Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tiểu luận: THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.64 KB, 29 trang )

1



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG……………










Tiểu luận

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH













2



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều
74 Hiến pháp năm 1992 của nước ta. Đó là một trong những quyền dân chủ không thể
thiếu được trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Luật khiếu nại, tố cáo được Quốc hội khóa X
ban hành ngày 02/12/1998, là một trong những văn bản luật có tính pháp lý cao nhất về
khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng một số điều của Luật Khiếu nại tố
cáo còn bộc lộ nhiều bất cập chưa phù hợp với tình hình thực tế mặc dù đã qua 02 lần
sửa đổi bổ sung. Đó là những vướng mắc trong giải quyết khiếu nại liên quan về lĩnh
vực đất đai.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
− Nắm được hệ thống tố tụng hành chính trên thế giới, các lý luận về khiếu kiện hành
chính.
− Làm rõ thực trạng về tổ chức và hoạt động giải quyết các khiếu kiện hành chính ở
Việt Nam.
− Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc tổ chức và hoạt động giải quyết
khiếu kiện hành chính ở nước ta.
− Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cưú, đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới,
hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động giải quyết các khiếu kiện hành chính ở
nước ta.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử và phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở phương pháp luận trên, đề tài này sử
dụng các phương pháp nhận thức khoa học cụ thể như:
− Phương pháp trừu tượng khoa học;
− Phương pháp so sánh;

− Phương pháp tổng hợp, thống kê;
− Phương pháp phân tích đánh giá…
3




CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU
KIỆN HÀNH CHÍNH
1.1. Các hệ thống tố tụng hành chính trên thế giới.
1.1.1. Hệ thống Pháp
Theo hệ thống này, các khiếu kiện về tính hợp pháp và khiếu kiện đòi bồi thường được
giao cho một cơ quan xét xử đặc biệt là các toà án hành chính. Các toà án hành chính
độc lập hoàn toàn với các toà án tư pháp (toà án thường).
Hệ thống Pháp có ưu điểm:
− Đối với người dân, so với việc kiểm tra có tính chất chính trị thì việc giải quyết
khiếu kiện hành chính có tính khách quan hơn khi được thực hiện và bảo đảm bởi
tính độc lập của một loại toà án.
− Đối với cơ quan hành chính, người ta đánh giá cao tính chuyên nghiệp của toà án
hành chính khi việc xét xử được thực hiện bởi một toà án chuyên trách, có hiểu
biết sâu sắc lĩnh vực quản lý công, tôn trọng các ưu quyền của cơ quan hành chính
cần thiết cho sự vận hành và bảo đảm lợi ích chung - điều khó có thể có được đối
với một cơ quan xét xử thông thường.
Hệ thống này có nhược điểm:
− Khó khăn đầu tiên là việc lựa chọn các thẩm phán. Thẩm phán phải hiểu biết sâu
sắc hoạt động hành chính công nhưng lại phải độc lập với cơ quan hành chính.
− Tiếp đó, điều người ta phê phán nhiều hơn cả đối với hệ thống Pháp là việc sẽ có
quá nhiều tranh chấp về thẩm quyền giữa toà án hành chính và toà án tư pháp.
Chính vì vậy mà cũng cần quá nhiều án lệ và văn bản để giải quyết vấn đề phức
tạp này.

Án lệ của Hệ thống pháp đã nêu ra nguyên tắc, khi cơ quan hành chính có sự vi phạm
nghiêm trọng xâm phạm đến quyền sở hữu hoặc một quyền tự do cơ bản trái với bản
chất của hoạt động hành chính, hoặc khi nó hành động trong những điều kiện của một
pháp nhân tư, cơ quan hành chính sẽ không được xét xử bởi toà án hành chính mà phải
bị xét xử như bất cứ cá nhân nào khác trước các toà án thường, ví dụ: trong việc thực
hiện các hoạt động công nghiệp và thương mại hoặc các hoạt động thuộc về dịch vụ tư
pháp.
Tuy nhiên, nhiều văn bản liên quan đến pháp nhân công quyền đã trao thẩm quyền cho
Toà án tư pháp cả về những vụ việc kiện về lạm quyền hoặc bồi thường thiệt hại.
Chẳng hạn, Luật ngày 31/12/1957 đã trao thẩm quyền cho toà án tư pháp xét xử các vụ
việc bồi thường thiệt hại do các xe cộ của cơ quan nhà nước gây ra. Hoặc Pháp lệnh
ngày 01/12/1986 và Luật ngày 6/7/1987 liên quan đến quyền tự do cạnh tranh, Đạo luật
4



ngày 02/8/1989 liên quan đến Uỷ ban Chứng khoán đã giao các tranh chấp loại này cho
Toà án phúc thẩm Paris xét xử.
Trong một thời kỳ dài, luật hành chính Pháp được hình thành chủ yếu từ các án lệ hành
chính, nhưng hiện nay, các hiệp ước quốc tế, các luật của cộng đồng châu Âu cũng là
những nguồn quan trọng của luật hành chính Pháp và hệ thống tài phán hành chính của
Pháp ngày càng gần gũi với hệ thống hỗn hợp mà chúng ta bàn đến dưới đây.
1.1.2. Hệ thống hỗn hợp
Về nguyên tắc, hệ thống này trao quyền xét xử về tính hợp pháp cho toà án hành chính,
còn thẩm quyền xét xử các vụ việc đòi bồi thường trong lĩnh vực hợp đồng lại thuộc về
toà án tư pháp. ở các nước phương Tây, theo hệ thống này có Đức, ý, Hà Lan,
Lucxămbua, Phần Lan.
Hệ thống hỗn hợp có ưu điểm:
− Sự phân chia thẩm quyền giữa hai ngành tài phán có vẻ hợp lý hơn. Cơ sở lý luận
của nó là khi cơ quan hành chính hành động đơn thuần như một cá nhân, chẳng

hạn thực hiện việc quản lý các hoạt động công nghiệp và thương mại, ký kết các
hợp đồng dân sự hoặc gây ra các thiệt hại cho người nào đó thì phải được xem xét
như một pháp nhân tư và thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về toà án tư
pháp.
− Cơ quan hành chính hành động với tư cách một pháp nhân công quyền, khi nó
thực hiện những ưu thế của quyền lực công, như quyền lập quy, ban hành các văn
bản bắt buộc thi hành thì việc kiểm tra tính hợp pháp của nó phải thuộc về cơ quan
tài phán hành chính.
Hệ thống hỗn hợp có nhược điểm:
− Sự phân chia thẩm quyền giữa khiếu kiện về tính hợp pháp và khiếu kiện về bồi
thường cũng gặp không ít khó khăn.
Chẳng hạn, khi trách nhiệm của cơ quan hành chính không phải xuất phát từ một hành
vi thực tế mà lại xuất phát từ một văn bản trái pháp luật. Trong trường hợp này, việc
đánh giá tính hợp pháp của văn bản đó thuộc về cơ quan tài phán hành chính trong khi
việc quyết định mức bồi thường lại thuộc về cơ quan tài phán tư pháp. Như vậy, theo
thệ thống này, hai loại khiếu kiện về tính hợp pháp và khiếu kiện đòi bồi thường là
không rõ ràng.
Ví dụ tại Bỉ, nơi mà khiếu kiện về bồi thường thuộc toà án tư pháp thì Tham chính viện,
cơ quan tài phán hành chính, đôi khi được trao thẩm quyền nếu nạn nhân không thể thực
hiện được việc khiếu kiện thông qua một con đường khác.
Cũng như vậy, ở Ý, về nguyên tắc, toà án hành chính chỉ được trao thẩm quyền xét xử
khiếu kiện về tính hợp pháp nhưng trong một số trường hợp, toà án hành chính xét xử
cả vấn đề bồi thường khi cơ quan hành chính từ chối thi hành một quyết định tư pháp.
1.1.3. Hệ thống Ăng -lô Xắc -xông
5



Những nước theo hệ thống này giao hoàn toàn việc xét xử các khiếu kiện hành chính
cho toà án tư pháp (toà án thường). Cơ quan hành chính không được hưởng bất cứ sự ưu

ái nào trước cơ quan tài phán.
Hệ thống Ăng -lô Xắc -xông với những hình thức khác nhau được áp dụng ở nhiều nước
như Anh quốc, Hoa Kỳ và nhiều nước châu Phi như Sênegan, Bờ Biển Ngà
Hệ thống này đơn giản và có ưu điểm:
− Tạo sự gần gũi giữa toà án và những người đi kiện vì nó cho phép người kiện gửi
đơn đến toà án thông thường.
− Bảo đảm tính khách quan của hoạt động xét xử hành chính bởi toà án tư pháp
không dính dáng gì đến cơ quan hành pháp.

