Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Quan điểm phát triển khoa học mang đầy đủ thành quả lý luận của tiêu chí thời đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.91 KB, 18 trang )

Quan điểm phát tri ển khoa học mang đ ầy đủ thành qu ả lý luận của tiêu
chí thời đại

Trong khi kiên trì con đư ờng xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc
Trung Qu ốc, Đảng Cộng sản Trung Qu ốc đã sáng tạo nên quan điểm
phát triển mới – quan điểm phát tri ển khoa học. Quan đi ểm phát triển
khoa học chứa đựng nội hàm phong phú và sâu s ắc: lấy dân làm gốc,
phát triển tồn di ện, hài hồ và lâu dài. Nó xoay quanh ch ủ đề cơ bản –
phát triển, trả lời cho những vấn đề lý luận và th ực tiễn quan trọng: tại
sao phải phát triển và phát triển như thế nào. Theo đó, quan đi ểm phát
triển khoa h ọc lấy dân làm gốc là bước tiến trọng đại của lý luận phát
triển, là thành quả lý luận mang tính đặc trưng của thời đại.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên th ế giới đều đang tự suy xét l ại hành
trình trước đây và ho ạch định chiến lược phát triển cho mình; nhưng đ ằng
sau mỗi một chiến lược phát tri ển, ln có nh ững lý luận khác nhau về phát
triển để làm điểm tựa.
Hiện nay, khi nhân dân Trung Qu ốc đang trên con đường xây dựng xã hội
chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc để đưa ra một mốc phát triển lịch sử
nhanh hơn và tốt hơn, Trung ương Đ ảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra chủ
trương phải kiên trì việc lấy dân làm gốc; xây dựng quan điểm phát tri ển
toàn diện, hài hoà, liên t ục; xúc tiến việc phát triển toàn di ện kinh tế, xã
hội và con người. Đồng thời, nhấn mạnh việc quy hoạch phát triển thành thị
và nông thôn, quy ho ạch phát tri ển vùng, phát triển kinh tế và xã hội, phát
triển hài hoà gi ữa con người với thiên nhiên, gi ữa nhu cầu phát tri ển trong
nước với mở cửa; từ đó, thúc đẩy tiến trình cải cách và phát tri ển đất nước.
Quan điểm phát triển khoa học này là s ự tổng kết sâu sắc kinh nghi ệm thực
tiễn qua công cuộc cải cách mở cửa và hiện đại hoá đất nước của Trung
Quốc trong 25 năm qua, là hi ện thực minh chứng sự tồn tại vững chắc của
Đảng Cộng sản Trung Quốc, là sản phẩm của tinh thần hiện thực, học hỏi
thế giới, quan sát th ế giới đương đại và những vấn đề phát triển của Trung
Quốc bằng tầm nhìn thời đại và góc nhìn rộng mở, là thành qu ả lý luận


quan trọng phản ánh và đáp ứng những yêu cầu thực sự phát triển thực tiễn


hiện thực của Trung Quốc. Quan đi ểm phát tri ển khoa học này có nội hàm
phong phú và sâu s ắc, vừa có tính hướng ra hiện thực mạnh mẽ, vừa có tính
khái qt cao, đ ộ bao trùm rộng, thích ứng cao độ trong mọi lĩnh vực, mọi
phương diện của đời sống xã hội Trung Quốc. Xây dựng và thực hiện quan
điểm phát tri ển khoa học này có ý nghĩa l ớn lao và sâu sắc đối với việc
thực hiện mục tiêu chiến lược đã đặt ra và đối với tương lai phát tri ển của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu s ắc Trung Quốc.
1. Sự phản tư lại chặng đường phát tri ển xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc
và sự tổng kết kinh nghi ệm mới, kể từ khi thực hiện cải cách mở cửa đến
nay, chính là cơ s ở hiện thực lý giải đúng đắn cho quan đi ểm phát triển
khoa học của Trung Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển của Trung Quốc đương
đại không thể tách rời sự phát triển của thế giới. Vì vậy, xem xét thêm m ối
liên hệ giữa sự phát triển của thế giới với tiến trình lịch sử của lý luận phát
triển đương đại là một cơng việc có ý nghĩa.
Nhìn chung, các nước trên thế giới sau Đại chiến thế giới II đều có một con
đường phát tri ển riêng của mình. Các nước tư bản phương Tây mong mu ốn
phát triển, các quốc gia giành được độc lập sau thế chiến chưa phát tri ển
đang mưu cầu phát triển, các quốc gia đi theo con đư ờng xã hội chủ nghĩa
cũng khơng ngừng tìm tịi con đường phát tri ển cho chính mình. Cho dù ch ế
độ xã hội khơng giống nhau, tình hình của mỗi nước cũng khác nhau, nhưng
vấn đề phát triển và làm thế nào để phát triển dường như đã tr ở thành vấn
đề chung đặt ra trước tất cả các nước.
Sau khi Đại chiến thế giới II kết thúc, để thích ứng với địi hỏi xây dựng
lại, phục hồi và phát tri ển sau chi ến tranh của các quốc gia và khu vực trên
thế giới, các lý luận nghiên cứu phát tri ển cũng từ đó ra đời. Thuật ngữ
“phát triển” trở thành chủ đề nóng thu hút sự quan tâm của nhiều ngành
khoa học. Chỉ xét riêng v ề trường phái lý luận, đã có các trường phái phát

triển thuần lý tính, trường phái tâm lý học, trường phái truy ền thống,
trường phái xã hội học, v.v.. Các ngành m ới phát triển lại càng t ầng tầng
lớp lớp, ví dụ kinh tế học phát tri ển, chính trị học phát tri ển, xã hội học
phát triển, chiến lược học phát triển, đạo đức học phát tri ển, mỹ học phát
triển và lý luận phát tri ển tương lai học, v.v.. Các môn học khác nhau này,


