Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

LUẬN VĂN: Quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.69 KB, 19 trang )







LUẬN VĂN:

Quan điểm toàn diện với việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam








A.Đặt vấn đề

Từ năm 1986 trở về trước, nền kinh tế nước ta mang nặng tính tự túc tự cấp, vận
hành theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp và có nhiều sai lầm trong nhận
thức về mô hình xã hội chủ nghĩa. Nước ta đã không nhận thức đúng về kinh tế thị
trường, cho rằng sản xuất hàng hoá là hình thức tổ chức của Chủ nghĩa tư bản, đồng
nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế; coi nhẹ qui
luật giá trị, qui luật cạnh tranh; chỉ thấy mặt tiêu cực của thị trường. Vì vậy mà nền
kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khô cứng, chậm phát triển, tụt hậu so với thế giới,
khủng hoảng Kinh tế - Xã hội trầm trọng, mức sống của người dân thấp.
Tháng 12/ 1986, Đại hội Đảng VI đã thừa nhận sai lầm chủ quan, duy ý chí đó
và đề ra chủ trương phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế quản


lý tập trung bao cấp để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy nền kinh
tế nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng, cải thiện đời sống nhân dân.
Đến Đại hội VII của Đảng (6/1991), sau những thành tựu đạt được, Đảng ta
càng khẳng định dứt khoát về vấn đề Kinh tế thị trường. Đại hội cho rằng “phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất
trong xã hội”.
Những thành tựu mà chúng ta đạt được sau hơn 10 năm đổi mới đã khẳng định
đường lối của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nền kinh tế thị trường có vai trò rất to
lớn trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nó góp phần giải phóng
sức lao động, phát triển lực lượng sản xuất, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội kéo dài, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, giúp Đảng ta thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới
vẫn nổi lên một số vấn đề bất cập như nguy cơ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa, những
tệ nạn xã hội phát sinh khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, kỷ cương pháp
luật không nghiêm, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng
Vì vậy mà chúng ta cần nắm rõ bản chất, đặc điểm của kinh tế thị trường, kiên trì định
hướng Xã hội chủ nghĩa để khắc phục những nhược điểm trên.


Xuất phát từ tầm quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà em chọn đề tài
“Quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam











B. Nội dung

1. Sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Lý thuyết chung về kinh tế thị trường
Khái niệm về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, nó là nền kinh
tế nhiều thành phần, vừa có quá trình tư nhân hoá vừa có quá trình quốc hữu hoá. Kinh
tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mức độ cao, nó không chỉ là công
nghệ, phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội mà còn là những quan hệ kinh tế, xã
hội, nó bao gồm cả các yếu tố của lực lượng sản xuất và một hệ thống sản xuất. Kinh
tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách
quan của sự phát triển lực lượng sản xuất, nó là phương thức sở hữu kinh tế của sự
phát triển.

Những đặc điểm của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, nó trải qua 3
giai đoạn phát triển là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị
trường, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do và giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường hiện đại.
Trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa người và người được biểu hiện
thông qua thị trường, tức là thông qua hoạt động trao đổi, mua bán bằng tiền, thông
qua quan hệ hàng - tiền. Quan hệ hàng - tiền có ý nghĩa rất to lớn đối với người tiêu
dùng, người sản xuất và ngày càng được mở rộng.
Kinh tế thị trường nảy sinh, hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch
sử nhất định, nó là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội

tiến lên. Kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân
công lao động xã hội, phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng chúng vào thực tiễn.
Sự phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với sự phát triển của văn minh nhân loại,
của khoa học kỹ thuật, của lực lượng sản xuất.


Kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá,
mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở
hữu, phân phối
Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng có một số khuyết tật vốn có như : tính tự
phát mù quáng, nạn thất nghiệp, khủng hoảng có chu kỳ, tính cạnh tranh tàn nhẫn dẫn
đến phá sản, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội Kinh tế thị trường cũng là
môi trường thuận lợi để phát sinh, phát triển nhiều loại tệ nạn như trộm cắp, ma tuý
Nền kinh tế thị trường có nhiều mặt phù hợp với mục tiêu Xã hội chủ nghĩa,
thúc đâỷ kinh tế - xã hội phát triển nhưng cũng có những mặt không phù hợp với mục
tiêu Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để Đảng ta thực
hiện mục tiêu xây dựng Xã hội chủ nghĩa, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh. Do đó khi nói nước ta phát triển nền kinh tế thị trường thì phải xác
định rõ đó là kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.