Hệ thống này đơn giản và có nhược điểm:
− Toà án chỉ lo bảo vệ các quyền của cá nhân mà không biết đến nhu cầu quản lý
công cộng, tức là những lợi ích chung mà cơ quan hành chính có trách nhiệm
thực hiện.
− Nhà nước sẽ tìm cách hạn chế thẩm quyền của toà án trong các vụ việc khiếu kiện
hành chính.
− Hệ thống này là việc toà án tư pháp không am hiểu về hoạt động hành chính công
và không phải lúc nào cũng có khả năng giải quyết tốt các tranh chấp hành chính.
Chính vì vậy, nhiều nước theo hệ thống Ăng -lô Xắc –xông cùng với việc Nhà nước
ngày càng can thiệp nhiều hơn vào lĩnh vực kinh tế - xã hội, đã dần dần chấp nhận việc
tạo ra các thiết chế chuyên biệt để giải quyết các tranh chấp hành chính do việc công
dân phản đối quyết định của cơ quan hành chính nhà nước.
Như vậy, sự xuất hiện của cơ chế kiểm tra tính hợp hiến, việc tạo ra cơ quan xét xử
hành chính chuyên biệt ở một số theo hệ thống Pháp và cuối cùng là do ảnh hưởng của
Công ước châu Âu về quyền con người và pháp luật của cộng đồng châu Âu đã làm cho
sự khác biệt giữa các nước có những hệ thống khác nhau giảm đi một cách đáng kể.
1.2. Lịch sử hình thành, phát triển khiếu kiện hành chính và tổ chức giải quyết
khiếu kiện hành chính ở nước ta.
.2.1. Thời phong kiến.
Trong các chế độ chính trị, hoạt động hành chính luôn luôn thể hiện tính chất dân chủ
cao hay thấp, dân chủ thực sự hay dân chủ giả hiệu. Do đó khi xây dựng bộ máy hành

chính nhà nước mỗi quốc gia thường lựa chọn các phương cách phù hợp với các điều
kiện về chính trị, kinh tế, xã hội của nước mình.
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nền văn hoá Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của
văn hoá Trung Quốc, nhất là tư tưởng Nho gia. Suốt 10 thế kỷ (từ năm 939 đến 1945)
Nho gio đã thâm nhập, có thời kỳ còn chiếm giữ vị trí độc tôn trong hoạt động của nhà
nước phong kiến Việt Nam. Theo quan điểm Nho gia, trong quan hệ giữa Vua- Dân thì
6



vua là người thay trời trị dân. Toàn bộ quyền lực quốc gia tập trung vào tay vua, từ lập
pháp, hành pháp đến tư pháp. Vua là gạch nối giữa trời với dân, vua có nghĩa vụ thay
trời lo cho dân được ấm no, hạnh phúc.
1

Trong thời kỳ ấy mọi tầng lớp nhân dân phải có nghĩa vụ tuân thủ lệnh vua, như con
tuân lệnh Cha: “Vua nói chết không chết là bất trung – Cha nói chết không chết là bất
hiếu”. Trong cái trật tự ấy của Nho gio” vua là con trời”, ” ý vua là ý trời”, “Vua sẽ thay
trời trị dân”.
Theo sử cũ, khi Lý Công Uẩn lên ngôi (1009 - 1028), là vị vua khai sáng triều đại quân
chủ trung ương tập quyền hoàn chỉnh đầu tiên ở Việt Nam đã ban hành chiếu chỉ đích
thân trực tiếp giải quyết các khiếu kiện của dân. Chiếu rằng “Từ nay hễ có ai kiện tụng,
được đến triều tâu bày, Vua sẽ đích thân xét quyết cho”.
2

Trong các triều đại phong kiến Việt Nam sau đó, đã hình thành một truyền thống dân
chủ trong chế độ quân chủ ở Việt Nam là dân có thể kiện đến triều đình các hành vi sai
trái, phạm pháp của quan lại để vua xét xử. Trước điện triều có đặt sẵn một cái trống hay
cái chuông để có oan ức điều gì thì dân có thể đến đánh trống, đánh chuông kêu oan lên
Vua.

Vào thời Trần, ở trung ương, bên cạnh các cơ quan, chức quan đã có từ thời Lý, triều
đình còn đặt thêm nhiều cơ quan chuyên trách mới trong đó có Thẩm hình viện và Tam
ty viện. Thẩm hình viện là cơ quan xét xử cao nhất, Tam ty viện là cơ quan có chức
năng giám sát việc thi hành pháp luật cuả các quan lại và viên chức nhà nước, là cơ quan
đề nghị Nhà Vua sưả đổi, bổ sung các văn bản pháp luật cuả Nhà nước. Ngoài các chức
quan như đã có dưới triều Lý, nhà Trần còn đặt thêm các chức quan như Tư đồ, Tư mã,
Tư không, gọi chung là Tam tư, trong đó Tư mã là quan phụ trách công việc chinh phạt
như quốc phòng, công an, tư pháp
3
. Có chức quan là Ngự sử đài với nhiệm vụ là chuyển
những giấy tờ trình nhà vua, chuyển đơn khiếu tố cuả tất cả các nơi lên nhà vua, kiểm
tra, giám sát và phát hiện lầm lỡ cuả các quan lại, viên chức lên vua.
Ở điạ phương, mỗi lộ có 2 viên quan trông coi về hành chính và tư pháp là An phủ
chánh sứ và An phủ phó sứ. Quan lại hành chính ở điạ phương đồng thời phụ trách cả
việc xét xử tội phạm và các kiện tụng khác.
Đến thời nhà Lê, tổ chức cơ quan xét xử vẫn chưa có sự độc lập hẳn so với cơ quan hành
pháp nhưng đã có sự phát triển vượt bậc so với các triều đại trước. Hệ thống cơ quan
hành chính vẫn thực hiện chức năng tài phán, tuy nhiên đã xuất hiện một số cơ quan
được phân định chuyên trách quyền tài phán như: Thừa ty, Hiến ty, Ngự sử đài, Đại lý
tự… trong đó Thừa ty có thẩm quyền xét xử những vụ kiện đặc biệt (điền thổ, hộ hôn,
công nợ, thuế khoá, phân định điạ giới hành chính giữa các làng, khiếu kiện việc bầu cử
xã trưởng…), Hiến Ty có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ sang đoạt tài sản, ức hiếp
do các quan lại cầm quyền gây ra, các vụ sách nhiễu cuả viên chức thu thuế, việc mua

1
Học viện Hành chính quốc gia- Khoa Khoa học hành chính: “Lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam”, NXB
Thống kê, 2003.
2
Phan Đăng Thanh và một số tác giả: “Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt
Nam”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội- 1998.