mặc dù có chuyên ngành ngh iên cứu và điểm chú trọng khơng giống nhau,
nhưng góc nhìn của chúng thì l ại là một - đều tập trung ở “phát tri ển”.
Trong các môn h ọc phát tri ển và lý luận phát tri ển này, tiêu bi ểu là Lý luận
giai đoạn phát tri ển kinh tế của Rostovian, Lý luận thúc đẩy mạnh mẽ tăng
trưởng bình quân của Barry Rosenstein và Lý luận nhu cầu cơ bản, Lý luận
tăng trưởng công bằng. Trong lý lu ận phát tri ển của tương lai học và kinh
tế học có Lý luận tăng trư ởng kinh tế ở giai đoạn đầu sau chi ến tranh, Lý
luận tăng trư ởng có giới hạn của Câu lạc bộ Roma, Lý luận quá độ của
Oliver và Lý luận chuyển đổi quyền lực của Alvin Toffler,… Nói tóm l ại,
nghiên cứu về lý luận phát tri ển đã thể hiện rất nhiều mặt phức tạp. Nhưng,
chúng ta vẫn có thể dựa vào quỹ đạo phát tri ển của lịch sử để từ đó, nhận ra
bối cảnh phát tri ển chung của lý luận phát tri ển đương đại.
Nói một cách khái quát, n ếu xét từ những dấu hiệu cơ bản của lý luận phát
triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh thì v ề tổng thể, nó trải qua các q
trình tiến hố của lịch sử, như đi từ “lý luận tăng trưởng kinh t ế” đến “lý
luận tăng trưởng có giới hạn”, rồi lần lượt đến “quan điểm phát tri ển tổng
hợp”, “lý luận phát triển liên tục” và tồn tại song song với “quan đi ểm phát
triển lấy con người làm trung tâm”.
Trước tiên, ta hãy bàn v ề “lý luận tăng trưởng kinh t ế”. Quan điểm này
xuất hiện sớm nhất trong lý luận phát triển, ngay t ừ giai đoạn khởi đầu của
sự phát triển kinh t ế, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến rất nhiều quốc gia.
Phát triển học bắt đầu từ sự phát triển kinh t ế; tuy nhi ên, khởi đầu của sự
phát triển kinh tế thực chất là “kinh t ế học tăng trưởng”. Sau chi ến tranh,

các nhà kinh t ế học phương Tây coi tr ọng lý luận tăng trưởng kinh t ế, hòng
thúc đẩy nền kinh t ế phát triển, đã đưa ra một số mơ hình tăng trư ởng kinh
tế. Nhưng lúc đó giới học thuật nói chung vẫn chưa phân bi ệt rạch ròi hai
khái niệm “phát tri ển” và “tăng trư ởng”. Trên thực tế, đa số các học giả
cho rằng, phát tri ển = tăng trưởng. Chiến lược phát tri ển dưới sự chỉ đạo
của lý luận phát tri ển này là lấy sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội làm
mục tiêu. Quan đi ểm này đã đưa tiêu chu ẩn tăng trưởng kinh t ế thành tiêu
chuẩn tuyệt đối duy nhất của phát triển, đơn giản coi phát tri ển kinh tế
giống như tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh t ế được coi là một từ đồng
nghĩa với phát tri ển. Biểu hiện cụ thể của nó là việc chỉ hồn tồn ch ạy


theo tổng sản phẩm quốc dân. Quan điểm “phát tri ển = tăng trưởng” này tuy
có thể thúc đẩy sự tăng trưởng kinh t ế, nhưng lại đưa đến nhiều vấn đề trên
các mặt kinh tế và xã hội, gây hậu quả nghiêm trọng về “tăng trưởng khơng
có phát tri ển” hoặc “chỉ có tăng trưởng khơng có phát tri ển”. Điều này
khiến người ta nghi ngờ về lý luận và chi ến lược phát tri ển.
Cùng với sự xoay chuyển của thời gian, nhận thức về mối quan hệ lẫn nhau
giữa tăng trưởng và phát triển cũng ngày một sâu sắc hơn. Sau th ập niên 60
của thế kỷ XX, sự kiến giải về phát triển không thể tách rời tăng trưởng,
nhưng “tăng trưởng không tương đương v ới phát triển” đã đạt được nhận
thức chung ở phạm vi ngày một rộng hơn. Giới học thuật quốc tế dường
như đều thống nhất cho rằng, không th ể đơn giản quy kết phát tri ển thành
tăng trưởng kinh t ế, mà cần phân bi ệt rõ hơn hai khái ni ệm tăng trưởng và
phát triển. Thực tế cho thấy, hàm ý của tăng trưởng kinh t ế rất hẹp, thường
chỉ sự tăng trưởng sản xuất với ý nghĩa thuần tuý. Cịn hàm ý c ủa phát
triển tương đối rộng, ngồi sự tăng trưởng về số lượng sản xuất, còn bao
gồm sự biến đổi của cơ cấu kinh tế và một số chế độ khác; không chỉ là sự
tăng trưởng kinh t ế, mà còn bao gồm sự cải thiện về tình hình xã hội và sự
tiến bộ về thể chế… Hơn nữa, nếu như chỉ đơn thuần chạy theo sự tăng

trưởng mà không chú ý t ới các nhân t ố liên quan kìm hãm s ự tăng trưởng,
thì chắc chắn đến một lúc nào đó, b ản thân sự tăng trưởng sẽ khó có thể
được duy trì liên t ục.
Một quan niệm khác về lý luận phát triển nữa là Lý luận tăng trưởng có
giới hạn của Câu lạc bộ Roma. Năm 1972, được sự uỷ thác của Câu lạc bộ
Roma, Học viện kỹ thuật Massachusetts c ủa Mỹ đã trình bày b ản báo cáo về
“có giới hạn của tăng trưởng”. Luận điểm trung tâm của lý luận tăng trưởng
có giới hạn là: sự tăng trưởng về dân số, sự gia tăng về đầu tư, sự ô nhiễm
của môi trường, sự cạn kiệt về tài nguyên… đ ều có tính ch ất của chỉ số
tăng trưởng, nghĩa là, tr ải qua một thời gian, chỉ số này sẽ gia tăng g ấp đơi.
Nếu cứ tiếp tục duy trì xu hướng này, sự tăng trưởng kinh t ế trên hành tinh
của chúng ta s ẽ đạt tới cực đại tại một thời kỳ nào đó trong vịng 100 năm
nữa. Nguyên nhân nằm ở một thực tế đơn giản - Trái đất là có hạn, khơng
gian có hạn, tài ngun có h ạn, khả năng chịu ơ nhiễm của Trái đất cũng rất
có hạn. Tác giả vẽ ra một tình cảnh tương lai đáng s ợ: do thiếu lương thực


gây ra nạn đói và ch ết chóc, nguồn tài nguyên thiên nhiên không th ể tái
sinh ngày một cạn kiệt, mơi trường nhanh chóng bị biến đổi xấu đi. Do đó,
vấn đề sinh tồn của tồn nhân lo ại bị đe doạ, ngày tận thế của thế giới sẽ
đến. Tác phẩm Giới hạn của tăng trư ởng vừa mới xuất bản đã ngay l ập tức
tạo lên một trào lưu mạnh mẽ trong giới tư tưởng trên toàn th ế giới. Rất
nhiều người đã coi tác p hẩm này là đại diện cho chủ nghĩa bi quan, th ậm
chí có người cịn cho rằng quyển sách này đã ph ản ánh tâm trạng tuyệt vọng
về tương lai của giai cấp tư sản; cũng có một số người chỉ ra điểm chưa đầy
đủ về mặt kỹ thuật tồn tại trong quyển sách này, như khuy ết điểm của mô
thức sử dụng, coi nh ẹ vai trò của tiến bộ khoa học kỹ thuật… Nhưng mấy
năm gần đây, ngày càng có nhi ều ý kiến cho rằng, ngày nay v ới sự bùng nổ
dân số, nguồn tài nguyên đang nhanh chóng b ị cạn kiệt, môi trường sinh
thái bị phá vỡ nghiêm trọng. Nhóm nghiên c ứu của Meadows Earle đã góp