1.2 Đặc điểm và yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam

Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức kinh
tế dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội cần phải biết kế thừa và phát triển những thành tựu của
nhân loại, sử dụng văn minh của kinh tế thị trường, loại bỏ những khuyết tật của nó để

xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả, định hướng Xã hội chủ nghĩa là phải vì lợi ích
nhân dân, tư tưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ công bằng xã hội. Vì vậy, kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa nhằm phục vụ lợi ích nhân dân và góp phần thực
hiện mục tiêu giải phóng con người. Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa thì mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, nền kinh tế lấy các
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa - nghĩa là các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu
xã hội, sở hữu tập thể làm nền tảng với mục tiêu là dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh.


Từ đó, ta có thể tổng kết một số đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1.2.1 Đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
-Nền kinh tế mà nước ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính
chất xã hội hiện đại.
-Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước.
-Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
-Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường
với sự quản lý, điều tiết của Nhà nước.
-Hội nhập, mở cửa với kinh tế thế giới trên cơ sở đảm bảo độc lập, chủ quyền
dân tộc.
-Đảm bảo công bằng xã hội.
-Thực hiện phân phối theo lao động và vốn là chủ yếu.

1.2.2 Những yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Qua những đặc điểm trên, ta thấy để phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng Xã hội chủ nghĩa thì phải biết phát huy mặt tốt và hạn chế những mặt xấu của
kinh tế thị trường, do đó, yêu cầu đặt ra là:
-Phải giải quyết vấn đề công bằng xã hội cho phù hợp với sự tăng trưởng kinh
tế.
-Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước.
-Lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu
thành phần kinh tế, hình thức sở hữu.
-Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, làm cho kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
-Nâng cao vai trò làm chủ của người lao động trong nền kinh tế thị trường, đảm
bảo thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
-Thực hiện phân phối công bằng tạo động lực cho sự phát triển.



1.3 Vai trò của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc
xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó góp phần to lớn trong việc
giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên các nguồn
lực để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội, cải thiện đời sống
người dân. Phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ được
nền kinh tế tự túc tự cấp, làm cho phân công lao động phát triển, đa dạng hoá các
ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Nó còn tạo điều kiện cho việc áp dụng
khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất; từ đó năng suất, chất lượng, chủng loại hàng hoá
tăng lên. Ngoài ra, kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa còn là động lực để
phát huy tính năng động, sáng tạo ở mỗi người, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao;
đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, siêu lạm phát kéo dài; đời
sống nhân dân ngày càng được nâng cao hơn; đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn

lạc hậu; thực hiện một phần được mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh. Đó chính là những thành tựu mà kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
mang lại cho chúng ta. Từ đó càng khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

2. Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam -Thực trạng và giải
pháp
Thực trạng quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
2.1.1 Quan điểm của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Trong suốt một thời gian dài từ những năm 80 trở về trước, nước ta đã không
nhận thức đúng về kinh tế thị trường, sản xuất hàng hoá; cho rằng sản xuất hàng hoá là
hình thức tổ chức sản xuất của tư bản chủ nghĩa, coi nhẹ qui luật cạnh tranh, qui luật
giá trị, qui luật cung cầu; chỉ thấy những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường và phủ
nhận quan hệ thị trường. Kết quả là sản xuất đình trệ, lạc hậu, nền kinh tế rơi vào tình
trạng chậm phát triển, khủng hoảng kéo dài.


Phải đến Đại hội Đảng VI (12/1986), Đảng mới đề ra chủ trương phát triển sản
xuất hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp,
thực hiện hạch toán kinh doanh. Tuy nhiên, Đảng ta vẫn chưa dùng đến các khái niệm
như “Cơ chế thị trường” hay “kinh tế thị trường” và vẫn còn dè dặt khi nói đến phát
triển sản xuất hàng hoá, chưa bao quát hết nội dung của nó.
Tháng 3/ 1989, tại Hội nghị lần VI BCH TW Đảng khoá VI, trên cơ sở một số
thành tựu bước đầu đạt được trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta mới nhấn mạnh: vấn đề
phát triển kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần tiến lên Chủ nghĩa xã
hội có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính qui luật, thể hiện tinh thần dân chủ về kinh
tế Các quyết định sau đó của Đảng, đặc biệt là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần đã được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng và thực hiện. Đó chính là động lực
thúc đẩy sự sáng tạo, lòng say mê nhiệt tình của người dân, làm cho các hoạt động

