 3. Trong đó ngành khai thác là 3.606 người; ngành chế biến là 27.182
người; ngành điện nước là 99 người.
Xét theo cơ cấu ngành công nghiệp thì ngành chế biến có số lao động
đông nhất, chiếm tới 88% tổng số lao động toàn tỉnh.
20
Xét cơ cấu theo thành phần kinh tế ta thấy, số lao động công nghiệp thuộc
thành phần ngoài quốc doanh chiếm đa số, bình quân khoảng 65-70% số lao
động công nghiệp toàn tỉnh.
Lao động của thành phần có vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ nhỏ,
chỉ khoảng dưới 2%. Chất lượng lao động nhìn chung không cao, đặc biệt là khu

vực ngoài quốc doanh, do lao động của khu vực này tập trung chủ yếu ở lĩnh vực
chế biến nông , lâm, thuỷ sản, mà công nghệ sử dụng của những ngành này vẫn
ở tình trạng lạc hậu.
3- Cơ cấu công nghiệp :
So với cơ cấu chung của toàn quốc, cơ cấu công nghiệp của vùng có
những sự khác biệt lớn trong khu công nghiệp khai thác của toàn quốc chiếm tới
khoảng 14% giá trị SXCN thì ở vùng 3, phân ngành này chỉ chiếm có gần 3%
ngược lại, phân ngành chế biến nông, lâm , thủy sản chung của toàn quốc chi là
khoảng 30% -36% thì ở vùng 3, lại lên tới trên 50%. Công nghiệp cơ bản, mức
trung bình của toàn quốc là khoảng 23%. nhữnh năm gần đây đang có su hướng
tăng cao, đạt tới 28% ( năm 2000) thì ở vùng 3, chỉ là khoảng 10% Điều này
chứng tỏ, các ngành công nghiệp của vùng 3mới chỉ được phát triển trên cơ sở
các nguồn lực tại chỗ từ nông, lâm nghiệp

4- Phân bố công nghiệp trong vùng:
Như trên đã nói, tổng số cơ sở sản xuất công nghiệp toàn tỉnh là 84.503
cơ sở,). Các cơ sở sản xuất được phân bố ở hầu hết các ngành công nghiệp. Tuy
nhiên, tập trung chủ yếu ở các nhóm chế biến nông, lâm, thuỷ s nhất vùng ( ản.
Đây cũng là ngành có giá trị SXCN lớn, các ngành công nghiệp cơ bản như
luyện kim, điện tử tin học và ngành sản suất , phân phối điện, nước, ga là nhữg
ngành có ít cơ sở sản xuất, đồng thời cũng là những ngành có giá trị SXCN thấp
trong cơ cấu của vùng.Công nghiệp dệt, may. da dày và sản xuất vật liệu xây
dựng là những ngành khá phát triển, với cơ cấu giá trị SXCN tương ứng là
18.14% và 12.32% trong cơ cấu của vùng ( số liệu năm 2000).

5- Hoạt động đầu tư cho công nghiệp:
21
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong vùng năm 2000 đạt 4.350,85tỷ
đồng , tăng gần 23% so với năm 1999. Trong đó, vốn đầu tư ngân sách chỉ giao
động khoảng 14-15, vốn tự có của các cơ sở khoảng 30%, còn laị là vốn vay.