phần làm thay đổi nhận thức cũ của con người, đưa ra v ấn đề từng bị coi
nhẹ trong suốt một thời gian dài để mổ xẻ nó, gióng lên hồi chuông th ức
tỉnh thế giới và con người.
Một nguyên nhân quan trọng khiến Câu lạc bộ Roma có thái đ ộ bi quan
trước sự phát triển của thế giới là họ đã xem nhẹ vai trò năng động, tự
quyết định vận mệnh chính bản thân mình của nhân loại và những ảnh
hưởng tích cực tiềm tàng của tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Một học giả Pháp
đã từng chỉ ra rằng, một loạt “mơ thức tồn thế giới” do Câu l ạc bộ Roma
chế định hạn chế bởi điểm xuất phát ở mối quan hệ tương hỗ giữa “tăng
trưởng - tài nguyên - môi trường”, coi nhân tố và mối quan hệ quan trọng
của các kết cấu con người - xã hội, con người - văn hoá, giá trị, thể chế
nằm ngoài phạm vi nghiên cứu. Như vậy, lập luận của họ không làm cho
con người thoả mãn. Cách phê phán này, có th ể nói, ít nhiều chứa đựng sự
đánh giá đúng đắn.
Phát triển ngày càng trở thành một vấn đề nổi bật, thúc đẩy con người thực
hiện những nghiên cứu khoa học có liên quan. Nhi ều nhà khoa h ọc đã
không ngừng làm phong phú thêm quan ni ệm về phát triển; kết quả là, một
quan niệm mới về phát triển ra đời và được ứng dụng - quan điểm phát tri ển
tổng hợp. Quan đi ểm phát tri ển mới của F.Perroux được coi là tác phẩm đại
diện cho quan đi ểm phát triển tổng hợp. Quan điểm phát triển này cho rằng,


phát triển phải là sự phát triển mang tính chỉnh thể và tổng hợp. Perroux
chú trọng mối quan hệ giữa con người với con người, con người với môi
trường, con người với tổ chức; nhấn mạnh sự phát triển tổng hợp bao gồm
các phương di ện tăng trưởng kinh t ế, dân chủ chính trị, chuyển đổi mơ hình
xã hội, thay đổi văn hố, điều hồ tự nhiên, cân b ằng sinh thái.
Trong lời tựa cuốn Quan điểm phát tri ển mới, F.Perroux vi ết: “Từ thời đại
Plato đến nay, con người đã ý thức được rằng, tư tưởng được nảy sinh từ
mâu thuẫn, mà quan niệm phát tri ển này lại hoàn toàn t ạo nên một sự thực

tự mâu thuẫn quan trọng của thời đại chúng ta: hướng tới sự tiến bộ nhưng
cần phải suy nghĩ v ề hậu quả của nó… Đó là cách nhìn nh ận đối với vấn đề
phát triển, đồng thời là chìa khố lý gi ải hiện thực và thời đại hiện
thực”(1). Quan đi ểm về nhân tố ảnh hưởng phát tri ển các mặt cần phải được
tập trung khảo sát và đi ều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát
triển của hiện thực. Quan điểm phát tri ển mới của F.Perroux là m ột tác
phẩm quan trọng, đặt vấn đề phát triển dựa trên lý lu ận triết học sâu sắc.
Ơng cho rằng, “phát tri ển mới” chính là s ự phát triển phục vụ lợi ích của
tồn thể nhân loại và tất cả mọi người, cũng chính là để thúc đẩy sự phát
triển của toàn nhân loại và tự thân của tất cả mọi người. Giá trị văn hố
đóng vai trị vơ cùng quan tr ọng trong sự phát triển. Trong chi ến lược phát
triển, quan đi ểm phát tri ển mới nhấn mạnh chiến lược phát tri ển chỉnh thể,
tổng hợp và phát huy sức mạnh nội lực: cái gọi là chỉnh thể chỉ mô thức
phát triển nhất thiết phải dựa trên một quan ni ệm hoàn chỉnh, vừa phải xét
tới các phương di ện tạo thành xã h ội - con người chỉnh thể, vừa phải nhìn
nhận tính đa dạng xuất hiện trong m ối quan hệ tồn tại phụ thuộc lẫn nhau
của con người; tổng hợp chỉ sự điều hoà thống nhất của các ngành, lĩnh
vực; phát huy nội lực chỉ việc sử dụng đầy đủ và chính xác lực lượng và
nguồn tài nguyên của quốc gia mình đ ể thúc đẩy phát tri ển(2). Perroux cịn
cho rằng, “phát tri ển mới” khơng phải và cũng khơng thể là mơ hình các
nước phát tri ển phương Tây đã đưa ra; r ằng, để thực hiện phát tri ển mới,
cần phải thay đổi trật tự kinh tế quốc tế bất bình đẳng, khơng hợp lý hiện
đang tồn tại. Chiến lược phát triển mới nhằm thay đổi tình trạng liên hệ
khơng mật thiết giữa các hệ thống, nhấn mạnh các mặt phụ của phát tri ển
luôn tồn tại và liên h ệ chặt chẽ với nhau.