3
Trường Đại học luật Hà Nội: “Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1994
7



bán cuả các nhà chức trách, các vụ sách nhiễu trong thi hành các trát án, việc giả mạo
dấu má hay tư cách sai nha…
4

Dưới triều Nguyễn, có cơ quan phụ trách giải oan cho dân là Tam pháp ty
5
. Năm Minh
Mạng thứ 13 (1832) theo tấu trình của đình thần, Vua đã chuẩn cho quy định: Hàng
tháng, cứ đến ngày 6, 16 và 26 thì Tam pháp ty mở hội đồng để nhận các đơn kiện của
dân. Tuy nhiên, đối với những việc thật cần kíp, khẩn thiết không thể đợi đến nhật kỳ
nhận đơn thì cho phép bất cứ lúc nào dân cũng có quyền đến triều đình đánh trống kêu
oan. Trước Công chính đường có treo một cái trống gọi là trống Đăng Văn để cho ai có
việc oan thì đến đánh trống ấy và nộp đơn kêu oan. Dân có quyền kêu oan tới Vua thì
cũng có nghĩa vụ bảo đảm cho việc cáo oan nghiên túc. Nếu không phải sự việc khẩn
thiết mà cứ đánh trống đưa đơn kêu thì việc dẫu có thật cũng bị đóng gông 10 ngày để
ngoài sân, đến khi mãn hạn còn bị phạt đánh 100 trượng, nếu có vu cáo thì chiếu theo tội
vu cáo mà bắt chịu tội
6
. Theo luật lệ triều Nguyễn lúc đó kẻ nào đón xa giá nhà vua
hoặc đánh trống Đăng Văn để khiếu oan mà việc không có gì khẩn thiết thì bị xử phạt
100 trượng; nếu khiếu oan không có sự thực thì theo mức nặng của tội vu cáo mà xử tội.
Các quy định trên chứng tỏ nhà nước phong kiến Việt Nam cũng có quan tâm đến việc
khiếu kiện của dân. Không ít quan lại làm điều phi pháp nếu bị kiện đến tai vua thì bị
trừng trị thích đáng như: Cách chức; thu hồi áo, mão…Theo Đại Nam Thực Lục Chính

Biên vào năm 1832 bọn lại viên và người coi kho ở Sơn Nam và Hải Dương có ý gian
đem cái quan hộc dùng để đong gạo thu thuế đẽo đáy cho trũng xuống và mỗi lần đong
thì nặng tay ấn gạo xuống để lạm thu cho nhiều… Khi vụ việc bị khiếu kiện, nhà Vua đã
ra lệnh chém bêu đầu những kẻ cầm đầu, đục lấy mỗi bên một mảnh xương sọ, phơi gió
cho khô, treo ở cửa để răn đe người khác. Vua còn bảo quần thần rằng: “Lấy được mảnh
xương sọ mà cứu được ức muôn người khỏi khổ luỵ, thì dù có mang tiếng là hình phạt
tàn khốc cũng không hề gì”
6
.
.2.2. Thời Ngụy quyền Sài Gòn
Năm 1885 kinh đô thất thủ, vua nhà Nguyễn thực tế lúc đó không còn quyền hành thực
sự nên Tam pháp ty bị bị bỏ, trống Đồng Văn bị dẹp. Cũng kể từ thời điểm này, đất
nước ta luôn chìm trong khói lửa chiến tranh cho đến năm 1954, bằng các thoả thuận tại
Hiệp định Géneve đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc.
Tại miền Nam Việt Nam kế thừa Dụ số 2 ngày 05/01/1950 (được ban hành khi Việt
Nam còn là thành viên trong Khối liên hiệp Pháp), chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục
ban hành Dụ số 36 ngày 08/11/1954 tiếp tục duy trì tổ chức Tòa hành chính và Dụ số
38 ngày 09/11/1954 về việc thành lập Tham chính viện.
Theo các quy định có liên quan thì Tòa hành chính có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
án đòi bồi thường liên quan đến pháp nhân hành chính, các vụ kiện xin thủ tiêu các
quyết định hành chính có tính cách cá nhân liên quan đến tình trạng hành chính của công
chức cấp trung, cấp thấp, các vụ tranh tụng liên quan đến tuyển cử hội đồng hàng tỉnh,

4
Nguyễn Đăng Dung: “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, NXB Tư pháp, Hà Nội- 2004
5
Trường Đại học luật Hà Nội: “Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1994
6
Phan Đăng Thanh và một số tác giả: “Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt
Nam”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội- 1998

8



hàng quận, hàng xã; sơ và chung thẩm các vụ kiện liên quan đến thuế trực thu và các
thuế đồng hoá với thuế trực thu. Tham chính viện là cơ quan cấp trên của Toà hành
chính, trong đó có Ban tài phán có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án do Toà
hành chính đã xử sơ thẩm; xét xử sơ và chung thẩm những việc xin thủ tiêu các quyết
định hành chính cá biệt hay lập quy có vi phạm, các vụ tranh tụng liên quan đến tình
trạng hành chính của các công chức cao cấp…
Ngoài ra, trong tổ chức Tối cao pháp viện còn có Ban bảo hiến có thẩm quyền giải thích
luật; xem xét tính hợp hiến của các đạo luật, sắc lệnh, nghị định…và Ban phá án có
thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm các bản án đã có hiệu lực pháp luật
7
.
.2.3. Ở miền Bắc sau 1954 và trên cả nước sau 1975.
Tại miền Bắc Việt Nam, chính quyền thuộc về nhân dân. Đảng và Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã chủ trương xây dựng một nhà nước Việt Nam của dân, do dân và vì
dân được quy định tại Điều 1 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1946: “Tất cả quyền binh trong nước là của tòan thể nhân dân”; Điều 29 Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959: “Tất cả các nhân viên cơ quan nhà
nước phải dưạ vào dân, lắng nghe ý kiến và chiụ sự kiểm sóat cuả nhân dân. Tất cả các
nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân
theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”; Điều 73, Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980: “Công dân nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nhà nước nào về những
hành vi vi phạm pháp luật cuả nhân viên cơ quan nhà nước. Những việc khiếu nại và tố
cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi vi phạm
pháp luật cuả nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường”.
Từ ngày 30/4/1975 đất nước được thống nhất. Kế thừa các quy định về quyền khiếu nại,

tố cáo cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức do nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy
định, Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp
tục ban hành các quy định có liên quan như: Tất cả các cơ quan nhà nước từ trung ương
đến điạ phương phải trả lời kịp thời và đầy đủ tất cả các vấn đề cuả nhân dân đặt ra
8
.
Một sự kiện đáng ghi nhớ là ngày 07/11/1979 Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số
363/TTg trong đó quy định: Sau khi xác minh sự phản ánh cuả quần chúng, báo, đài có
thể tự động đăng công khai các vấn đề để đấu tranh chống tiêu cực. Trong thời hạn 30
ngày các cơ quan liên quan phải trả lời việc được báo đài nêu lên hoặc chuyển thư đến.
Ngày 27/11/1981 Hội đồng nhà nước đã ban hành Pháp lệnh quy định việc xét và giải
quyết KNTC cuả công dân ( sau đây gọi là Pháp lệnh 1981); quy định về quyền khiếu
nại tố cáo của công dân đến các cơ quan hành chính nhà nước và thủ tục giải quyết
khiếu nại tố cáo của công dân tại các cơ quan hành chính nhà nước. Ngày 02/5/1991 Hội
đồng nhà nước có Pháp lệnh khiếu nại tố cáo cuả công dân ( sau đây gọi là Pháp lệnh
1991) để thay thế cho Pháp lệnh 1981. Đến ngày 02/12/1998 Pháp lệnh 1991 được nâng
lên thành một đạo luật là Luật khiếu nại tố cáo 1998.

