Nghiên cứu triết học
Đề tài: " QUAN ĐIỂM PHÁT
TRIỂN KHOA HỌC MANG ĐẦY
ĐỦ THÀNH QUẢ LÝ LUẬN CỦA
TIÊU CHÍ THỜI ĐẠI "
QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC MANG ĐẦY ĐỦ THÀNH QUẢ
LÝ LUẬN CỦA TIÊU CHÍ THỜI ĐẠI (*)
TRIỆU PHONG KỲ
Trong khi kiên trì con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung
Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã sáng tạo nên quan điểm phát triển mới
– quan điểm phát triển khoa học. Quan điểm phát triển khoa học chứa đựng
nội hàm phong phú và sâu sắc: lấy dân làm gốc, phát triển toàn diện, hài hoà
và lâu dài. Nó xoay quanh chủ đề cơ bản – phát triển, trả lời cho những vấn
đề lý luận và thực tiễn quan trọng: tại sao phải phát triển và phát triển như
thế nào. Theo đó, quan điểm phát triển khoa học lấy dân làm gốc là bước tiến
trọng đại của lý luận phát triển, là thành quả lý luận mang tính đặc trưng của
thời đại.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang tự suy xét lại hành trình
trước đây và hoạch định chiến lược phát triển cho mình; nhưng đằng sau mỗi
một chiến lược phát triển, luôn có những lý luận khác nhau về phát triển để
làm điểm tựa.
Hiện nay, khi nhân dân Trung Quốc đang trên con đường xây dựng xã hội
chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc để đưa ra một mốc phát triển lịch sử
nhanh hơn và tốt hơn, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra chủ
trương phải kiên trì việc lấy dân làm gốc; xây dựng quan điểm phát triển toàn
diện, hài hoà, liên tục; xúc tiến việc phát triển toàn diện kinh tế, xã hội và con
người. Đồng thời, nhấn mạnh việc quy hoạch phát triển thành thị và nông
thôn, quy hoạch phát triển vùng, phát triển kinh tế và xã hội, phát triển hài
hoà giữa con người với thiên nhiên, giữa nhu cầu phát triển trong nước với
mở cửa; từ đó, thúc đẩy tiến trình cải cách và phát triển đất nước. Quan điểm
phát triển khoa học này là sự tổng kết sâu sắc kinh nghiệm thực tiễn qua công
cuộc cải cách mở cửa và hiện đại hoá đất nước của Trung Quốc trong 25 năm
qua, là hiện thực minh chứng sự tồn tại vững chắc của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, là sản phẩm của tinh thần hiện thực, học hỏi thế giới, quan sát thế giới
đương đại và những vấn đề phát triển của Trung Quốc bằng tầm nhìn thời đại
và góc nhìn rộng mở, là thành quả lý luận quan trọng phản ánh và đáp ứng
những yêu cầu thực sự phát triển thực tiễn hiện thực của Trung Quốc. Quan
điểm phát triển khoa học này có nội hàm phong phú và sâu sắc, vừa có tính
hướng ra hiện thực mạnh mẽ, vừa có tính khái quát cao, độ bao trùm rộng, thích
ứng cao độ trong mọi lĩnh vực, mọi phương diện của đời sống xã hội Trung
Quốc. Xây dựng và thực hiện quan điểm phát triển khoa học này có ý nghĩa lớn
lao và sâu sắc đối với việc thực hiện mục tiêu chiến lược đã đặt ra và đối với
tương lai phát triển của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc
Trung Quốc.
1. Sự phản tư lại chặng đường phát triển xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc và
sự tổng kết kinh nghiệm mới, kể từ khi thực hiện cải cách mở cửa đến nay,
chính là cơ sở hiện thực lý giải đúng đắn cho quan điểm phát triển khoa học
của Trung Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển của Trung Quốc đương đại không
thể tách rời sự phát triển của thế giới. Vì vậy, xem xét thêm mối liên hệ giữa
sự phát triển của thế giới với tiến trình lịch sử của lý luận phát triển đương đại
là một công việc có ý nghĩa.
Nhìn chung, các nước trên thế giới sau Đại chiến thế giới II đều có một con
đường phát triển riêng của mình. Các nước tư bản phương Tây mong muốn
phát triển, các quốc gia giành được độc lập sau thế chiến chưa phát triển đang
mưu cầu phát triển, các quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa cũng
không ngừng tìm tòi con đường phát triển cho chính mình. Cho dù chế độ xã
hội không giống nhau, tình hình của mỗi nước cũng khác nhau, nhưng vấn đề
phát triển và làm thế nào để phát triển dường như đã trở thành vấn đề chung
đặt ra trước tất cả các nước.