Dễ dàng nhận thấy rằng, điểm cơ bản nhất trong quan đi ểm phát tri ển của
F.Perroux là coi trọng tính đa t ầng bậc và tính tồn di ện của mối liên hệ.
Có thể nói, tìm câu trả lời cho vấn đề làm thế nào để phát triển cũng khơng

ngừng phát tri ển. “Có th ể phát triển liên t ục” là một bước tiến quan trọng
trong quan niệm về phát triển, đồng thời là một trong những tiêu chí quan
trọng của văn minh nhân lo ại khi bước vào thời kỳ lịch sử mới. Khái ni ệm
“có thể phát triển liên tục” được đưa ra vào th ập niên 80 của thế kỷ XX và
người ta đã tập trung th ảo luận nội dung và ý nghĩa của quan niệm “có thể
phát triển liên tục”. Các nước đang phát triển và những nước phát tri ển đã
thực hiện một loạt đối thoại và biện luận; cuối cùng, vào tháng 5 năm 1989,
trong kỳ họp thứ 15 của Uỷ ban Môi trường Liên hợp quốc đã đạt được sự
đồng thuận. Khái niệm “có thể phát triển liên tục” chỉ sự phát tri ển vừa có
thể thoả mãn nhu cầu đương đại, vừa không làm giảm khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai. M ột đặc điểm quan trọng của quan niệm
phát triển này là rất quan tâm và ln tính đ ến mối quan hệ giữa các thế hệ
hiện tại và thế hệ tương lai, đi ều này rất ít hoặc chưa từng được đề cập một
cách có hệ thống trong lý lu ận về phát tri ển trước đây.
Vấn đề quan trọng khác cần bàn là quan điểm phát tri ển lấy con người làm
trung tâm. Vấn đề vị trí của con người trong phát tri ển đã được rất nhiều
nhà nghiên cứu về lý luận phát tri ển đề cập đến. Tuy nhi ên, chỉ trong
nghiên cứu phát tri ển đương đại, quan ni ệm coi con người là trung tâm mới
thực sự được quan tâm với mức độ cao hơn, b ắt đầu từ tháng 3 năm 1995
tại Hội nghị cấp cao về phát triển thế giới được tổ chức tại Copenhagen.
Trong “Tuyên ngôn” và “Cư ơng lĩnh hành động” được Hội nghị này thông
qua đã khẳng định: “Phát tri ển xã hội là nhu cầu và nguyện vọng cơ bản
của nhân dân các nư ớc trên toàn thế giới, cũng là nhi ệm vụ trung tâm của
chính phủ các nước, các ban ngành xã h ội”. Phát triển xã hội “lấy con
người làm trung tâm”, “m ục tiêu cuối cùng của phát tri ển xã hội là cải
thiện và nâng cao ch ất lượng cuộc sống”, “sự phát triển xã hội khơng thể
tách rời các nhân t ố văn hố, sinh thái, kinh t ế, chính trị và mơi trường tinh
thần nảy sinh theo nó”. D ễ nhận thấy rằng, trong các quan đi ểm lấy con
người làm trung tâm phát tri ển, cho dù có r ất nhiều ý kiến trái ngược, lý



giải về “con người” khơng hồn tồn th ống nhất, nhưng đi ểm tương đ ồng ở
đây là nêu b ật vị trí chủ thể của con người.
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy, các lý luận và quan ni ệm về phát
triển đều không chỉ liên hệ với điều kiện lịch sử ở mỗi giai đo ạn riêng, mà
cịn có liên h ệ với bối cảnh đặc biệt của mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau.
Từ Lý luận tăng trưởng kinh tế đến Lý luận tăng trưởng có giới hạn, từ Lý
luận phát tri ển tổng hợp đến Lý luận có thể phát triển liên tục và Quan
điểm phát tri ển lấy con người làm trung tâm, về tổng thể đã phản ánh tiến
trình phát triển lịch sử đã qua của nhân loại, phản ánh trình đ ộ nhận thức
của con người đối với các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển và mối quan hệ
tương hỗ của nó trong các đi ều kiện khơng giống nhau. Nhưng, lý lu ận phát
triển không giống nhau trong mối quan hệ của tiến trình lịch sử, đồng thời
cũng khơng phải là mối quan hệ một sai một đúng, mà l à đồng thời tồn tại
tính liên tục, tính h ỗ trợ bổ sung trong tính ti ến bộ và tính gián đo ạn của
lịch sử. Tiếp thu l ẫn nhau và tác động biện chứng là một đặc trưng quan
trọng của lý luận phát tri ển trong quá trình phát tri ển.
Mặt khác, một lý luận phát tri ển được xác lập, mở rộng và vận dụng cần
phải chuyển biến theo đi ều kiện cụ thể của mỗi quốc gia cụ thể. Đặc điểm
cơ bản này là chân lý không th ể thay đổi của quan điểm phát triển triết học
theo phương pháp bi ện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khơng nắm được
thành quả tích cực của con người đã đạt được trong ti ến trình sáng t ạo văn
minh thế giới, đó là t ự mình chui vào vỏ ốc, khơng nghe khơng th ấy những
gì đã, đang di ễn ra; không bi ết được tiến trình cụ thể trong quá trình phát
triển đất nước của quốc gia mình, thì sẽ khơng thực sự nắm được các vấn
đề căn bản, như làm thế nào để phát triển, làm thế nào để phát tri ển như
vậy.
2. Việc lý giải chặng đường phát tri ển của Trung Quốc và nhu cầu phát
triển thực tiễn là cơ sở quan trọng, vững chắc để thiết lập quan điểm phát
triển khoa học.

Trên con đường xã hội chủ nghĩa, nhân dân Trung Qu ốc từng có những năm
tháng ca khúc khải hồn, cũng t ừng có giai đo ạn chao đảo, thậm chí chịu
sức ép nặng nề. Thành cơng và thất bại, phát tri ển và trì trệ, kinh nghi ệm


chính diện và kinh nghi ệm phản diện… đều xảy ra trong một quá trình lịch
sử, đều là hiện tượng phát sinh cùng với hành trình lịch sử của nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển thăng trầm của quốc gia xã hội chủ nghĩa
cho thấy, mỗi quốc gia hoặc mỗi dân tộc sau khi đi theo con đư ờng xã hội
chủ nghĩa đều phải đối mặt với vấn đề lựa chọn mơ hình phát tri ển xã hội
chủ nghĩa, đối mặt với nhiệm vụ nặng nề là kết hợp chân lý ph ổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tế cụ thể của nước mình cũng như đối mặt
với vấn đề mở ra con đường hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã h ội của nước
mình dựa trên sự tìm tịi, nghiên cứu và sáng t ạo trong sự “kết hợp” này.
Trong thập niên đầu tiên của nhà nước cộng hoà nhân dân, Trung Qu ốc đã
đạt được những thành tựu huy hoàng trên các m ặt phục hồi và phát tri ển
sản xuất, cải cách xã hội và quản lý xã hội, thúc đẩy sự phát triển của các
ngành nghề và kinh t ế quốc dân; nhân dân vô cùng ph ấn khởi, vui m ừng
trước những thành t ựu đã đạt được và Trung Quốc tiếp tục phấn đấu trên
con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, làm th ế nào để một quốc gia rộng
lớn và đông dân ở phương Đông vốn có trình đ ộ kinh tế thấp kém, văn hố
lạc hậu,… xây dựng thành công ch ủ nghĩa xã hội và tiếp tục phát tri ển,…
vẫn là một vấn đề hồn tồn m ới. Do mức độ khó khăn, phức tạp của vấn đề
này cũng như chưa t ừng có tiền lệ để học hỏi, do q trình tìm tịi nghiên
cứu ban đầu gặp nhiều gian khổ, việc xây dựng xã hội mới vẫn chưa thành
cơng và thậm chí, có lúc còn nh ận thức sai về chủ nghĩa xã hội, chưa “tỉnh
táo” để nhận thức được chủ nghĩa xã hội là gì. Vi ệc theo đuổi “nhất đại nhị
cơng”(một là phát tri ển quy mô lớn, hai là công hữu hoá cao độ – ND)
khiến xã hội mất đi cơ sở sức sản xuất mà nó vốn có thể nắm bắt được,
cũng như vi ệc lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh đã gây sai lầm mang