7
Phan Đăng Thanh và một số tác giả: “Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt
Nam”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội- 1998
8
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 21/5/1996 (Pháp lệnh 1996)
9



Một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của pháp luật về giải quyết khiếu
kiện hành chính ở nước ta là ngày 21/5/1996 Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, có hiệu lực từ ngày 01/7/1996 (sau

đây gọi là Pháp lệnh 1996). Theo đó trong một số trường hợp, ngoài việc khiếu nại theo
thủ tục khiếu nại tố cáo, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức còn có quyền khởi kiện vụ án
hành chính đến Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cuả
mình khi bị các quyết định hành chính, hành vi hành chính cuả các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước xâm phạm.
1.3.Khái niệm luật tố tụng hành chính, khiếu kiện hành chính.
1.3.1.Khái niệm luật tố tụng hành chính.
− Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan Nhà nước và tổ chức
trong việc giải quyết vụ án hành chính, cũng như trình tự do pháp luật quy định
đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và thi hành bản án,
quyết định của Tòa án về vụ án hành chính.
− Luật tố tụng hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta, tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng hành chính phát sinh
giữa Tòa án với những người tham gia tố tụng, những người tiến hành tố tụng
trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan và tổ chức.
Luật tố tụng hành chính quy định các hành vi tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát, bên
khởi kiện, bên bị kiện và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình Tòa án giải
quyết vụ án hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng
tìm ra sự thật khách quan của vụ án, trên cơ sở đó Tòa án có thể tiến hành việc giải
quyết vụ án được đúng đắn. Ðể đạt được điều đó, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
trong công tác xét xử không những phải nắm vững pháp luật nội dung mà còn phải nắm
vững pháp luật tố tụng hành chính.
1.3.2.Khái niệm khiếu kiện hành chính.
Xem xét quá trình phát triển của quyền khiếu nại, KKHC trong lịch sử như trên đã cho
ta những nét khái quát về KKHC. Nhưng về mặt pháp lý, cho đến nay vẫn chưa có một
văn bản quy phạm pháp luật nào định nghĩa khái niệm KKHC là gì. Tuy nhiên, thông
qua việc sử dụng thuật ngữ “khiếu kiện hành chính”, có nhiều cách định nghĩa khiếu
kiện hành chính, như

“Từ điển từ và ngữ Việt Nam” do Nguyễn Lân biên soạn có định nghĩa: “khiếu kiện
hành chính” là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình khi bị quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm.
Với ý nghĩa này thì khái niệm khiếu kiện hành chính đồng nhất với khái niệm khởi kiện
hành chính.
Theo Trần Văn Sơn “Suy nghĩ về mô hình cơ quan tài phán hành chính trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” thì hiểu “khiếu kiện hành chính” là việc cá
10



nhân, cơ quan tổ chức khiếu nại đến cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền hoặc
khởi kiện tại Tòa án u cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị quyết
định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm
Tóm lại, khiếu kiện hành chính là những vụ kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết đối với những quyết đònh, hành vi trái pháp luật của các cơ quan
hoặc cán bộ, công chức nhà nước xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân và những quyết đònh kỷ luật buộc thôi việc đối
với cán bộ, công chức theo qui đònh của pháp luật.
Để hiểu rõ thêm về khái niệm khiếu kiện hành chính ta cần tìm hiểu thêm về một số khái
niện liên quan đến Quyết định hành chính, hành vi hành chính
“Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức
khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về
một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một
hoặc một số đối tượng cụ thể” theo khoản 1 điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2011.
Như vậy, quyết định này có thể do cá nhân hoặc cơ quan hành chính nhà nước ban hành
hoặc của cá nhân, cơ quan tổ chức khác ban hành để buộc một hoặc nhiều cá nhân, tổ chức
khác (có tên cụ thể) thực hiện.
Cơ quan, tổ chức khác bao gồm tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính
trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,

đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân.
Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để u cầu Tồ án giải quyết vụ án
hành chính có thể là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình
thức khác như thơng báo, kết luận, cơng văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa
đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một
số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người
khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản
thơng báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong
việc u cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến
việc giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo u cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó)
“Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức
khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc khơng
thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ theo quy định của pháp luật.”
Việc xác định hành vi hành chính khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác, khi nào là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức khác và khi nào là khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ phải căn cứ vào quy
định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ, cơng vụ đó.
Hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện là hành vi thuộc mọi lãnh vực xâm hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trừ các hành vi hành chính thuộc
phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh
11



mục do Chính phủ quy định và các hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức như trường hợp đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính.
Hành vi hành chính có thể bằng văn bản nhưng không chứa đựng mệnh lệnh, có thể
chứa đựng mệnh lệnh nhưng không bằng văn bản, có thể là hành động (khám xét người,
thu, giữ, làm hư hỏng tài sản…), có thể là không hành động (không thực hiện các công

vụ, nhiệm vụ của mình, như: không cấp giấy phép xây dựng, không giao đất, không thu
hồi giấy chứng nhận đã cấp…).
1.4.Vai trò của luật tố tụng hành chính và khiếu kiện hành chính.
1.4.1.Vai trò của luật tố tụng hành chính.
Để giải quyết những công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động quản lý nhà
nước, các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức nhà nước thường ban hành các
quyết định hành chính hay hành vi hành chính để thực hiện nhiệm vụ được giao. Trong
số các quyết định, hành vi hành chính này, có thể có một số quyết định hoặc hành vi
đựơc ban hành hoặc thực hiện một cách trái pháp luật. Từ đó gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, đồng thời duy trì trật tự,
kỷ cương trong quản lý nhà nước, pháp luật quy định quyền khiếu kiện đối với các
quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, của cán
bộ, công chức. Tóm lại, thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, luật tố tụng
hành chính Việt Nam nhằm hướng tới các mục đích sau đây:
− Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức thông
qua việc thực hiện chức năng của mình;
− Bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án hành chính được đúng đắn, kịp thời;
− Bảo đảm cho việc thi hành các bản án, các quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án về vụ án hành chính được nghiêm chỉnh, có hiệu lực và hiệu quả.
1.4.2.Vai trò của khiếu kiện hành chính.
− Một mặt nó là hình thức thể hiện quyền cá nhân trong việc tự do đánh giá họat
động của công quyền nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ
chức.
− Góp phần thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của quyền lực, đem lại các hiệu quả
ích lợi cho xã hội.
− Hạn chế được việc khiếu kiện hành chính vượt quá mức cho phép hoặc bị lạm
dụng trong xã hội các hiện tượng thiếu lành mạnh lôi cuốn dư luận gây mất ổn
định xã hội, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững
9

.
− Qua các khiếu kiện hành chính chúng ta cũng có thể phát hiện ra những yếu tố
bất hợp lý cuả bộ máy hành chính, các yếu kém, tiêu cực cuả một số cán bộ, công
chức nhà nước để từ đó có những chấn chỉnh, xử lý kịp thời nhằm bảo đảm cho

9
Đinh Văn Mậu: “Giải quyết tranh chấp hành chính trong việc thực hiện quyền hành pháp và vấn đề tài phán hành
chính”, tài liệu tại Hội thảo về tài phán hành chính tại Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 3/2006
12



pháp luật cuả Nhà nước ta được chấp hành nghiêm chỉnh, tất cả các cơ quan nhà
nước, các nhân viên nhà nước đều phải tôn trọng pháp luật, đặt mình dưới pháp
luật.
− Thông qua khiếu kiện hành chính cuả các cá nhân, cơ quan, tổ chức, chúng ta
cũng phát hiện các quyền lợi hợp pháp cuả các chủ thể bị quyết định hành chính,
hành vi hành chính xâm phạm, để từ đó có các biện pháp, hình thức khắc phục
nhằm khôi phục các quyền lợi hợp pháp cuả các chủ thể, bảo đảm các quyền tự
do, lợi ích cuả công dân phải được không ngừng mở rộng và được pháp luật bảo
hộ.
− Thay vì lưạ chọn các hình thức phản ứng tiêu cực trước sự xâm hại cuả các quyết
định hành chính, hành vi hành chính như la hét, chống đối…, việc khiếu kiện đến
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong khuôn khổ pháp luật cuả các cá nhân,
cơ quan, tổ chức cũng thể hiện sự tôn trọng pháp luật, sự tin tưởng vào việc giải
quyết đúng đắn các khiếu kiện cuả cơ quan nhà nước.






