Sau khi Đại chiến thế giới II kết thúc, để thích ứng với đòi hỏi xây dựng lại,
phục hồi và phát triển sau chiến tranh của các quốc gia và khu vực trên thế
giới, các lý luận nghiên cứu phát triển cũng từ đó ra đời. Thuật ngữ “phát
triển” trở thành chủ đề nóng thu hút sự quan tâm của nhiều ngành khoa học.
Chỉ xét riêng về trường phái lý luận, đã có các trường phái phát triển thuần lý
tính, trường phái tâm lý học, trường phái truyền thống, trường phái xã hội
học, v.v Các ngành mới phát triển lại càng tầng tầng lớp lớp, ví dụ kinh tế
học phát triển, chính trị học phát triển, xã hội học phát triển, chiến lược học
phát triển, đạo đức học phát triển, mỹ học phát triển và lý luận phát triển
tương lai học, v.v Các môn học khác nhau này, mặc dù có chuyên ngành
nghiên cứu và điểm chú trọng không giống nhau, nhưng góc nhìn của chúng
thì lại là một - đều tập trung ở “phát triển”. Trong các môn học phát triển và
lý luận phát triển này, tiêu biểu là Lý luận giai đoạn phát triển kinh tế của
Rostovian, Lý luận thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng bình quân của Barry
Rosenstein và Lý luận nhu cầu cơ bản, Lý luận tăng trưởng công bằng. Trong
lý luận phát triển của tương lai học và kinh tế học có Lý luận tăng trưởng
kinh tế ở giai đoạn đầu sau chiến tranh, Lý luận tăng trưởng có giới hạn của
Câu lạc bộ Roma, Lý luận quá độ của Oliver và Lý luận chuyển đổi quyền lực
của Alvin Toffler,… Nói tóm lại, nghiên cứu về lý luận phát triển đã thể hiện
rất nhiều mặt phức tạp. Nhưng, chúng ta vẫn có thể dựa vào quỹ đạo phát
triển của lịch sử để từ đó, nhận ra bối cảnh phát triển chung của lý luận phát
triển đương đại.
Nói một cách khái quát, nếu xét từ những dấu hiệu cơ bản của lý luận phát
triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh thì về tổng thể, nó trải qua các quá trình
tiến hoá của lịch sử, như đi từ “lý luận tăng trưởng kinh tế” đến “lý luận tăng
trưởng có giới hạn”, rồi lần lượt đến “quan điểm phát triển tổng hợp”, “lý
luận phát triển liên tục” và tồn tại song song với “quan điểm phát triển lấy
con người làm trung tâm”.
Trước tiên, ta hãy bàn về “lý luận tăng trưởng kinh tế”. Quan điểm này xuất
hiện sớm nhất trong lý luận phát triển, ngay từ giai đoạn khởi đầu của sự phát
triển kinh tế, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến rất nhiều quốc gia. Phát triển
học bắt đầu từ sự phát triển kinh tế; tuy nhiên, khởi đầu của sự phát triển kinh
tế thực chất là “kinh tế học tăng trưởng”. Sau chiến tranh, các nhà kinh tế học
phương Tây coi trọng lý luận tăng trưởng kinh tế, hòng thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, đã đưa ra một số mô hình tăng trưởng kinh tế. Nhưng lúc đó giới
học thuật nói chung vẫn chưa phân biệt rạch ròi hai khái niệm “phát triển” và
“tăng trưởng”. Trên thực tế, đa số các học giả cho rằng, phát triển = tăng
trưởng. Chiến lược phát triển dưới sự chỉ đạo của lý luận phát triển này là lấy
sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội làm mục tiêu. Quan điểm này đã đưa
tiêu chuẩn tăng trưởng kinh tế thành tiêu chuẩn tuyệt đối duy nhất của phát
triển, đơn giản coi phát triển kinh tế giống như tăng trưởng kinh tế, tăng
trưởng kinh tế được coi là một từ đồng nghĩa với phát triển. Biểu hiện cụ thể
của nó là việc chỉ hoàn toàn chạy theo tổng sản phẩm quốc dân. Quan điểm
“phát triển = tăng trưởng” này tuy có thể thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế,
nhưng lại đưa đến nhiều vấn đề trên các mặt kinh tế và xã hội, gây hậu quả
nghiêm trọng về “tăng trưởng không có phát triển” hoặc “chỉ có tăng trưởng
không có phát triển”. Điều này khiến người ta nghi ngờ về lý luận và chiến
lược phát triển.
Cùng với sự xoay chuyển của thời gian, nhận thức về mối quan hệ lẫn nhau
giữa tăng trưởng và phát triển cũng ngày một sâu sắc hơn. Sau thập niên 60
của thế kỷ XX, sự kiến giải về phát triển không thể tách rời tăng trưởng,
nhưng “tăng trưởng không tương đương với phát triển” đã đạt được nhận thức
chung ở phạm vi ngày một rộng hơn. Giới học thuật quốc tế dường như đều
thống nhất cho rằng, không thể đơn giản quy kết phát triển thành tăng trưởng
kinh tế, mà cần phân biệt rõ hơn hai khái niệm tăng trưởng và phát triển.