tính tồn diện. Như vậy, vấn đề phát tri ển liên tục trong ti ến trình lịch sử
của Trung Quốc khơng những chưa được giải quyết, mà còn phải trả giá đắt
bằng sự ngưng trệ khơng có ti ến triển của đất nước trong suốt hơn 20 năm.
Đồng chí Đặng Tiểu Bình nói: “Kinh nghi ệm 20 năm, k ể từ năm 1958 đ ến
1978, đã cho chúng ta th ấy: nghèo đói khơng ph ải là chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa xã hội phải xố bỏ được đói nghèo. Khơng phát tri ển năng l ực sản
xuất, không nâng cao đ ời sống cho nhân dân, thì khơng th ể nói là phù hợp
với yêu cầu của chủ nghĩa xã hội”(3).


Tiêu chuẩn thực tiễn, tiêu chuẩn sức sản xuất, ba điều có lợi cho tiêu chuẩn
đều hội tụ trong tư duy sâu s ắc của đồng chí Đặng Tiểu Bình về vấn đề phát
triển, xuyên suốt sự quan tâm sâu s ắc đối với phát tri ển sức sản xuất và cải
thiện đời sống cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Đặng Tiểu
Bình, tồn Đảng và tồn th ể nhân dân Trung Quốc đã thoát kh ỏi những khó
khăn do 10 năm b ạo động gây ra. Bước sang thời kỳ mới của phát tri ển xã
hội, vấn đề phát tri ển ln chiếm một vị trí vơ cùng quan trọng. Ơng nói,
phát triển mới là chủ đạo, nghèo đói khơng ph ải là chủ nghĩa xã h ội, phát
triển quá chậm cũng không phải là chủ nghĩa xã hội, phát tri ển là cơ sở để
giải quyết tất cả các vấn đề; trước hết, phải phát tri ển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế. Nếu không cải cách, không phát tri ển lực lượng sản xuất,
khơng cải thiện đời sống cho nhân dân thì ch ủ nghĩa xã hội khơng có lối
thốt, đó chỉ là con đường chết mà thôi. Con đường xã hội chủ nghĩa mang
màu sắc Trung Quốc mà Đặng Tiểu Bình đã tìm ra, lý lu ận Đặng Tiểu Bình
mà ơng đưa ra đã cơ b ản giải quyết được vấn đề phát triển của chủ nghĩa xã
hội ở Trung Quốc. Trong đi ều kiện hiện nay, Trung Qu ốc phải làm thế nào
để xây dựng và phát tri ển chủ nghĩa xã hội; động lực, con đường và điều
kiện phát triển như thế nào?… Đó là nh ững nội dung quan trọng cấu thành
lý luận Đặng Tiểu Bình. Chi ến lược phát triển chia thành “ba bước đi”
không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của chiến lược phát tri ển, mà

cịn đề cập tới khả năng có thể phát triển liên tục. Năm 1985, sau khi nghe
báo cáo, ông đã chỉ ra rằng, “ý nghĩa của cải cách chính là đ ặt nền móng
phát triển tốt đẹp liên tục cho 10 năm sau và 50 năm c ủa thế kỷ tiếp theo.
Khơng có cải cách thì sẽ khơng có s ự phát tri ển liên tục ngày nay và mai
sau. Cho nên, cải cách khơng ph ải là nhìn vào 3 ho ặc 5 năm sau, mà ph ải
nhìn vào 20 năm sau, ph ải nhìn vào 50 năm đ ầu của thế kỷ sau. Đi ều này
phải được tiếp tục duy trì”(4). Năm 1989, Đ ặng Tiểu Bình “kiến nghị tổ
chức một lớp nghiên cứu chiến lược phát triển và quy hoạch cho 50 năm
đầu của thế kỷ sau”(5).
Khơng phải ngẫu nhiên mà đồng chí Đặng Tiểu Bình đã nhấn mạnh việc
nghiên cứu “chiến lược phát tri ển” đó, nhấn mạnh việc xây dựng cơ sở
“phát triển liên tục” tốt đẹp cho 50 năm đ ầu của thế kỷ sau, nhấn mạnh ý
nghĩa của cải cách đối với “phát tri ển liên tục”. Điều này hội tụ khả năng


tư duy và suy nghĩ sâu xa v ề những kinh nghi ệm của ông đối với lịch sử
phát triển chủ nghĩa xã hội của Trung Qu ốc, đối với việc quan sát và vận
dụng kinh nghiệm của các nước, nắm vững quan đi ểm thời đại và dự kiến
khoa học đối với xu thế phát triển, tương lai phát tri ển.
“Phát triển mới là chủ đạo!” không ph ải là khẩu hiệu đơn giản, cũng không
phải là từ ngữ thông dụng trong đời sống hàng ngày. Đi ều mà Đặng Tiểu
Bình muốn biểu đạt là tư tưởng chiến lược quan trọng vừa hội tụ những
kinh nghiệm lịch sử, vừa liên quan tới sự phát triển lâu dài và toàn di ện. Từ
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu: phát triển là chủ đạo đến nắm chính quy ền
và xây dựng đất nước, đến sự ra đời của quan điểm phát tri ển khoa học đã
thể hiện bước đi vững chắc, nỗ lực không ng ừng trên con đư ờng xây dựng
chủ nghĩa xã hội mang màu s ắc Trung Quốc của nhân dân Trung Qu ốc, thể
hiện sự quan tâm sâu sắc và nhất quán của Trung ương Đ ảng Cộng sản
Trung Quốc đối với vấn đề phát triển. Nhờ đó, Trung Qu ốc đã đạt được sự
phát triển to lớn chưa t ừng có trước đây. Trong 25 năm qua, t ốc độ tăng