13



CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN
HÀNH CHÍNH
2.1.Hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới đối với đất
nước ta - Kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chính quyền thực dân
phong kiến và lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước độc lập, dân chủ
thực sự của nhân dân. Ngay từ những ngày đầu giành được chính quyền Đảng và Nhà
nước ta đã khẩn trương xây dựng bộ máy Nhà nước cách mạng, trong đó có các Toà án
cách mạng nhằm đè bẹp sức phản kháng của bọn thực dân, phong kiến đã bị lật đổ

nhưng chưa từ bỏ âm mưu chống phá Nhà nước non trẻ của chúng ta. Xuất phát từ
nhiệm vụ chiến lược đó, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số
33C thiết lập các Toà án quân sự, đánh dấu sự ra đời của ngành Toà án nhân dân. Bằng
Sắc lệnh này, trên toàn lãnh thổ Việt Nam đã thiết lập các Toà án quân sự với nhiệm vụ
"xét xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà".
Ngành Toà án nhân dân nước ta đã trải qua những bước phát triển khác nhau phù hợp
với nhận thức, mức độ phát triển của xã hội và đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra
đối với từng giai đoạn lịch sử, điều ấy được ghi nhận qua từng bản Hiến pháp: Hiến
pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và các Luật tổ chức Tòa
án nhân dân các năm 1960 1981, 1993 và 2002. Nhìn chung nhiều quy định của Hiến
pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân được kế thừa các quy định
của Hiến pháp năm 1980, tuy nhiên Hiến pháp năm 1992 đã có những quy định về tổ
chức và hoạt động của của Toà án nhân dân thể hiện rõ nét đổi mới các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan này.
Theo Hiến pháp 1992 : “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân.”
Hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam theo quy định Hiến Pháp 1992 và Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân 2002 có các Tòa án sau đây: Tòa án Nhân dân tối cao; Tòa án Nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án Nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh; Tòa án quân sự; các Tòa án khác do luật định; trong tình hình đặc biệt,
Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt.
2.1.1.Tòa án nhân dân tối cao
Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao gồm có:
− Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

14



− Tòa án quân sự trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động,
Tòa hành chính và các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; trong trường hợp
cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên trách
khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
− Bộ máy giúp việc.
Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án.
2.1.2.Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có:
− Uỷ ban Thẩm phán.
− Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính; trong
trường hợp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
− Bộ máy giúp việc.
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chánh án, các Phó Chánh án,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án.
2.1.3.Tòa án nhân dân cấp huyện. Quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không có các tổ chức trực
thuộc, chỉ có bộ máy giúp việc và cơ cấu nhân sự gồm: Chánh án, một hoặc hai Phó
Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án. Tòa án nhân dân cấp huyện
có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
2.2.Pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Để xác định vụ kiện có thuộc án hành chính hay không và trình tự giải quyết cũng như
nơi giải quyết cần xét thẩm quyền của tòa án theo 3 phương diện : thẩm quyền theo vụ
việc, thẩm quyền theo cấp tòa và thẩm quyền theo lãnh thổ.
2.2.1.Thẩm quyền theo vụ việc
Xác định thẩm quyền theo vụ việc nhằm xác định những vấn đề thuộc phạm vi giải

quyết của vụ án hành chính hay còn gọi là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính.
Theo LTTHC, đối tượng khởi kiện gồm : Quyết định hành chính và hành vi hành chính
2.2.1.1.Quyết định hành chính
Quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện phải là quyết định hành chính cá biệt, là
văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm
quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong
hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng
cụ thể
Như vậy, quyết định này có thể do cá nhân hoặc cơ quan hành chính nhà nước ban hành
hoặc của cá nhân, cơ quan tổ chức khác ban hành để buộc một hoặc nhiều cá nhân, tổ chức
khác (có tên cụ thể) thực hiện.
15



Cơ quan, tổ chức khác bao gồm tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính
trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân.
Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án
hành chính có thể là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình
thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa
đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một
số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người
khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản
thông báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong
việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến
việc giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó), bao
gồm:
− Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác

hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết,
xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.
− Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ
sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính nêu trên (Điều 1
NQ 02/2011).
Quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện thuộc một trong các trường hợp sau đây
(Điều 28 LTTHC) :
a) Quyết định hành chính thuộc mọi lãnh vực xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức trừ các quyết định hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà
nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính
phủ quy định và các quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Quyết định hành chính mang tính nội bộ của Cơ quan, tổ chức là những quyết định
quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ
quan, tổ chức đó.
b) Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là quyết định
của Hội đồng cạnh tranh, của Bộ trưởng Bộ Công thương khi giải quyết khiếu nại
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại mục 7 Chương V của Luật
cạnh tranh, bao gồm:
− Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối với quyết định của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn
chế cạnh tranh.
− Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công thương đối với quyết định
của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan
đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
c) Danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội
16



đồng nhân dân.

d) Quyết định kỷ luật buộc thôi việc thể hiện dưới hình thức quyết định của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức
thuộc quyền quản lý của mình giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở
xuống.
2.2.1.2.Hành vi hành chính
Hành vi hành chính là hành vi (làm hoặc không làm) của cơ quan hành chính nhà nước,
cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện
hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Việc xác định hành vi hành chính khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác, khi nào là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức khác và khi nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải căn cứ vào quy
định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ, công vụ đó.
Hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện là hành vi thuộc mọi lãnh vực xâm hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trừ các hành vi hành chính thuộc
phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh
mục do Chính phủ quy định và các hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức như trường hợp đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính.
2.2.2.Thẩm quyền theo cấp Tòa
Trong việc giải quyết các vụ án hành chính, Tòa án nhân dân cũng thực hiện chế độ 2
cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Tuy nhiên, đối với vụ án hành chính về khiếu kiện
danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, phán quyết của Tòa án
cấp sơ thẩm có giá trị áp dụng (hiệu lực pháp luật) mà không được chống án.
2.2.2.1.Thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện (huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh)
Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ
cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó.
b) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án

đối với công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó.
c) Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi
địa giới hành chính với Toà án.
2.2.2.2.Thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương)
Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
17



a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội,
Kiểm toán nhà nước, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong
cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với Toà án; trường hợp người khởi kiện không có
nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải
quyết thuộc Toà án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính,
có hành vi hành chính.
b) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một
trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản này và quyết định hành
chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong các cơ quan đó mà
người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Toà án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú,
nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc
Toà án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi
hành chính.
c) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp
tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án và của người có thẩm

quyền trong cơ quan nhà nước đó.
d) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện
ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc
của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú
trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án. Trường hợp người khởi kiện
không có nơi cư trú tại Việt Nam, thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nhân dân
thành phố Hà Nội hoặc Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
e) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi làm việc khi bị
kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án.
f) Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm
vi địa giới hành chính với Toà án.
g) Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết khiếu
kiện thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện (khi khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp ; Khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp
huyện mà các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải
từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi ; Vụ án có đương sự hoặc tài sản ở
nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện ngoại giao của
nước CHXHCNVN ở nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài)
18



Trường hợp vụ kiện thuộc thẩm quyền sơ thẩm của TAND cấp huyện, khi có kháng cáo,
kháng nghị sẽ thuộc thẩm quyền phúc thẩm của TAND cấp tỉnh (Tòa hành chính).
2.2.2.3.Thẩm quyền của Tòa phúc thẩm TANDTC
a) Phúc thẩm trong trường hợp sơ thẩm thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh (Tòa

hành chính) nhưng có kháng cáo, kháng nghi.
b) Giám đốc thẩm, tái thẩm trong trường hợp bản án có hiệu lực của TAND cấp tỉnh
(án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị và án phúc thẩm) có kháng nghị
của cấp thẩm quyền.
2.2.3.Thẩm quyền theo lãnh thổ
2.2.3.1.Tòa án nơi “người bị kiện” làm việc, có trụ sở
− Khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan cấp tỉnh trở xuống; người đứng đầu; Cán
bộ, Công chức của các cơ quan này, khiếu kiện về danh sách cử tri.
− Các Quyết định kỷ luật buộc thôi việc của cơ quan cấp huyện trở xuống
2.2.3.2.Tòa án nơi “người khởi kiện” làm việc, cư trú
− Khiếu kiện QĐHC, HVHC cơ quan trên cấp tỉnh; người đứng đầu; Cán bộ, Công chức
của các cơ quan này.Trường hợp Người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm
việc, trụ sở trên lãnh thổ VN thì thẩm quyền thuộc Tòa án nơi Người bị kiện
làm việc, có trụ sở.
− Khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan ngoại giao VN ở nước ngoài hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan đó.Trường hợp Người khởi kiện không có nơi cư trú,
nơi làm việc, trụ sở trên lãnh thổ VN thì thẩm quyền thuộc TAND TP.HCM
hoặc TAND TP.Hà Nội.
− Khiếu kiện Quyết định kỷ luật buộc thôi việc của cơ quan cấp tỉnh trở lên mà NKK có
nơi làm việc khi bị kỷ luật.
− Khiếu kiện QĐGQKN về QĐ xử lý vụ việc cạnh tranh
Trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án
cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ do Chánh án Tòa án
cấp tỉnh giải quyết.
Trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án
cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa
án cấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết.
2.3. Thực trạng giải quyết khiếu kiện hành chính
2.3.1.Thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính theo Luật khiếu
nại tố cáo năm 1998, đã được sưả đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005