kinh doanh ngày càng sôi nổi, làm thay đổi bộ mặt thị trường.
Sau những thành tựu đạt được, Đại hội ĐảngVII (6/1991) đã khẳng định mạnh
mẽ về việc giải phóng và phát huy các tiềm năng sản xuất thì cần phải phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà
nước. Quá trình đổi mới thực sự thực hiện bắt đầu từ Đại hội Đảng VII.
Tại Đại hội Đảng lần VIII, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định phải giải phóng sức
sản xuất, động viên nguồn lực bên ngoài, khuyến khích phát triển các thành phần kinh
tế và các hình thức tổ chức kinh doanh. Chúng ta phải nâng cao hiệu quả của kinh tế
Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước yên tâm làm ăn, thực hiện liên
kết giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Đại hội Đảng VIII
đã đề ra chủ trương xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Gần đây, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục chủ trương
phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa bằng việc thực hiện nhất
quán chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Đảng ta
còn nhấn mạnh phải phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để cho chúng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tại Đại hội lần này, nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa có xuất hiện thêm một thành phần kinh tế đó là
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự xuất hiện của thành phần kinh tế này là do khoa


học kỹ thuật phát triển, đòi hỏi phải ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nên
chúng ta phải tăng cường vốn đầu tư nước ngoài.
Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải là nền kinh
tế thị trường bất kỳ mà là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa - đó là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong Chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để phát triển
lực lượng sản xuất, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống
người dân. Theo quan điểm của Đảng ta thì kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để

thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

2.1.2 Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Từ các hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân đã hình thành nên các thành phần kinh tế, đó là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể;
kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
thành phần kinh tế đó chính là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ để nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân về những tư liệu sản xuất chủ yếu, nó hoạt động trong những ngành, những
lĩnh vực then chốt. Trong kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước ngày càng hoạt
động có hiệu quả và đi đầu trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật.
Kinh tế tập thể gồm nhiều hình thức hợp tác đa dạng với nòng cốt là hợp tác xã.
Các hợp tác xã dựa trên hình thức sở hữu của tập thể của các thành viên, trong đó
những người lao động, hộ sản xuất kinh doanh liên kết với nhau và không giới hạn qui
mô, lĩnh vực, địa bàn.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao
động của bản thân người sản xuất. Nó có vị trí quan trọng, có tiềm năng to lớn trong
nhiều ngành nghề ở thành thị và nông thôn. Hình thức kinh tế này có thể làm vệ tinh
cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do các nhà tư bản
góp lại để sản xuất kinh doanh. Kinh tế tư bản tư nhân đang đóng góp cho sự nghiệp
phát triển đất nước và ngày càng được khuyến khích phát triển rộng rãi trong nhiều


ngành sản xuất. Kinh tế tư bản tư nhân tập trung phần lớn trong các ngành dịch vụ,
kinh doanh bất động sản và dịch vụ.
Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức liên kết, liên doanh giữa kinh tế
nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản nhà nước có

vai trò quan trọng trong việc huy động tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ
chức quản lí của các nhà tư bản vì lợi ích của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta còn xuất hiện một thành phần
kinh tế mới đó là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phần này gồm vốn đầu tư
nước ngoài vào các cơ sở kinh doanh, sản xuất ở nước ta. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài có khả năng thu hút được công nghệ hiện đại và tạo việc làm cho người lao
động.

2.1.3 Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường tồn tại một cách khách
quan, mỗi thành phần kinh tế có đặc trưng riêng về trình độ và tính chất xã hội hoá lao
động. Quan hệ sở hữu chính là yếu tố quan trọng nhất, quyết định bản chất và xu
hướng vận động của mỗi thành phần kinh tế. Trong hoạt động thực tiễn các thành phần
kinh tế không biệt lập mà có mối quan hệ với nhau, tạo thành một hệ thống vừa thống
nhất lại vừa mâu thuẫn.
Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận của nền
kinh tế quốc dân và đều nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, có quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau. Trong hoạt động thực tiễn các thành phần kinh tế không tách rời
mà kết hợp đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các thành
phần kinh tế đều chịu sự chi phối của các qui luật thị trường. Trong nền kinh tế thị
trường thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ để Nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chính là nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế biểu hiện ở mâu thuẫn giữa tư hữu và
công hữu, giữa tư nhân với tập thể và Nhà nước, giữa xu hướng phát triển Tư bản chủ
nghĩa và Xã hội chủ nghĩa Mỗi thành phần kinh tế lại có bản chất riêng, chịu sự chi
phối của các qui luật kinh tế riêng, ví dụ như kinh tế tư bản tư nhân chịu sự chi phối
của qui luật giá trị thặng dư nên nó mâu thuẫn với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.