trưởng GDP của Trung Quốc liên tục được duy trì ở mức 9,3%; năm 2003,
bình quân đầu người đã tăng lên ngưỡng quan trọng là 1000 USD, Trung
Quốc đã thực hiện được mục tiêu chi ến lược dự tính bước 2. Sản xuất phát
triển, tiềm lực tổng hợp của đất nước tăng lên, v ề tổng thể đời sống của
nhân dân đã đạt mức trung bình.
Để phát triển nhanh hơn nữa, cần phải giải quyết các vấn đề cản trở sự phát
triển. Trong Báo cáo công tác c ủa chính phủ, Thủ tướng Ơn Gia B ảo đã liệt
kê những khó khăn do sự tích tụ những mâu thu ẫn của nhiều năm qua, bao
gồm vấn đề tăng thu nhập cho nơng dân cịn ch ậm chạp, nhiệm vụ bảo đảm
xã hội và vấn đề việc làm còn nặng nề, sự phát triển giữa các vùng không
đồng đều, thu nhập của một bộ phận người dân còn chênh l ệch quá lớn, áp
lực nguồn tài nguyên và môi trư ờng không ng ừng tăng… cộng với một số
mâu thuẫn mới do sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế đem lại, bao gồm
đầu tư mù quáng, xây d ựng mới ở trình độ thấp, mối quan hệ cung cầu giữa
nguồn năng lượng, giao thông và m ột phần nguyên vật liệu căng th ẳng,
chiếm dụng đất canh tác b ất hợp pháp, s ự phát triển của sự nghiệp xã hội
còn chậm chạp, đời sống của cư dân vùng nơng thơn có thu nh ập thấp cịn
nhiều khó khăn…


Trong thực tiễn hố giải các vấn đề khó khăn, có cái dựa vào sự điều chỉnh
bố cục chiến lược, vào sự quán triệt và thực tế của một loạt phương châm,
chính sách tương ứng. Nhưng vi ệc đề xuất quan đi ểm phát tri ển khoa học
lấy con người làm gốc trong Hội nghị toàn thể lần thứ 3 kỳ họp 16 của
Đảng Cộng sản Trung Quốc lại đưa ra cơ sở lý luận quan trọng xuất phát từ
quan điểm lý luận cơ bản của phát tri ển. Quan điểm phát triển khoa học lấy
dân làm gốc, toàn diện, hài hoà, lâu dài này l ấy “phát tri ển” làm chủ đề, trả
lời cho một loạt vấn đề cơ bản: tại sao phải phát tri ển và phát tri ển như thế
nào. “Lấy dân làm g ốc” chính là ph ải lấy việc thực hiện phát triển toàn
diện con người làm mục tiêu; phải xuất phát từ lợi ích căn b ản của quần

chúng nhân dân để mưu cầu phát tri ển, thúc đẩy phát tri ển; không ng ừng
thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày một cao của quần chúng nhân
dân; thực sự bảo đảm quyền lợi kinh tế, chính trị, và văn hố cho qu ần
chúng nhân dân, đưa những thành qu ả phát tri ển đến với toàn thể người
dân. “Phát tri ển toàn di ện” phải lấy việc xây dựng kinh t ế làm trung tâm,
thúc đẩy việc xây dựng kinh tế, chính trị, văn hố một cách tồn di ện, thực
hiện phát triển kinh t ế và tiến bộ xã hội. “Phát triển hài hồ” chính là ph ải
thống nhất trù hoạch sự phát triển của thành th ị và nông thôn, phát tri ển
của khu vực, phát tri ển kinh tế - xã hội, phát tri ển hài hoà gi ữa con người
và thiên nhiên, phát tri ển trong nước và mở cửa đối ngoại, tăng cường sự
phù hợp trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, sự
phối hợp nhịp nhàng giữa cơ sở kinh tế và thượng tầng kiến trúc, thúc đẩy
sự phối hợp nhịp nhàng gi ữa các mặt, các khâu của việc xây dựng kinh tế,
chính trị và văn hố. “Có th ể phát triển lâu dài” chính là ph ải thúc đẩy sự
hài hoà giữa con người và tự nhiên, phối hợp nhịp nhàng giữa sự phát triển
kinh tế với vấn đề dân số, tài nguyên và môi trư ờng, kiên trì đi theo con
đường phát tri ển văn minh với sự phát tri ển của lực lượng sản xuất, cuộc
sống giàu có và mơi trư ờng sinh thái trong lành, b ảo đảm liên tục phát tri ển
từ thế hệ này sang th ế hệ khác.
Có thể thấy rằng, quan đi ểm phát triển khoa học này chứa đựng nội hàm
phong phú và sâu s ắc. Những vấn đề được đề cập trong đó cũng khơng ph ải
là chưa từng được đề cập trước đây, ví d ụ mối quan hệ giữa thành thị và
nông thôn, mối quan hệ giữa các vùng khác nhau, m ối quan hệ giữa phát


triển sản xuất và cải thiện đời sống cho người dân, mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên… Nhưng, thứ nhất, những vấn đề này trước đây khi đề
cập, đa phần được nói trên chính sách c ụ thể; thứ hai, khái ni ệm “quan hệ”
giống như trong thực tiễn phát triển, nhưng nội hàm của nó khơng hồn
tồn giống với trước đây. Nội hàm của các mối quan hệ được đề cập trong

quan niệm phát triển khoa học là mối quan hệ mật thiết trong thực tiễn phát
triển của Trung Quốc khoảng 12 năm trở lại đây, là lấy vấn đề hiện thực
được đề cập trong th ực tiễn phát tri ển làm cơ sở. Thực tiễn của hiện thực
cải cách mà nhân dân Trung Qu ốc đang theo đu ổi là quan đi ểm phát tri ển
khoa học này, với cơ sở hiện thực nhất, trực tiếp nhất của sản xuất. Vì vậy,
chúng ta càng n ắm bắt nó dưới góc độ thống nhất nội tại quan ni ệm lý luận
phát triển và thực tiễn hiện thực, thì lại càng giúp ta hi ểu chính xác v ề nội
hàm và nhu cầu quan đi ểm phát triển này, càng làm tăng thêm tính t ự giác
để thiết lập và quán triệt thực hiện quan điểm phát tri ển khoa học. Đồng
thời, nội dung được đề cập trong quan đi ểm phát tri ển khoa học không đơn
giản là chính sách c ụ thể trên một phương diện nào đó, mà là căn c ứ lý luận
cơ bản của mỗi phương châm chính sách. N ội dung quan điểm phát triển
khoa học này phong phú, các t ầng bậc một “gốc”, ba “phát tri ển”, năm
“tính tốn chung” rất rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, khả năng khái quát cao và
rộng. Có thể nói, đây là một hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh thống
nhất với cơ sở là sự phát triển điều hoà toàn di ện và với mục tiêu thúc đ ẩy
sự phát triển toàn di ện của con người, đồng thời là một quan điểm lý luận
căn bản về sự phát triển mang tính phù h ợp và phổ biến. Tác gi ả cho rằng,
tính quan hệ mật thiết với thực tiễn và tính nghiêm túc ch ỉnh thể của lý
luận là một đặc điểm quan trọng của quan đi ểm phát triển khoa học.
Quan điểm phát triển khoa học lấy con người làm gốc được xây dựng trên
thực tiễn của Trung Quốc đương đại, đồng thời so sánh với thành qu ả tích
cực của sự phát tri ển văn minh th ế giới, lựa chọn thái độ tiếp thu có phân
tích đối với nhiều tư tưởng có giá trị trong lý lu ận phát tri ển đã từng có. Về
điểm này, có thể dễ dàng nhận thấy trong lược thuật diễn biến lịch sử về
quan điểm phát tri ển đã được đề cập ở phần trên của bài viết này. Không
chỉ nhận thấy tính liên tục của diễn biến lịch sử này trong nội dung
của Quan điểm phát triển tổng hợp, Quan điểm phát tri ển lấy con ngư ời