Theo quy định cuả Luật khiếu nại tố cáo năm 1998, đã được sưả đổi, bổ sung theo Luật
sưả đổi, bổ sung một số điều cuả Luật khiếu nại tố cáo năm 2005 thì việc giải quyết
khiếu nại được thực hiện theo 2 cấp: Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
19



quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
cuả chính mình hoặc cuả cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý cuả mình; Thủ trưởng
cơ quan cấp trên cuả cơ quan có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo đối với các khiếu nại mà hết thời hiệu giải
quyết khiếu nại lần đầu nhưng không được giải quyết hoặc thủ trưởng cơ quan cấp dưới
đã giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng người khiếu nại vẫn không đồng ý. Riêng khiếu
nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính cuả bộ trưởng hoặc khiếu nại đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính cuả UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp
tỉnh mà nội dung quyết định hành chính, hành vi hành chính đó không thuộc lĩnh vực
quản lý cuả bộ, ngành kinh tế, kỹ thuật thì việc giải quyết khiếu nại chỉ có một cấp. Nếu
không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu cuả bộ trưởng hoặc Chủ tịch
UBND cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thì người khiếu nại chỉ có quyền khởi
kiện vụ án hành chính tại Toà án và không có quyền khiếu nại tiếp theo nếu pháp luật
không quy định khác (Điều 39 Luật khiếu nại tố cáo 2005 ).
Lý giải về việc này, nhà làm luật cho rằng, quy định như vậy là để buộc cơ quan bị
khiếu nại kiểm tra, đánh giá lại tính đúng đắn của quyết định hành chính đã ban hành
hoặc hành vi hành chính đã thực hiện, tạo điều kiện cho cơ quan chức năng giải quyết
vụ việc ngay từ cơ sở, bảo đảm ổn định xã hội, tránh gây áp lực công việc cho tòa án
nhân dân các cấp liên quan.
Thực tiễn chỉ ra rằng, quy định này không còn hợp lý, nó hạn chế một số quyền dân sự
của công dân, và thủ tục quá nhiêu khê, quanh co và không phải người dân nào cũng đủ
hiểu biết, đủ thời gian để khiếu nại, rồi mới khởi kiện.
Chính quy định rườm rà này cũng để một số quan chức, cơ quan Nhà nước lảng tránh,

lách luật, đùn đẩy trách nhiệm, không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại theo
mẫu văn bản quy định, mà trá hình gửi văn bản cho người khiếu nại ở dạng công văn
hoặc thông báo, nên người khiếu kiện không có căn cứ để khởi kiện ra tòa, vì chưa có
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của người có thẩm quyền theo như quy định của
pháp luật.
Câu hỏi đặt ra là, những quyết định hành chính nào, những hành vi hành chính nào có
thể bị khiếu kiện? Luật tố tụng hành chính quy định trừ các quyết định hành chính, hành
vi hành chính thuộc phạm vi bí mật Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại
giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ cơ quan, tổ chức, còn tất cả quyết định hành chính, hành vi hành
chính khác đều có thể bị khởi kiện.
Cần lưu ý là, quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ cơ quan, tổ
chức là những quyết định, hành vi quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức
năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó, chỉ áp dụng, thực hiện trong nội bộ
cơ quan, tổ chức đó mà thôi, ai thắc mắc, thì trình bày ý kiến của mình với thủ trưởng cơ
quan để được xem xét, giải quyết.

+ Về thủ tục khiếu nại:
20



Người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại đến người có quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị khiếu nại nếu đó là người có thẩm quyền mà Luật khiếu nại tố cáo năm
1998 quy định; trong trường hợp người đã có quyết định hành chính, hành vi hành chính
bị khiếu nại không phải là người có thẩm quyền mà Luật 1998 quy định thì cần khiếu
nại đến thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm quản lý người đó.
Người khiếu nại chỉ được quyền khiếu nại khi: thời hiệu khiếu nại vẫn còn; quyết định
hành chính, hành vi hành chính phải liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp cuả
người khiếu nại. Hiện nay về vấn đề thời hiệu khiếu nại, pháp luật vẫn có những quy

định khác nhau, ví dụ theo quy định của Luật KNTC thì thời hiệu khiếu nại là 90 ngày
kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được hành vi hành chính (Điều
31 Luật KNTC) khiếu nại quyết định xử lý kỷ luật buộc thôi việc là 15 ngày (Điều 49
Luật KNTC). Nhưng theo quy định của Luật đất đai năm 2003 thì thời hiệu khiếu nại là
30 ngày (điểm c khỏan 2 Điều 138 Luật đất đai năm 2003) Tùy theo tính chất của quan
hệ pháp luật hành chính mà nhà nước quy định về thời hiệu khiếu nại khác nhau nhưng
việc quy định nhiều thời hiệu khác nhau này làm cho vấn đề thời hiệu trở nên phức tạp,
khó nhớ. Ngòai ra, Luật KNTC chỉ quy định thời hiệu khiếu nại là 90 ngày nhưng Luật
đất đai năm 2003 lại quy định về thời hiệu khiếu nại khác Luật KNTC là một biểu hiện
của sự không nhất quán trong việc ban hành quy phạm pháp luật.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền
GQKN phải thụ lý để giải quyết vụ việc. Tuỳ theo ở điều kiện vùng sâu, vùng xa, vùng
đi lại khó khăn hay vùng bình thường, vụ việc phúc tạp hay đơn giản mà từ 30 ngày đến
60 ngày kể từ ngày thụ lý, người có thẩm quyền GQKN phải giải quyết xong vụ việc.
Khi GQKN, người có thẩm quyền GQKN lần đầu có quyền giữ nguyên, sưả đổi hoặc
huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt HVHC bị khiếu nại, giải
quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại.
Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền GQKN lần
đầu hoặc hết thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết người
khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính hoặc khiếu nại đến người có thẩm quyền
GQKN lần hai.( Điều 39 Luật khiếu nại tố cáo 2005). Theo luật khiếu nại tố cáo năm
2004 thì Trường hợp không đồng ý với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền,
người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật, Luật
2005 đã bỏ cụm từ theo quy định của pháp luật. Điều đó có nghĩa là người khởi kiện có
quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với mọi quyết định hành chính nếu không đồng ý
với quyết định GQKN cuả người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc hết
thời hạn GQKN lần đầu mà khiếu nại đó không được giải quyết.
Theo quy định tại Luật khiếu nại tố cáo năm 2004 nếu không đồng ý với quyết định
GQKN của người có thẩm quyền GQKN lần 2 hoặc hết thời hạn GQKN lần 2 mà khiếu
nại đó không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến người có thẩm

quyền GQKN tiếp theo. Luật khiếu nại tố cáo năm 2005 (Điều 46) đã sửa đổi và quy
định lại việc GQKN tối đa chỉ còn 2 cấp. Trường hợp không đồng ý với quyết định
GQKN của người có thẩm quyền GQKN lần 2 hoặc hết thời hạn GQKN lần 2 mà khiếu
nại đó không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính.
21