Thực tế cho thấy, hàm ý của tăng trưởng kinh tế rất hẹp, thường chỉ sự tăng
trưởng sản xuất với ý nghĩa thuần tuý. Còn hàm ý của phát triển tương đối
rộng, ngoài sự tăng trưởng về số lượng sản xuất, còn bao gồm sự biến đổi của
cơ cấu kinh tế và một số chế độ khác; không chỉ là sự tăng trưởng kinh tế, mà
còn bao gồm sự cải thiện về tình hình xã hội và sự tiến bộ về thể chế… Hơn
nữa, nếu như chỉ đơn thuần chạy theo sự tăng trưởng mà không chú ý tới các
nhân tố liên quan kìm hãm sự tăng trưởng, thì chắc chắn đến một lúc nào đó,
bản thân sự tăng trưởng sẽ khó có thể được duy trì liên tục.
Một quan niệm khác về lý luận phát triển nữa là Lý luận tăng trưởng có giới
hạn của Câu lạc bộ Roma. Năm 1972, được sự uỷ thác của Câu lạc bộ Roma,
Học viện kỹ thuật Massachusetts của Mỹ đã trình bày bản báo cáo về “có giới
hạn của tăng trưởng”. Luận điểm trung tâm của lý luận tăng trưởng có giới
hạn là: sự tăng trưởng về dân số, sự gia tăng về đầu tư, sự ô nhiễm của môi
trường, sự cạn kiệt về tài nguyên… đều có tính chất của chỉ số tăng trưởng,
nghĩa là, trải qua một thời gian, chỉ số này sẽ gia tăng gấp đôi. Nếu cứ tiếp tục
duy trì xu hướng này, sự tăng trưởng kinh tế trên hành tinh của chúng ta sẽ
đạt tới cực đại tại một thời kỳ nào đó trong vòng 100 năm nữa. Nguyên nhân
nằm ở một thực tế đơn giản - Trái đất là có hạn, không gian có hạn, tài
nguyên có hạn, khả năng chịu ô nhiễm của Trái đất cũng rất có hạn. Tác giả
vẽ ra một tình cảnh tương lai đáng sợ: do thiếu lương thực gây ra nạn đói và
chết chóc, nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể tái sinh ngày một cạn kiệt,
môi trường nhanh chóng bị biến đổi xấu đi. Do đó, vấn đề sinh tồn của toàn
nhân loại bị đe doạ, ngày tận thế của thế giới sẽ đến. Tác phẩm Giới hạn của
tăng trưởng vừa mới xuất bản đã ngay lập tức tạo lên một trào lưu mạnh mẽ
trong giới tư tưởng trên toàn thế giới. Rất nhiều người đã coi tác phẩm này là
đại diện cho chủ nghĩa bi quan, thậm chí có người còn cho rằng quyển sách
này đã phản ánh tâm trạng tuyệt vọng về tương lai của giai cấp tư sản; cũng
có một số người chỉ ra điểm chưa đầy đủ về mặt kỹ thuật tồn tại trong quyển
sách này, như khuyết điểm của mô thức sử dụng, coi nhẹ vai trò của tiến bộ
khoa học kỹ thuật… Nhưng mấy năm gần đây, ngày càng có nhiều ý kiến cho
rằng, ngày nay với sự bùng nổ dân số, nguồn tài nguyên đang nhanh chóng bị
cạn kiệt, môi trường sinh thái bị phá vỡ nghiêm trọng. Nhóm nghiên cứu của
Meadows Earle đã góp phần làm thay đổi nhận thức cũ của con người, đưa ra
vấn đề từng bị coi nhẹ trong suốt một thời gian dài để mổ xẻ nó, gióng lên hồi
chuông thức tỉnh thế giới và con người.
Một nguyên nhân quan trọng khiến Câu lạc bộ Roma có thái độ bi quan trước
sự phát triển của thế giới là họ đã xem nhẹ vai trò năng động, tự quyết định
vận mệnh chính bản thân mình của nhân loại và những ảnh hưởng tích cực
tiềm tàng của tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Một học giả Pháp đã từng chỉ ra
rằng, một loạt “mô thức toàn thế giới” do Câu lạc bộ Roma chế định hạn chế
bởi điểm xuất phát ở mối quan hệ tương hỗ giữa “tăng trưởng - tài nguyên -
môi trường”, coi nhân tố và mối quan hệ quan trọng của các kết cấu con
người - xã hội, con người - văn hoá, giá trị, thể chế nằm ngoài phạm vi nghiên
cứu. Như vậy, lập luận của họ không làm cho con người thoả mãn. Cách phê
phán này, có thể nói, ít nhiều chứa đựng sự đánh giá đúng đắn.