làm trung tâm, Quan đi ểm phát tri ển liên tục; hơn nữa, trong Lý luận tăng
trưởng kinh tế thời kỳ đầu sau thế chiến thứ 2 cũng không phải hoàn toàn
sai, lý luận tăng trưởng kinh tế đơn thuần đương nhiên là khơng đúng,
nhưng cũng khơng th ể nói trong đó khơng có b ất kỳ thành phần hợp lý nào.
Ví dụ nói “tăng trưởng”, đơn giản là quy kết sự phát triển của xã hội thành
tăng trưởng kinh t ế, giữa tăng trưởng kinh t ế và phát tri ển xã hội nên đánh
một cái dấu, điều này đương nhiên khơng th ể thực hiện; bởi nó đã coi nh ẹ
các nhân tố khác mang l ại sự phát triển, quên m ất sự phát triển toàn di ện
của xã hội và kết quả là dẫn tới chỗ “có tăng trư ởng nhưng khơng phát
triển”. Nhưng đi ều này cũng khơng có nghĩa r ằng, dường như phải xa rời sự
tăng trưởng kinh t ế thì mới là nói tới sự phát triển; nếu đúng như vậy, thì
nhất định đó là nói sng v ới phát tri ển. Trong lời nói đầu cuốn Quan điểm
phát triển mới của F.Perroux giải thích “Phát tri ển là vừa chỉ hoạt động
phát triển, vừa có ý nghĩa tr ạng thái của kết quả”(6). Quan hệ giữa tăng
trưởng và phát triển như thế nào? “Tăng trưởng là một chỉ tiêu của quy mơ,
nó có ý nghĩa t ự thân từ trong sự phát tri ển, sự phát triển này tuy có sự
khác biệt với tăng trưởng, nhưng vẫn xoay quanh nó, đồng thời khi đạt
được tiến triển trong sự tăng trưởng sẽ thể hiện rõ hiệu quả và lợi ích của
bản thân”(7). Điều này có nghĩa là ho ạt động “phát tri ển” khơng có kết quả,
khơng có ý nghĩa. Tuy nhiên, phát tri ển không tương đồng với tăng trưởng,
hai khái niệm này có sự khác biệt, nhưng có đi ều phát tri ển phải xoay
quanh tăng trưởng, chứ không phải là trốn tránh hoặc đào thải tăng trưởng;
đồng thời, chỉ khi có tiến triển trong tăng trưởng thì mới có thể thể hiện rõ
hiệu quả và lợi ích, đó chính là đ ạt đến sự phát triển có kết quả.
Từ đó, có thể thấy rằng, một mặt, tính khác bi ệt giữa tăng trưởng và phát
triển khiến chúng ta không th ể làm lẫn lộn hai khái ni ệm này; mặt khác,
tính thống nhất của hai khái ni ệm cũng khiến chúng ta không th ể tách rời
chúng một cách tuy ệt đối. Ngày nay, chúng ta nói v ề một khái ni ệm tương
tự như vậy - phát tri ển tồn diện khơng có nghĩa là khơng c ần đến tăng
trưởng, bởi tăng trưởng kinh tế là cơ sở để phát triển cái khác. Nói phát

triển hài hồ khơng có nghĩa là tăng trư ởng bình qn, mà coi xây d ựng
kinh tế vẫn là nội dung quan trọng của quan đi ểm phát triển khoa học. Vì
thế dễ dàng nhận thấy rằng, so sánh và ti ếp thu thành qu ả tích cực trong lý


luận phát triển đã có là một đặc trưng của quan đi ểm phát triển khoa học
lấy con người làm gốc.
Một đặc điểm quan trọng của quan điểm phát triển khoa học là đưa khái
niệm “lấy con người làm gốc” vào trong phạm trù của quan điểm phát tri ển,
đồng thời đặt nó ở vị trí đặc biệt quan trọng.
“Lấy con người làm gốc” là bản chất và trung tâm, đồng thời cũng là m ột
nguyên tắc cơ bản của quan điểm phát tri ển khoa học. Kiên trì quan ni ệm
lấy con người làm gốc thể hiện việc coi lợi ích của nhân dân là đi ểm xuất
phát và mục đích cuối cùng. Đó là bản chất và ngun t ắc cơ bản của quan
điểm phát tri ển. Tương t ự như vậy, “tồn diện”, “hài hồ”, “có th ể lâu dài”,
“thống nhất trù hoạch” mang ý nghĩa qu ản lý, thể hiện đặc trưng mới của
quan điểm phát tri ển khoa học này.
Nhiều năm qua, ngư ời ta đã không ngừng thảo luận về vấn đề phát triển và
cuối cùng đã đạt đến nhận thức chung: “Phát tri ển ngày càng được coi là
một sự giác ngộ của tư tưởng xã hội.”
Con người ý thức được rằng, địa vị chủ thể trong dòng phát tri ển lịch sử
của chính mình đã tr ải qua một q trình lịch sử lâu dài. Ở đây, chúng ta
chỉ muốn nhấn mạnh, trong cách nhìn nh ận của quan đi ểm duy vật lịch sử,
tính quy luật khách quan c ủa lịch sử phát tri ển không bị chi phối bởi ý chí
của con người, nó thống nhất với vai trị và địa vị của con người trong l ịch
sử phát triển.
Không có hoạt động sáng tạo lịch sử của con người, thì sẽ khơng có lịch sử.
“Lịch sử chẳng qua là hoạt động theo đuổi mục đích của chính con ngư ời
mà thôi”(8). Nhưng hoạt động của con người lại chịu sự chi phối của điều
kiện khách quan, điều kiện lịch sử khách quan xác định mà mỗi thế hệ con