Đây cũng là một quy định mới nhằm mở rộng quyền khởi kiện vụ án hành chính của
người khiếu nại.
Theo quy định cuả Luật khiếu nại tố cáo năm 2004 (khỏan 2 Điều 45 ): Khi GQKN tiếp
theo người có thẩm quyền GQKN tiếp theo có quyền sưả đổi quyết định hành chính cuả
cấp dưới - tức là có quyền thay thế cấp dưới để ban hành một quyết định hành chính
khác để giải quyết vụ việc bị khiếu nại. Quy định này có ưu điểm là bằng việc sưả đổi
quyết định hành chính cuả cấp dưới, người có thẩm quyền GQKN tiếp theo có thể khắc
phục ngay được các sai lầm của cấp dưới. Tuy nhiên, việc ban hành quyết định hành
chính thay thế này của người có thẩm quyền GQKN tiếp theo như trên xét dưới góc độ
về phân định thẩm quyền quản lý nó đã xâm phạm đến quyền ban hành quyết định của
cấp dưới.
Trong lần sửa đổi bổ sung năm 2005, tại khỏan 2 Điều 45 Luật 2005 đã sưả lại thẩm
quyền cuả người có thẩm quyền GQKN lần 2: Khi GQKN, người có thẩm quyền
GQKN lần hai có quyền kết luận nội dung khiếu nại là đúng hay sai. Trường hợp khiếu
nại là sai một phần hoặc toàn bộ thì yêu cầu người có quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị khiếu nại phải sưả đổi, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành
chính, chấm dứt HVHC bị khiếu nại. Đây là một tiến bộ cuả pháp luật khiếu nại hiện
hành so với các quy định trước đó vì nó bảo đảm được nguyên tắc tôn trọng thẩm quyền
đã được pháp luật quy định cuả từng cơ quan nhà nước, ngăn chặn được tình trạng cấp
trên làm thay cấp dưới.
Ngoài ra, pháp luật hiện hành về khiếu nại còn quy định: Trong quá trình GQKN, người
có thẩm quyền GQKN có quyền tạm đình chỉ thi hành quyết định hành chính bị khiếu

nại.
Qua các quy định nêu trên chúng ta có thể thấy pháp luật về khiếu nại không ngừng mở
rộng các quyền cuả người khiếu nại, kể cả quyền được khởi kiện vụ án hành chính. Tuy
nhiên, sự mở rộng quyền khởi kiện này lại bị chính các quy định cuả pháp luật về tố
tụng vụ án hành chính thu hẹp lại (vấn đề này sẽ được nói rõ hơn ở mục tiếp theo).
Tại Điều 15 Nghị định số 67/1999/NĐ-CP ngày 07/8/1999 cuả Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều cuả Luật 1998 và Điều 22 Nghị định số
53/2005/NĐ-CP cuả Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều cuả
Luật 1998 và Luật 2004 (thay thế Nghị định số 67/1999/NĐ-CP), còn quy định người
đã ra quyết định GQKN nại cuối cùng khi phát hiện quyết định đó có vi phạm pháp luật
gây thiệt hại đến lợi ích cuả Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp cuả công dân, cơ quan,
tổ chức thì phải tự xem xét lại để việc giải quyết lại đúng quy định cuả pháp luật, việc
xem xét lại này không bị hạn chế về thời gian. Xét theo ý nghĩa tích cực đây là một quy
định nhằm bảo đảm tính đúng đắn cuả quyết định GQKN cuối cùng. Tuy nhiên, xét theo
ý nghĩa tiêu cực thì quy định trên đây lại làm cho việc GQKN không có điểm dừng,
trong một chừng mực nhất định quy định này rất dễ bị lợi dụng để người đã ban hành
quyết định GQKN cuối cùng có thể ban hành quyết định thay thế vì mục đích tư lợi, cá
nhân.
Bằng chứng trong thực tế theo Báo cáo tổng kết 7 năm thi hành Luật khiếu nại tố cáo
năm 1998 (1999-2005) cuả Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh có những vụ việc đã có
22



GQKN cuối cùng từ hàng chục năm trước vẫn được mang ra giải quyết lại và có quyết
định thay thế. Theo tìm hiểu cuả chúng tôi có những vụ án người có thẩm quyền còn
ban hành rất nhiều GQKN thay thế lẫn nhau và có nội dung trái ngược nhau. Tại lần sửa
đổi bổ sung gần đây nhất (ngày 29/11/2005) Luật khiếu nại tố cáo 2005 đã bỏ khái niệm
“quyết định giải quyết cuối cùng” nhưng Luật đất đai hiện hành (khỏan 2 Điều 136 và
điểm a khỏan 2 Điều 138 Luật đất đai năm 2003) vẫn còn quy định về quyết định giải

quyết cuối cùng. Đồng thời pháp luật hiện hành có liên quan cũng không có quy định
nào cấm người đã ban hành quyết định giải quyết cuối cùng không được ban hành quyết
định giải quyết cuối cùng khác để thay thế ,nên trong thực tế việc lợi dụng quyền xem
xét lại các quyết định giải quyết cuối cùng rất có thể vẫn còn xảy ra. Trong thực tế nước
ta hiện nay, đa số các KKHC đều tập trung ở lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai thì
việc xem xét lại các quyết địnhgiải quyết cuối cùng là một vấn đề có ảnh hưởng rất lớn
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi được xác định tại quyết định giải
quyết cuối .
2.3.2.Thực trạng pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính theo pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 sửa đổi bổ sung 1998, 2006.
Ngày 28/10/1995 Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 8 đã
thông qua Luật sưả đổi bổ sung một số điều cuả Luật tổ chức Tòa án (Luật này được
thông qua ngày 06/10/1992 và sưả đổi bổ sung lần đầu ngày 28/12/1993), trong đó thiết
lập Toà hành chính tại Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh bên cạnh
các Tòa hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và trao cho Tòa án nhân dân chức năng xét xử
những vụ án hành chính. Song song đó, ngày 21/5/2006 Ủy ban thường vụ Quốc hội
nước ta cũng thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định về
thẩm quyền và trình tự, thủ tục tố tụng để giải quyết các KKHC tại Tòa án.
Bằng việc trao cho Tòa án nhân dân xét xử các KKHC, pháp luật Việt Nam đã mở ra
một phương thức mới trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính. Lần đầu tiên
trong lịch sử phát triển cuả Nhà nước XHCN Việt Nam pháp luật đã thừa nhận quyền
khởi kiện vụ án hành chính ra trước Tòa án đối với các quyết định hành chính, hành vi
hành chính cuả các cơ quan công quyền.
Chậm mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án trong lĩnh vực khiếu kiện hành chính dẫn
đến nhiều việc Toà án phải từ chối thụ lý. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính 1996 đã ghi nhận Toà án có thẩm quyền giải quyết 8 loại khiếu kiện; sửa đổi, bổ
sung năm 1998 tăng thêm 2 loại khiếu kiện. Sau đó, mãi đến năm 2006 Pháp lệnh này
mới tiếp tục được sửa đổi, bổ sung mở rộng số lượng các khiếu kiện thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án lên 22 loại việc. Tuy nhiên, quy định theo kiểu liệt kê như các Pháp
lệnh trên sẽ bị lạc hậu theo thời gian, thường xuyên bị sửa đổi, bổ sung, điều này không

những ảnh hưởng đến tính ổn định của pháp luật mà còn không đáp ứng được sự phát
triển của điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu của thực tiễn. Thực tế, thời gian qua cho
thấy rất nhiều đơn khởi kiện của người dân trong lĩnh vực này, nhất là những khiếu kiện
hành chính về đất đai đã bị Toà án từ chối thụ lý vì chưa có thẩm quyền xét xử. Luật Tố
tụng hành chính 2010 đã khắc phục hạn chế của các Pháp lệnh trước đây bằng việc quy
định mang tính loại trừ - một phương pháp rất mở và bao quát, bao gồm tất cả các
23