Phát triển ngày càng trở thành một vấn đề nổi bật, thúc đẩy con người thực
hiện những nghiên cứu khoa học có liên quan. Nhiều nhà khoa học đã không
ngừng làm phong phú thêm quan niệm về phát triển; kết quả là, một quan
niệm mới về phát triển ra đời và được ứng dụng - quan điểm phát triển tổng
hợp. Quan điểm phát triển mới của F.Perroux được coi là tác phẩm đại diện
cho quan điểm phát triển tổng hợp. Quan điểm phát triển này cho rằng, phát
triển phải là sự phát triển mang tính chỉnh thể và tổng hợp. Perroux chú trọng
mối quan hệ giữa con người với con người, con người với môi trường, con
người với tổ chức; nhấn mạnh sự phát triển tổng hợp bao gồm các phương
diện tăng trưởng kinh tế, dân chủ chính trị, chuyển đổi mô hình xã hội, thay
đổi văn hoá, điều hoà tự nhiên, cân bằng sinh thái.
Trong lời tựa cuốn Quan điểm phát triển mới, F.Perroux viết: “Từ thời đại
Plato đến nay, con người đã ý thức được rằng, tư tưởng được nảy sinh từ mâu
thuẫn, mà quan niệm phát triển này lại hoàn toàn tạo nên một sự thực tự mâu
thuẫn quan trọng của thời đại chúng ta: hướng tới sự tiến bộ nhưng cần phải
suy nghĩ về hậu quả của nó… Đó là cách nhìn nhận đối với vấn đề phát triển,
đồng thời là chìa khoá lý giải hiện thực và thời đại hiện thực”
(1)
. Quan điểm
về nhân tố ảnh hưởng phát triển các mặt cần phải được tập trung khảo sát và
điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của hiện thực. Quan
điểm phát triển mới của F.Perroux là một tác phẩm quan trọng, đặt vấn đề
phát triển dựa trên lý luận triết học sâu sắc. Ông cho rằng, “phát triển mới”
chính là sự phát triển phục vụ lợi ích của toàn thể nhân loại và tất cả mọi
người, cũng chính là để thúc đẩy sự phát triển của toàn nhân loại và tự thân
của tất cả mọi người. Giá trị văn hoá đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự
phát triển. Trong chiến lược phát triển, quan điểm phát triển mới nhấn mạnh
chiến lược phát triển chỉnh thể, tổng hợp và phát huy sức mạnh nội lực: cái
gọi là chỉnh thể chỉ mô thức phát triển nhất thiết phải dựa trên một quan niệm
hoàn chỉnh, vừa phải xét tới các phương diện tạo thành xã hội - con người
chỉnh thể, vừa phải nhìn nhận tính đa dạng xuất hiện trong mối quan hệ tồn
tại phụ thuộc lẫn nhau của con người; tổng hợp chỉ sự điều hoà thống nhất
của các ngành, lĩnh vực; phát huy nội lực chỉ việc sử dụng đầy đủ và chính
xác lực lượng và nguồn tài nguyên của quốc gia mình để thúc đẩy phát
triển(2). Perroux còn cho rằng, “phát triển mới” không phải và cũng không
thể là mô hình các nước phát triển phương Tây đã đưa ra; rằng, để thực hiện
phát triển mới, cần phải thay đổi trật tự kinh tế quốc tế bất bình đẳng, không
hợp lý hiện đang tồn tại. Chiến lược phát triển mới nhằm thay đổi tình trạng
liên hệ không mật thiết giữa các hệ thống, nhấn mạnh các mặt phụ của phát
triển luôn tồn tại và liên hệ chặt chẽ với nhau.
Dễ dàng nhận thấy rằng, điểm cơ bản nhất trong quan điểm phát triển của
F.Perroux là coi trọng tính đa tầng bậc và tính toàn diện của mối liên hệ.
Có thể nói, tìm câu trả lời cho vấn đề làm thế nào để phát triển cũng không
ngừng phát triển. “Có thể phát triển liên tục” là một bước tiến quan trọng
trong quan niệm về phát triển, đồng thời là một trong những tiêu chí quan
trọng của văn minh nhân loại khi bước vào thời kỳ lịch sử mới. Khái niệm
“có thể phát triển liên tục” được đưa ra vào thập niên 80 của thế kỷ XX và
người ta đã tập trung thảo luận nội dung và ý nghĩa của quan niệm “có thể
phát triển liên tục”. Các nước đang phát triển và những nước phát triển đã
thực hiện một loạt đối thoại và biện luận; cuối cùng, vào tháng 5 năm 1989,
trong kỳ họp thứ 15 của Uỷ ban Môi trường Liên hợp quốc đã đạt được sự
đồng thuận. Khái niệm “có thể phát triển liên tục” chỉ sự phát triển vừa có thể
thoả mãn nhu cầu đương đại, vừa không làm giảm khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai. Một đặc điểm quan trọng của quan niệm phát triển
này là rất quan tâm và luôn tính đến mối quan hệ giữa các thế hệ hiện tại và
thế hệ tương lai, điều này rất ít hoặc chưa từng được đề cập một cách có hệ
thống trong lý luận về phát triển trước đây.