người gặp phải, bất kỳ người nào cũng đ ều không thể tuỳ tiện sáng t ạo lịch
sử theo ý muốn của mình. Quy luật khách quan c ủa lịch sử phát tri ển khơng
nằm ngồi hoạt động của con người, mà thể hiện thông qua ho ạt động của
con người. Tính quy luật khách quan của lịch sử phát triển và tính m ục tiêu
của sự theo đuổi trong hoạt động lịch sử của con người là sự thống nhất nội
tại. Lịch sử đã chỉ ra rằng, bất luận là giới tự nhiên hay đi ều kiện lịch sử
đã định trước mà hạn chế hoạt động và khả năng của con người đều có ý


nghĩa song trùng. Một mặt, nó hạn chế khả năng phát huy đặc tính t ự do và
khả năng thể hiện lực lượng bản chất của nhân loại, làm cho con người cảm
nhận được tính hữu hạn của mình với tính cách ch ủ thể, đó là tính h ữu hạn
của khả năng nhận thức và cải tạo thế giới vốn có của con người; mặt khác,
hạn chế này lại là bước ngoặt chuyển hoá và là con đường phát huy, phát
triển năng lực bản chất nhân loại. Khơng có hạn chế này, năng lực bản chất
nhân loại không th ể được phát huy, sự phát tri ển tự do và toàn di ện của con
người cũng mất đi gốc rễ. Dễ dàng thấy rằng, tính m ục đích hợp lý, tính
quy luật hợp lý của con người trong hoạt động lịch sử là thống nhất nội tại,
cơ sở thống nhất là thực tiễn. Bởi thực tiễn là phương th ức tồn tại của con
người, là cơ sở để con người có thể phát huy và phát tri ển năng lực bản
chất của mình. Vì v ậy, con người được nói tới trong quan đi ểm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử là con người thực hiện hoạt động thực tiễn, chứ không
phải là con người trừu tượng.
Xác định lấy con người làm nguyên t ắc quan trọng và yêu cầu cơ bản của
quan điểm phát tri ển khoa học, dù trong cách đ ặt vấn đề hay trong hàm ý
cũng đều mang một ý nghĩa mới. Các nhà sáng l ập chủ nghĩa Mác - Lênin
đã nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa cộng sản là “liên minh c ủa những người tự
do”, “trong đó s ự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người”(9); đồng thời chỉ rõ xã hội tương lai s ẽ là
“hình thức xã hội với sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là

nguyên tắc cơ bản”(10). Quan đi ểm phát triển khoa học đưa nguyên t ắc
quan trọng lấy con người làm gốc vào trong quan đi ểm phát triển, xác định
việc thúc đẩy sự phát tri ển toàn di ện của con người là mục tiêu, đưa th ực
tiễn hiện thực của việc không ngừng tạo điều kiện cho lý tưởng cao đẹp
trong tương lai vào n ội dung của quan đi ểm phát tri ển. Điều này đã làm cho
mục tiêu của quan đi ểm phát tri ển trở nên rất rõ ràng và con đường, quá
trình cũng như đi ều kiện thực hiện mục tiêu cũng r ất hiện thực, cụ thể. Cái
mà quan điểm phát triển này cần không ph ải là phát tri ển để phát tri ển, mà
là thực hiện sự phát triển toàn diện của con người để tìm tịi và thúc đẩy sự
phát triển. Thực sự bảo đảm quyền lợi kinh t ế, chính trị và văn hố của
quần chúng nhân dân, đưa các thành qu ả của sự phát triển đến với toàn thể


nhân dân - đó vừa là việc lựa chọn chính sách thực hiện, vừa là sự thể hiện
cụ thể của nguyên t ắc lấy con người làm gốc.
Ngày nay, trong ti ến trình tồn cầu hố di ễn ra khơng ngừng cũng như khoa
học - kỹ thuật thay đổi và phát tri ển nhanh chóng, nh ững vấn đề mà nhân
loại cùng phải đối mặt cũng ngày càng nhiều, sự giao lưu qua lại giữa các
quốc gia, giữa các vùng lãnh thổ diễn ra sôi đ ộng chưa từng thấy. Với
những điều kiện trên, nguyên tắc “lấy con người làm gốc” và trào lưu phát
triển thời đại thống nhất là một. Xác định “lấy con người làm gốc” sẽ giúp
cho chúng ta thu đư ợc nhiều lợi ích trong giao lưu qu ốc tế và có vị trí chủ
động. Mặt khác, sự xuất hiện của xã hội thông tin, các hình th ức kinh tế
mới, điều kiện lịch sử mới đã làm hi ện rõ địa vị chủ thể của con người, thể
hiện tinh thần, trí tu ệ, tố chất của con người ngày càng có ý nghĩa đ ộng lực
to lớn và trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong tình hình
đó, đưa khái niệm “lấy con người làm gốc” vào trong ph ạm trù quan đi ểm
phát triển khoa học có ý nghĩa quan tr ọng và sâu sắc. Quan điểm phát tri ển
khoa học lấy con người làm gốc là bước tiến triển trọng đại của lý luận
phát triển, là thành quả lý luận mang tính đặc trưng của thời đại.

Người dịch: ThS. TRẦN THUÝ NGỌC
(Khoa Triết học, Trư ờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội)


(*) Bài đăng trên Nhân dân nhật báo, số ra ngày 10 - 8 - 2004.
(1) F.Perroux. Quan điểm phát tri ển mới. Nxb Hoa Hạ, 1987, tr.1 (tiếng
Trung).
(2) F.Perroux. Sđd., tr.2-3.
(3) Đặng Tiểu Bình tuyển tập, q.3, Nxb Nhân dân, 1993, tr.116.
(4) Đặng Tiểu Bình tuyển tập. Sđd., q.3, tr.131.
(5) Đặng Tiểu Bình tuyển tập. Sđd., q.3, tr.131.
(6) F.Perroux. Quan điểm phát tri ển mới. Nxb Hoa Hạ, 1987, tr.10.
(7) F.Perroux. Sđd., tr. 3.
(8) Tổ chức giáo dục khoa học văn hoá của Liên hợp quốc: Quy hoạch giữa
kỳ giai đoạn 1977 - 1982, Trích từ: F.Perroux. Quan điểm phát tri ển
mới, Nxb Hoa Hạ, 1987, tr.112.
(9) Friedrich Engels – Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyển tập, q.1. Nxb Nhân
dân, 1995, tr. 294 (ti ếng Trung).
(10) Friedrich Engels – Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyển tập, q.23. Nxb Nhân
dân, 1995, tr. 649 (tiếng Trung).



×