Giữa các thành phần kinh tế luôn có sự cạnh tranh với nhau về lợi ích, về xu hướng
chính trị
Từ những mâu thuẫn của các thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước ta phải có
những biện pháp thích hợp để sử dụng chúng có hiệu quả và đảm bảo đi đúng định
hướng Xã hội chủ nghĩa.

2.1.4 Thành tựu đạt được và yếu kém cần khắc phục của Việt Nam trong những năm
đổi mới
Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới cho thấy nước ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là phù hợp với qui luật khách quan, hợp lòng dân,
đáp ứng yêu cầu cuộc sống. Công cuộc đổi mới giúp cho nước ta thoát khỏi cuộc
khủng hoảng xã hội nghiêm trọng, kéo dài và đạt được những thành tựu vô cùng to
lớn. Tình trạng đình đốn trong sản xuất được khắc phục. Lạm phát bị đẩy lùi từ
774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991 và 12,7% năm 1995.
Trong thời kỳ 1991-1995, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân
hàng năm đạt 8,2%, tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng, dịch vụ trong GDP
ngày càng tăng, có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế, đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn
trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8%, năm 1995 là 27,4%. Cho đến nay
thì tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân là 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục,
đặc biệt là sản xuất lương thực. Nuôi trồng và khai thác thuỷ, hải sản được mở rộng.
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 13,5%. Nhiều cơ sở công
nghiệp trọng yếu được xây dựng và ngày càng phát triển; hệ thống cơ sở hạ tầng như:
đường sá, cầu, cảng, được tăng cường. Các ngành xuất nhập khẩu, dịch vụ đều phát
triển. Năm 2000, chúng ta chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu
hầu hết đã đạt được hoặc vượt mức kế hoạch.
Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Những nhu cầu thiết yếu của
người dân như: ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, được đáp ứng tốt hơn. Phân công xã hội
phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Hàng năm nước ta
có hơn 1,2 triệu lao động có việc làm mới. Tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi
người lao động được phát huy đã tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền

kinh tế.


Tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định, an ninh và quốc phòng được tăng
cường. Việc kết hợp an ninh quốc phòng với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có
tiến bộ. Hệ thống chính trị nước ta ngày càng được củng cố.
Về đối ngoại, quan hệ với các nước không ngừng được mở rộng. Hội nhập kinh tế
quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Đất nước ta đã gia nhập
ASEAN, tham gia AFTA, APEC và chuẩn bị gia nhập WTO. Việc ban hành Luật đầu
tư nước ngoài năm 1987 và Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1996 đã tạo điều kiện
cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Ngoài những mặt tích cực, kinh tế thị trường còn biểu hiện những mặt hạn chế,
những hiện tượng tiêu cực trong quá trình đổi mới. Đó là lối làm ăn chạy theo lợi
nhuận dẫn tới lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, thương mại hoá tràn lan, xâm nhập cả vào
những lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, làm cho giá trị tinh thần bị đảo lộn và xuống
cấp nhanh, đồng thời chi phối nhiều quan hệ gia đình và xã hội, kỷ cương pháp luật
không nghiêm, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có xu hướng tăng lên.
Nền kinh tế nước ta phát triển chưa thật vững chắc, năng suất lao động chưa
cao, chất lượng sản phẩm chưa tốt trong khi giá thành lại cao. Năm năm qua, nhịp độ
tăng trưởng kinh tế của nước ta chậm dần, nhiều sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp,
thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ; môi trường sinh thái bị phá hoại nghiêm
trọng, đặc biệt là nạn phá rừng và khai thác tài nguyên bừa bãi; tình trạng buôn lậu,
làm hàng giả ảnh hưởng xấu đến kinh tế -xã hội. Về quan hệ sản xuất, kinh tế nhà nước
chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của mình, kinh tế tập thể phát triển chưa mạnh.
Việc làm vẫn đang là một vấn đề gay gắt. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao
trong khi ở nông thôn lại thiếu lao động. Khoa học công nghệ chưa đáp ứng tốt về yêu
cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Môi truờng ngày càng ô nhiểm nặng nề,
đặc biệt ở những nơi tập trung công nghiệp. Mức sống của người dân ở một số vùng
còn quá thấp. Sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng. Tệ nạn
xã hội phát triển, đặc biệt là tệ nạn ma tuý và mại dâm. Trật tự an toàn xã hội còn