Vấn đề quan trọng khác cần bàn là quan điểm phát triển lấy con người làm
trung tâm. Vấn đề vị trí của con người trong phát triển đã được rất nhiều nhà
nghiên cứu về lý luận phát triển đề cập đến. Tuy nhiên, chỉ trong nghiên cứu
phát triển đương đại, quan niệm coi con người là trung tâm mới thực sự được
quan tâm với mức độ cao hơn, bắt đầu từ tháng 3 năm 1995 tại Hội nghị cấp
cao về phát triển thế giới được tổ chức tại Copenhagen. Trong “Tuyên ngôn”
và “Cương lĩnh hành động” được Hội nghị này thông qua đã khẳng định:
“Phát triển xã hội là nhu cầu và nguyện vọng cơ bản của nhân dân các nước
trên toàn thế giới, cũng là nhiệm vụ trung tâm của chính phủ các nước, các
ban ngành xã hội”. Phát triển xã hội “lấy con người làm trung tâm”, “mục tiêu
cuối cùng của phát triển xã hội là cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc
sống”, “sự phát triển xã hội không thể tách rời các nhân tố văn hoá, sinh thái,
kinh tế, chính trị và môi trường tinh thần nảy sinh theo nó”. Dễ nhận thấy
rằng, trong các quan điểm lấy con người làm trung tâm phát triển, cho dù có
rất nhiều ý kiến trái ngược, lý giải về “con người” không hoàn toàn thống
nhất, nhưng điểm tương đồng ở đây là nêu bật vị trí chủ thể của con người.
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy, các lý luận và quan niệm về phát triển
đều không chỉ liên hệ với điều kiện lịch sử ở mỗi giai đoạn riêng, mà còn có
liên hệ với bối cảnh đặc biệt của mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau. Từ Lý
luận tăng trưởng kinh tế đến Lý luận tăng trưởng có giới hạn, từ Lý luận phát
triển tổng hợp đến Lý luận có thể phát triển liên tục và Quan điểm phát triển
lấy con người làm trung tâm, về tổng thể đã phản ánh tiến trình phát triển lịch
sử đã qua của nhân loại, phản ánh trình độ nhận thức của con người đối với
các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển và mối quan hệ tương hỗ của nó trong
các điều kiện không giống nhau. Nhưng, lý luận phát triển không giống nhau
trong mối quan hệ của tiến trình lịch sử, đồng thời cũng không phải là mối
quan hệ một sai một đúng, mà là đồng thời tồn tại tính liên tục, tính hỗ trợ bổ
sung trong tính tiến bộ và tính gián đoạn của lịch sử. Tiếp thu lẫn nhau và tác
động biện chứng là một đặc trưng quan trọng của lý luận phát triển trong quá
trình phát triển.
Mặt khác, một lý luận phát triển được xác lập, mở rộng và vận dụng cần phải
chuyển biến theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia cụ thể. Đặc điểm cơ bản
này là chân lý không thể thay đổi của quan điểm phát triển triết học theo
phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Không nắm được thành
quả tích cực của con người đã đạt được trong tiến trình sáng tạo văn minh thế
giới, đó là tự mình chui vào vỏ ốc, không nghe không thấy những gì đã, đang
diễn ra; không biết được tiến trình cụ thể trong quá trình phát triển đất nước
của quốc gia mình, thì sẽ không thực sự nắm được các vấn đề căn bản, như
làm thế nào để phát triển, làm thế nào để phát triển như vậy.
2. Việc lý giải chặng đường phát triển của Trung Quốc và nhu cầu phát triển
thực tiễn là cơ sở quan trọng, vững chắc để thiết lập quan điểm phát triển
khoa học.