QĐHC, HVHC, chỉ trừ các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các
quyết định, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức
[10]
. Tuy nhiên,
phạm vi loại trừ ở đây cũng nên cần tiếp tục được xem xét bởi lẽ chúng ta đang trong
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà trong một Nhà
nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải là thượng tôn, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức
bao gồm cả các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan
nhà nước đều làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Do đó, các cơ quan tòa án ngoài
việc cần được đảm bảo độc lập với các cơ quan hành chính, thì còn phải có thẩm quyền
quyết định tính đúng sai của tất cả các QĐHC, HVHC và mục tiêu của Luật Tố tụng
hành chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức tại
các cơ quan tòa án. Sở dĩ như vậy là bởi vì, dù là quyết định, hành vi mang tính chất nội
bộ nhưng cũng là quyết định, hành vi hành chính, trong trường hợp quyết định hành
chính đó, hành vi hành chính đó trái pháp luật và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người dân thì không có lý gì mà họ lại không thể khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa, thực tế thời gian qua cho thấy chính
những hành vi tắc trách, “vô cảm” trong hoạt động quản lý, điều hành nội bộ của một số
cơ quan, tổ chức đã dẫn đến thiệt hại của người dân nhưng rất khó quy trách nhiệm để

xem xét bồi thường thiệt hại. Sở dĩ như vậy vì những hành vi đó không được coi là đối
tượng bị khiếu nại nên không quyết định giải quyết khiếu nại; đồng thời do không bị coi
là hành vi có thể khởi kiện hành chính tại Tòa án nên cũng không có bản án, quyết định
của Tòa án. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước, nếu không có quyết định giải quyết khiếu nại hoặc bản án, quyết định của
Tòa án thì không có căn cứ để xác định hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức nhà
nước.
24




CHƯƠNG III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH
Từ thực trạng trên ta cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân cần được sửa đổi cho phù hợp với
tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW, tức là mô hình Toà án được tổ chức theo khu vực chứ
không theo địa hạt hành chính như hiện nay. Mô hình cải cách tổ chức Toà án cũng nên
theo hướng triệt để hơn, tức là Toà án phúc thẩm theo mô hình của Nghị quyết số
49/NQ-TW cũng nên được tổ chức theo khu vực. Căn cứ vào đặc điểm địa lý, tính chất
dân cư và đặc biệt là số vụ việc khiếu nại, khởi kiện sơ thẩm, phúc thẩm để thành lập
các Tòa phúc thẩm khu vực trên cơ sở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp tỉnh hiện
nay. Theo mô hình này, hệ thống tòa án ở nước ta sẽ có sự thay đổi cơ bản về tổ chức,
trong đó các tòa án địa phương sẽ được thay thế bởi Tòa án sơ thẩm khu vực và Tòa án
phúc thẩm khu vực; trong mỗi tòa án khu vực sẽ có một tòa chuyên trách xét xử các vụ
án hành chính. Tuy nhiên, đây là một vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải thực hiện đồng
bộ phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, không thể giải quyết dứt điểm trong một sớm,
một chiều mà cần phải có lộ trình phù hợp trong từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể.
Hai là, tiếp tục mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính, tức là không nên có bất kỳ quyết định hành chính, hành vi

hành chính nào của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước lại
không bị kiểm soát, không bị xem xét bởi Toà án. Tuy nhiên, phạm vi loại trừ ở đây
cũng nên cần tiếp tục được xem xét bởi lẽ chúng ta đang trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà trong một Nhà nước pháp quyền đòi
hỏi pháp luật phải là thượng tôn, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm cả các cơ quan
hành chính nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đều làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật. Do đó, các cơ quan tòa án ngoài việc cần được đảm bảo độc lập
với các cơ quan hành chính, thì còn phải có thẩm quyền quyết định tính đúng sai của tất
cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính và mục tiêu của Luật Tố tụng hành
chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức tại các cơ
quan tòa án. Vì vậy, về lâu dài, thiết nghĩ không nên có bất kỳ quyết định hành chính,
hành vi hành chính nào của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước lại không bị kiểm soát.
Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án cả đối với các quyết định hành chính, hành vi
hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức, còn có ý nghĩa răn đe, đề cao thêm
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động
thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó. Tuy nhiên, việc mở
rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính theo hướng đề
xuất này là một quá trình, cần phải thận trọng, trước mắt trong những năm tới, theo
chúng tôi chỉ nên xem xét làm rõ và đưa các quyết định hành chính, hành vi hành chính
mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức vào đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
25



án. Sở dĩ như vậy bởi vì, dù là quyết định, hành vi mang tính chất nội bộ nhưng cũng là
quyết định, hành vi hành chính, trong trường hợp quyết định hành chính đó, hành vi
hành chính đó trái pháp luật và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân
thì không có lý gì mà người dân lại không thể khởi kiện người hoặc cơ quan thực hiện
hành vi đó ra Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa, thực tế

thời gian qua cho thấy chính những hành vi tắc trách, thiếu trách nhiệm trong hoạt động
quản lý, điều hành nội bộ của một số cơ quan, tổ chức đã dẫn đến thiệt hại của người
dân nhưng rất khó quy trách nhiệm để xem xét bồi thường thiệt hại. Sở dĩ như vậy vì
những hành vi đó không được coi là đối tượng bị khởi kiện hành chính tại Tòa án nên
không có bản án, quyết định của Tòa án. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, những trường hợp như vậy, nếu không có bản
án, quyết định của Tòa án thì không có căn cứ để xác định hành vi trái pháp luật của cán
bộ, công chức nhà nước. Xin đơn cử ví dụ như sau: một người dân nộp đầy đủ hồ sơ và
lệ phí đề nghị cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà ở tại cơ quan quản lý nhà ỏ của quận Đ,
thành phố H. Quá thời hạn giải quyết đã lâu nhưng cơ quan quản lý nhà ở lại “quên”
không xem xét trình Uỷ ban nhân dân quận Đ ký giấy chứng nhận và thông báo cho
người dân đó nộp nghĩa vụ tài chính theo quy định dẫn đến gây thiệt hại cho người dân
đó. Trong trường hợp này, cơ quan quản lý nhà ở là cơ quan chuyên môn giúp cho Ủy
ban nhân dân quân Đ, Ủy ban nhân dân quận Đ mới là nơi có thẩm quyền cấp sổ cho
nên hành vi “quên” không trình của cơ quan quản lý nhà ở là hành vi hành chính mang
tính nội bộ của của Uỷ ban nhân dân quận Đ. Do đó, người người dân chỉ có thể khởi
kiện Ủy ban nhân dan quận Đ, chứ không thể khởi kiện cơ quan quản lý nhà ở của quận
Đ. Tình huống này cho thấy, cơ quan quản lý nhà ở quận Đ đã thực hiện hành vi trái
pháp luật, gây thiệt hại cho người dân nhưng lại không bị khởi kiện ra Toà cho nên chưa
đề cao được trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà ở, bài học kinh nghiệm chắc chắn sẽ
không sâu sắc, ý nghĩa bằng việc chính cơ quan đó bắt buộc phải có đại diện đứng trước
Toà để giải quyết vụ việc. Do vậy, mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án cả đối với
các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức,
còn có ý nghĩa dăn đe, đề cao thêm trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc
quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi
cơ quan, tổ chức đó.
Thứ ba, tiếp tục đơn giản hoá theo hướng loại trừ thủ tục “tiền tố tụng” đối với tất cả
các khiếu kiện hành chính
Pháp luật tố tụng hành chính hiện nay đã cơ bản khắc phục được hầu hết các hạn chế về
khía cạnh điều kiện khởi kiện hành chính tại Toà án, thủ tục “tiền tố tụng” đã được giảm

bớt gần tối đa, đối với hầu hết các vụ án hành chính, thủ tục này không còn là yếu tố bắt
buộc nữa. Tuy nhiên, vẫn còn đối với các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, phải có
quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người dân mới có
thể khởi kiện ra Toà hành chính. Lý giải cho những trường hợp này, nhiều ý kiến cho
rằng, đó là loại việc thuộc lĩnh vực chuyên ngành, có tính chuyên môn sâu phải qua thủ
tục giải quyết khiếu nại tại cơ quan hành chính trước khi khởi kiện ra Toà án. Đây cũng
là điều kiện để đương sự có điều kiện thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình; cơ quan hành chính tự xem xét lại quyết định hành chính đã

×