Xét cơ cấu đầu tư theo các phân ngành công nghiệp thì vốn đầu tư cho
công nghiệp năm 2000 đạt 2.22.405trệu đồng, chỉ tăng có 7% so với năm1999.
Trong đó, đầu tư cho công nghiệp khai thác chỉ khoảng 3%.Đầu tư cho công
nghiệp chế biến đã tăng từ 85,46% (1999) lên 91,82% (2000). Ngược lại, đầu tư
cho công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước, ga lại giảm từ 11,82%(1999)
xuống còn 5,56%(2000).
Xét cơ cấu đầu tư theo các thành phần kinh tế thì tỷ trọng vốn đầu tư cho
công nghiệp trong tổng vốn đầu tư của các đơn vị quốc doanh trung ương cho
vùng 3 đã giảm tư 38%(1999) xuống còn 36,21% (2000). Các doanh nghiệp
quốc doanh địa phương còn giảm mạnh hơn tư 43,66%(1999) xuống còn
55,56%(2000). Điều đó chứng tỏ , những năm gần đây khu vực ngoài quốc
doanh đã chú trọng đầu tư cho công nghiệp nhiều hơn.
Trong tổng vốn đầu tư cho công nghiệp của các doanh nghiệp trong vùng
khu vực quốc doanh tương ứng đã giảm tỷ trọng từ 39,24% (1999) xuống còn
32,71%(2000)và chủ yếu đầu tư cho các ngành công nghiệp chế biến. Công
nghiệp khai thác hầu như không được đầu tư, số lượg vốn đầu tư chỉ chiếm chưa
đầy 1% trong tổng vốn đầu tư của khu vực này.
III- Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về công nghiệp và kết
cấu hạ tầng
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý nhà nước về công nghiệp
được quy định trong thông tư Liên bộ 18/TTB giữa Ban tổ chức cán bộ Chính
phủ và Bộ công nghiệp cho các cơ sở công nghiệp còn nhiều bất cập. Đây là hạn
chế chung cho cả nước chứ không riêng gì tỉnh Quảng Ngãi, thể hiện ở một số
khía cạnh sau:
Có quá nhiều đầu mối thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công
nghiệp trên địa bàn như sở kế hoạch đầu tư thì quản lý các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài; Sở công nghiệp chỉ quản lý các doanh nghiệp trong nước.
22
Riêng khu công nghiệp nông thôn lại đang có sự chồng chéo trong chức năng
quản lý giữa Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn và sở Công nghiệp.

 Biên chế hoạt động của các sở Công nghiệp trong tỉnh tạm ổn, song biên
chế và tổ chức hoạt động của các phòng công nghiệp cấp quận, huyện
còn nhiều bấp cập… tình trạnh phổ biến là gộp, ghép giữa các chức năng
quản lý về công nghiệp, xây dựng, giao thông, trong cùng một tổ chức
với biên chế rất hạn chế.
 Vẫn còn tồn tại kiểu quản lý doanh nghiệp theo cấp chủ quản (nhiều
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nhưng lại có các chủ
quản là các sở không phải là công nghiệp, thậm chí là UBND tỉnh hoặc
tỉnh uỷ) và có phần phân biệt giữa công nghiệp trung ương và công
nghiệp địa phương, nên chức năng quản lý nhà nước không được thực
hiện triệt để, nhiều lĩnh vực bị bỏ sót hoặc chồng chéo.
 Chức năng quản lý nhà nước mới chỉ được thực hiện khá hoàn chỉnh ở
một số lĩnh vực như quản lý điện năng và quản lý tài nguyên, vật liệu nổ
công nghiệp. Các chức năng khác không được thực hiện đầy đủ do có sự
chông chéo trong phân công giữa các chuyên ngành và lẫn lộn giữa chức
năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh.
 Mối quan hệ giữa các sở Công nghiệp và Bộ công nghiệp quá lỏng lẻo.
Phản ánh chung của các sỏ công nghiệp là hiệu quả quản lý của Bộ đối
với các sở là quá ít, một phần do những hạn chế của Thông tư 18, một
phần do lực lượng cán bộ của Bộ theo rõi công nghiệp của các địa
phương quá mỏng. Những bất cập này cần được nhanh chóng khắc phục.
IV- Nhận xét đánh giá chung
1- Thành tựu:
Công nghiệp đã được phát triển ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực trong
tỉnh. Tốc độ tăng trưởng giá trị SXCN giai đoạn 1996-2000 đạt thấp, thấp hơn
mức bình quân chung của cả nước.
Đã tận dụng được một số thế mạnh của vùng về nguồn nguyên liệu tại
chỗ, đặc biệt là nguồn nguyên liệu từ nông, lâm, thuỷ sản và các loại khoáng sản,
kể cả các nguồn khoáng và nguồn lao động tại chỗ, nên đã tạo được mội số
23

×