nhiều phức tạp.
Cơ chế chính sách chưa tạo động lực cho nền kinh tế phát triển, còn thiếu những chính
sách thúc đẩy giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nạn tham nhũng chưa ngăn
chặn được. Tình trạng lãng phí quan liêu còn phổ biến. Đạo đức lối sống của một số
cán bộ, đảng viên đang bị suy thoái.


Ngoài ra còn có những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc với kinh tế thị trường
như: sùng bái kinh tế thị trường, để cho kinh tế thị trường tự do phát triển mà không
cần sự quản lý của Nhà nước, cho rằng chỉ có phát triển kinh tế tư bản tư nhân mới là
phương thức duy nhất để phát triển kinh tế thị trường hiện nay. Có những người lại cho
rằng nếu phát triển kinh tế thị trường là từ bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa. Đó là những
nguy cơ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần khắc phục.
Nguyên nhân chính của những mặt yếu kém trên là do hiệu quả lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực quản lí của Nhà nước chưa tốt, thêm vào đó là nạn tham nhũng rất
nghiêm trọng. Vì vậy chúng ta phải có những biện pháp tích cực để đảm bảo phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, từ đó thực hiện tốt mục tiêu mà
Đảng ta đề ra là thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

Những giải pháp đảm bảo cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa
Phát huy vai trò của các thành phần kinh tế

 Giải pháp chung
Để sử dụng có hiệu quả các thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải tiến hành
đồng bộ những biện pháp vĩ mô để tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế, đó là:
1. Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để các thành phần kinh tế bình đẳng
và tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
2. Hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế, tạo mối quan hệ tốt về lợi ích giữa
người lao động, các doanh nghiệp và Nhà nước.

3. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, công nhân lành nghề đáp ứng tốt yêu
cầu hiện nay.
4. Phát triển mạnh sản xuất hàng hoá, xây dựng và hoàn thiện thị trường đồng bộ,
phát triển giao thông và thông tin liên lạc.
Chúng ta phải thúc đẩy sự hình thành và hoàn thiện các loại thị trường theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng chưa
có hoặc mới phát triển như thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường
chứng khoán, thị trường khoa học và công nghệ.


5. Đổi mới các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Chúng ta
phải đổi mới công tác kế hoạch hoá, dự báo chính xác tình hình kinh tế bằng việc ứng
dụng khoa học kỹ thuật, đảm bảo công bằng trong chi ngân sách. Hệ thống thuế phải
được cải cách cho phù hợp với tình hình hiện nay, đơn giản hoá các sắc thuế, áp dụng
hệ thống thuế thống nhất, hiện đại hoá công tác quản lí thuế.

 Giải pháp đối với từng thành phần kinh tế
-Kinh tế nhà nước :
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, phát
triển kinh tế nhà nước là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Chúng ta phải tập
trung đầu tư một cách có hiệu quả cho các doanh nghiệp nhà nước và phát triển thêm
doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoặc Nhà nước có cổ phần chi phối ở một số lĩnh
vực then chốt. Tích cực cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn và thúc
đẩy doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.
Đổi mới cơ chế, chính sách đối với các doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát
triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xoá bỏ bao cấp, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, làm ăn có lãi và nộp đủ thuế. Bên cạnh đó
phải đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lí doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với
yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo quyền tự
chủ kinh doanh vừa đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đôí với doanh nghiệp.