Trên con đường xã hội chủ nghĩa, nhân dân Trung Quốc từng có những năm
tháng ca khúc khải hoàn, cũng từng có giai đoạn chao đảo, thậm chí chịu sức
ép nặng nề. Thành công và thất bại, phát triển và trì trệ, kinh nghiệm chính
diện và kinh nghiệm phản diện… đều xảy ra trong một quá trình lịch sử, đều
là hiện tượng phát sinh cùng với hành trình lịch sử của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Lịch sử phát triển thăng trầm của quốc gia xã hội chủ nghĩa cho thấy,
mỗi quốc gia hoặc mỗi dân tộc sau khi đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
đều phải đối mặt với vấn đề lựa chọn mô hình phát triển xã hội chủ nghĩa, đối
mặt với nhiệm vụ nặng nề là kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác -
Lênin với thực tế cụ thể của nước mình cũng như đối mặt với vấn đề mở ra
con đường hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước mình dựa trên sự
tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo trong sự “kết hợp” này. Trong thập niên đầu
tiên của nhà nước cộng hoà nhân dân, Trung Quốc đã đạt được những thành
tựu huy hoàng trên các mặt phục hồi và phát triển sản xuất, cải cách xã hội và
quản lý xã hội, thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề và kinh tế quốc dân;
nhân dân vô cùng phấn khởi, vui mừng trước những thành tựu đã đạt được và
Trung Quốc tiếp tục phấn đấu trên con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,
làm thế nào để một quốc gia rộng lớn và đông dân ở phương Đông vốn có
trình độ kinh tế thấp kém, văn hoá lạc hậu,… xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và tiếp tục phát triển,… vẫn là một vấn đề hoàn toàn mới. Do mức độ
khó khăn, phức tạp của vấn đề này cũng như chưa từng có tiền lệ để học hỏi,
do quá trình tìm tòi nghiên cứu ban đầu gặp nhiều gian khổ, việc xây dựng xã
hội mới vẫn chưa thành công và thậm chí, có lúc còn nhận thức sai về chủ
nghĩa xã hội, chưa “tỉnh táo” để nhận thức được chủ nghĩa xã hội là gì. Việc
theo đuổi “nhất đại nhị công”(một là phát triển quy mô lớn, hai là công hữu
hoá cao độ – ND) khiến xã hội mất đi cơ sở sức sản xuất mà nó vốn có thể
nắm bắt được, cũng như việc lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh đã gây sai
lầm mang tính toàn diện. Như vậy, vấn đề phát triển liên tục trong tiến trình
lịch sử của Trung Quốc không những chưa được giải quyết, mà còn phải trả
giá đắt bằng sự ngưng trệ không có tiến triển của đất nước trong suốt hơn 20
năm. Đồng chí Đặng Tiểu Bình nói: “Kinh nghiệm 20 năm, kể từ năm 1958
đến 1978, đã cho chúng ta thấy: nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa xã hội phải xoá bỏ được đói nghèo. Không phát triển năng lực sản
xuất, không nâng cao đời sống cho nhân dân, thì không thể nói là phù hợp với
yêu cầu của chủ nghĩa xã hội”(3). >>>
QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC MANG ĐẦY ĐỦ THÀNH
QUẢ LÝ LUẬN CỦA TIÊU CHÍ THỜI ĐẠI (*)
Tiêu chuẩn thực tiễn, tiêu chuẩn sức sản xuất, ba điều có lợi cho tiêu chuẩn
đều hội tụ trong tư duy sâu sắc của đồng chí Đặng Tiểu Bình về vấn đề phát
triển, xuyên suốt sự quan tâm sâu sắc đối với phát triển sức sản xuất và cải
thiện đời sống cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Đặng Tiểu
Bình, toàn Đảng và toàn thể nhân dân Trung Quốc đã thoát khỏi những khó
khăn do 10 năm bạo động gây ra. Bước sang thời kỳ mới của phát triển xã
hội, vấn đề phát triển luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Ông nói,
phát triển mới là chủ đạo, nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội, phát
triển quá chậm cũng không phải là chủ nghĩa xã hội, phát triển là cơ sở để
giải quyết tất cả các vấn đề; trước hết, phải phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế. Nếu không cải cách, không phát triển lực lượng sản xuất,
không cải thiện đời sống cho nhân dân thì chủ nghĩa xã hội không có lối
thoát, đó chỉ là con đường chết mà thôi. Con đường xã hội chủ nghĩa mang
màu sắc Trung Quốc mà Đặng Tiểu Bình đã tìm ra, lý luận Đặng Tiểu Bình
mà ông đưa ra đã cơ bản giải quyết được vấn đề phát triển của chủ nghĩa xã
hội ở Trung Quốc. Trong điều kiện hiện nay, Trung Quốc phải làm thế nào
để xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội; động lực, con đường và điều
kiện phát triển như thế nào?… Đó là những nội dung quan trọng cấu thành lý
luận Đặng Tiểu Bình. Chiến lược phát triển chia thành “ba bước đi” không
chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của chiến lược phát triển, mà còn đề
cập tới khả năng có thể phát triển liên tục. Năm 1985, sau khi nghe báo cáo,
ông đã chỉ ra rằng, “ý nghĩa của cải cách chính là đặt nền móng phát triển tốt
đẹp liên tục cho 10 năm sau và 50 năm của thế kỷ tiếp theo. Không có cải
cách thì sẽ không có sự phát triển liên tục ngày nay và mai sau. Cho nên, cải
cách không phải là nhìn vào 3 hoặc 5 năm sau, mà phải nhìn vào 20 năm sau,
phải nhìn vào 50 năm đầu của thế kỷ sau. Điều này phải được tiếp tục duy
trì”(4). Năm 1989, Đặng Tiểu Bình “kiến nghị tổ chức một lớp nghiên cứu
chiến lược phát triển và quy hoạch cho 50 năm đầu của thế kỷ sau”(5).
Không phải ngẫu nhiên mà đồng chí Đặng Tiểu Bình đã nhấn mạnh việc
nghiên cứu “chiến lược phát triển” đó, nhấn mạnh việc xây dựng cơ sở “phát
triển liên tục” tốt đẹp cho 50 năm đầu của thế kỷ sau, nhấn mạnh ý nghĩa của
cải cách đối với “phát triển liên tục”. Điều này hội tụ khả năng tư duy và suy
nghĩ sâu xa về những kinh nghiệm của ông đối với lịch sử phát triển chủ
nghĩa xã hội của Trung Quốc, đối với việc quan sát và vận dụng kinh nghiệm
của các nước, nắm vững quan điểm thời đại và dự kiến khoa học đối với xu
thế phát triển, tương lai phát triển.
“Phát triển mới là chủ đạo!” không phải là khẩu hiệu đơn giản, cũng không
phải là từ ngữ thông dụng trong đời sống hàng ngày. Điều mà Đặng Tiểu
Bình muốn biểu đạt là tư tưởng chiến lược quan trọng vừa hội tụ những kinh
nghiệm lịch sử, vừa liên quan tới sự phát triển lâu dài và toàn diện. Từ nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu: phát triển là chủ đạo đến nắm chính quyền và xây
dựng đất nước, đến sự ra đời của quan điểm phát triển khoa học đã thể hiện
bước đi vững chắc, nỗ lực không ngừng trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội mang màu sắc Trung Quốc của nhân dân Trung Quốc, thể hiện sự
quan tâm sâu sắc và nhất quán của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
đối với vấn đề phát triển. Nhờ đó, Trung Quốc đã đạt được sự phát triển to
lớn chưa từng có trước đây. Trong 25 năm qua, tốc độ tăng trưởng GDP của
Trung Quốc liên tục được duy trì ở mức 9,3%; năm 2003, bình quân đầu
người đã tăng lên ngưỡng quan trọng là 1000 USD, Trung Quốc đã thực hiện
được mục tiêu chiến lược dự tính bước 2. Sản xuất phát triển, tiềm lực tổng
hợp của đất nước tăng lên, về tổng thể đời sống của nhân dân đã đạt mức
trung bình.
Để phát triển nhanh hơn nữa, cần phải giải quyết các vấn đề cản trở sự phát
triển. Trong Báo cáo công tác của chính phủ, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã liệt
kê những khó khăn do sự tích tụ những mâu thuẫn của nhiều năm qua, bao
gồm vấn đề tăng thu nhập cho nông dân còn chậm chạp, nhiệm vụ bảo đảm
xã hội và vấn đề việc làm còn nặng nề, sự phát triển giữa các vùng không
đồng đều, thu nhập của một bộ phận người dân còn chênh lệch quá lớn, áp
lực nguồn tài nguyên và môi trường không ngừng tăng… cộng với một số
mâu thuẫn mới do sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế đem lại, bao gồm
đầu tư mù quáng, xây dựng mới ở trình độ thấp, mối quan hệ cung cầu giữa
nguồn năng lượng, giao thông và một phần nguyên vật liệu căng thẳng, chiếm
dụng đất canh tác bất hợp pháp, sự phát triển của sự nghiệp xã hội còn chậm
chạp, đời sống của cư dân vùng nông thôn có thu nhập thấp còn nhiều khó
khăn…
Trong thực tiễn hoá giải các vấn đề khó khăn, có cái dựa vào sự điều chỉnh
bố cục chiến lược, vào sự quán triệt và thực tế của một loạt phương châm,
chính sách tương ứng. Nhưng việc đề xuất quan điểm phát triển khoa học lấy
con người làm gốc trong Hội nghị toàn thể lần thứ 3 kỳ họp 16 của Đảng
Cộng sản Trung Quốc lại đưa ra cơ sở lý luận quan trọng xuất phát từ quan
điểm lý luận cơ bản của phát triển. Quan điểm phát triển khoa học lấy dân
làm gốc, toàn diện, hài hoà, lâu dài này lấy “phát triển” làm chủ đề, trả lời
cho một loạt vấn đề cơ bản: tại sao phải phát triển và phát triển như thế nào.