-Kinh tế tập thể
Phát triển kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã. Hợp tác xã có thể phát triển
kinh doanh tổng hợp chuyên ngành hoặc đa ngành. Nhà nước giúp hợp tác xã mở rộng
thị trường, giải quyết nợ tồn đọng, đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất Kinh tế tập thể sẽ ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
-Kinh tế cá thể, tiểu chủ
Nhà nước tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, khuyến khích các hình
thức tổ chức hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp
khác.
-Kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế tư bản tư nhân được Nhà nước khuyến khích phát triển trong nhiều
ngành sản xuất. Nhà nước còn tạo điều kiện và môi trường pháp lý cho hoạt động cạnh


tranh hợp pháp, cho sự hợp tác liên doanh một cách tự nguyện với kinh tế tập thể, kinh
tế nhà nước hoặc chuyển thành doanh nghiệp cổ phần.
-Tạo điều kiện phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước. Cải thiện môi trường
đầu tư và nâng cao năng lực quản lí để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

2.2.2 Phát triển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là trọng tâm của quá trình phát
triển kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa thì kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể là thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hai thành phần kinh tế này
chính là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Chúng ta phải phát huy vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, lấy sự phát triển của kinh tế nhà nước làm định hướng phát triển cho
các thành phần kinh tế khác.

2.2.3 Những giải pháp kiên định định hướng Xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị
trường, tránh nguy cơ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa.
-Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam thông qua đường

lối, chính sách kiểm tra, kiểm soát. Phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
-Nâng cao hiệu lực quản lí của Nhà nước thông qua bộ máy Nhà nước trong
sáng, trí tuệ.
-Có cơ chế quản lí kinh tế phù hợp, định hướng phát triển kinh tế-xã hội trong
thời gian dài và trong từng thời kỳ nhất định.
-Cảnh giác, đề phòng các khuynh hướng chệch hướng Xã hội chủ nghĩa trong
mọi hoạt động kinh tế - xã hội.

















C. Kết luận

Sau hơn 10 năm đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn nhưng cũng không tránh khỏi những va vấp, yếu kém. Quá trình đổi mới
đem lại cho chúng ta nhiều bài học quí báu, để chúng ta có thêm kinh nghiệm trong các

bước đi tiếp theo. Những khuyết điểm, tiêu cực và nguy cơ chệch hướng trong nền
kinh tế thị trường đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có những đường lối, chính sách phù
hợp hơn nữa và phải nâng cao vai trò lãnh đạo quản lí của mình, tạo được niềm tin ở
nhân dân. Bên cạnh đó, mỗi người dân cũng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự
giác chống lại những cái xấu đang tồn tại trong xã hội, góp phần làm cho nước ta ngày
càng to đẹp hơn, hùng mạnh hơn và công bằng hơn.
Tuy rằng Việt Nam đã có thời kỳ theo mô hình kinh tế bao cấp và trên thế giới
đã có nhiều nước Xã hội chủ nghĩa sụp đổ vì vận dụng mô hình kinh tế đó nhưng Việt
Nam chúng ta vẫn vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đổi mới phát triển nền kinh tế thị
trường mà vẫn kiên định định hướng Xã hội chủ nghĩa cho dù có rất nhiều thế lực phản
động nhăm nhe phá hoại nước ta. Thành tựu mà chúng ta đạt được trong những năm
qua không những có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn tạo niềm tin to lớn ở người dân vào
sự lãnh đạo của Đảng. Mọi người dân đều tin tưởng rằng chúng ta sẽ đập tan được các
âm mưu phá hoại, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh.



Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng tại Đại hội VII của Đảng-NXB Sự thật,
Hà Nội, 1991
2. Lý luận chính trị số 5/2001
3. Nghiên cứu lý luận số 10/2000
4. Nghiên cứu kinh tế số 251-4/1999
5. Nghiên cứu trao đổi số 18-9/1998
6. Nguyễn Phú Trọng-Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng trong điều kiện cơ chế
thị trường-NXB Chính trị quốc gia 1995
7. Phát triển kinh tế số 86/1997
8. Tạp chí cộng sản số 9 -5/2001

9. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII-NXB Sự thật, Hà Nội, 1991
10. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII-NXB Chính trị quốc gia-
1996
11. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII-NXB Chính trị quốc gia-2001




Mục lục
A. Đặt vấn đề 1
B. Nội dung 3
1. Sự cần thiết phải xây dựng kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam 3
1.1. Lý thuyết chung về kinh tế thị trường 3
1.1.1. Khái niệm về kinh tế thị trường 3
1.1.2. Những đặc điểm của kinh tế thị trường 3
1.2. Đặc điểm và yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam 4
1.2.1. Đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam 5
1.2.2. Những yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa 5
2. Vai trò của kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa trong
công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 6



×