“Lấy dân làm gốc” chính là phải lấy việc thực hiện phát triển toàn diện con
người làm mục tiêu; phải xuất phát từ lợi ích căn bản của quần chúng nhân
dân để mưu cầu phát triển, thúc đẩy phát triển; không ngừng thoả mãn nhu
cầu vật chất và tinh thần ngày một cao của quần chúng nhân dân; thực sự
bảo đảm quyền lợi kinh tế, chính trị, và văn hoá cho quần chúng nhân dân,
đưa những thành quả phát triển đến với toàn thể người dân. “Phát triển toàn
diện” phải lấy việc xây dựng kinh tế làm trung tâm, thúc đẩy việc xây dựng
kinh tế, chính trị, văn hoá một cách toàn diện, thực hiện phát triển kinh tế và
tiến bộ xã hội. “Phát triển hài hoà” chính là phải thống nhất trù hoạch sự
phát triển của thành thị và nông thôn, phát triển của khu vực, phát triển kinh
tế - xã hội, phát triển hài hoà giữa con người và thiên nhiên, phát triển trong
nước và mở cửa đối ngoại, tăng cường sự phù hợp trong mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, sự phối hợp nhịp nhàng giữa cơ sở
kinh tế và thượng tầng kiến trúc, thúc đẩy sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
mặt, các khâu của việc xây dựng kinh tế, chính trị và văn hoá. “Có thể phát
triển lâu dài” chính là phải thúc đẩy sự hài hoà giữa con người và tự nhiên,
phối hợp nhịp nhàng giữa sự phát triển kinh tế với vấn đề dân số, tài nguyên
và môi trường, kiên trì đi theo con đường phát triển văn minh với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, cuộc sống giàu có và môi trường sinh thái trong
lành, bảo đảm liên tục phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Có thể thấy rằng, quan điểm phát triển khoa học này chứa đựng nội hàm
phong phú và sâu sắc. Những vấn đề được đề cập trong đó cũng không phải
là chưa từng được đề cập trước đây, ví dụ mối quan hệ giữa thành thị và
nông thôn, mối quan hệ giữa các vùng khác nhau, mối quan hệ giữa phát
triển sản xuất và cải thiện đời sống cho người dân, mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên… Nhưng, thứ nhất, những vấn đề này trước đây khi đề
cập, đa phần được nói trên chính sách cụ thể; thứ hai, khái niệm “quan hệ”
giống như trong thực tiễn phát triển, nhưng nội hàm của nó không hoàn toàn
giống với trước đây. Nội hàm của các mối quan hệ được đề cập trong quan
niệm phát triển khoa học là mối quan hệ mật thiết trong thực tiễn phát triển
của Trung Quốc khoảng 12 năm trở lại đây, là lấy vấn đề hiện thực được đề
cập trong thực tiễn phát triển làm cơ sở. Thực tiễn của hiện thực cải cách mà
nhân dân Trung Quốc đang theo đuổi là quan điểm phát triển khoa học này,
với cơ sở hiện thực nhất, trực tiếp nhất của sản xuất. Vì vậy, chúng ta càng
nắm bắt nó dưới góc độ thống nhất nội tại quan niệm lý luận phát triển và
thực tiễn hiện thực, thì lại càng giúp ta hiểu chính xác về nội hàm và nhu cầu
quan điểm phát triển này, càng làm tăng thêm tính tự giác để thiết lập và
quán triệt thực hiện quan điểm phát triển khoa học. Đồng thời, nội dung
được đề cập trong quan điểm phát triển khoa học không đơn giản là chính
sách cụ thể trên một phương diện nào đó, mà là căn cứ lý luận cơ bản của
mỗi phương châm chính sách. Nội dung quan điểm phát triển khoa học này
phong phú, các tầng bậc một “gốc”, ba “phát triển”, năm “tính toán chung”
rất rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, khả năng khái quát cao và rộng. Có thể nói, đây
là một hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh thống nhất với cơ sở là sự phát
triển điều hoà toàn diện và với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển toàn diện của
con người, đồng thời là một quan điểm lý luận căn bản về sự phát triển mang
tính phù hợp và phổ biến. Tác giả cho rằng, tính quan hệ mật thiết với thực
tiễn và tính nghiêm túc chỉnh thể của lý luận là một đặc điểm quan trọng của
quan điểm phát triển khoa học.
Quan điểm phát triển khoa học lấy con người làm gốc được xây dựng trên
thực tiễn của Trung Quốc đương đại, đồng thời so sánh với thành quả tích
cực của sự phát triển văn minh thế giới, lựa chọn thái độ tiếp thu có phân
tích đối với nhiều tư tưởng có giá trị trong lý luận phát triển đã từng có. Về
điểm này, có thể dễ dàng nhận thấy trong lược thuật diễn biến lịch sử về
quan điểm phát triển đã được đề cập ở phần trên của bài viết này. Không chỉ
nhận thấy tính liên tục của diễn biến lịch sử này trong nội dung của Quan
điểm phát triển tổng hợp, Quan điểm phát triển lấy con người làm trung
tâm, Quan điểm phát triển liên tục; hơn nữa, trong Lý luận tăng trưởng kinh
tế thời kỳ đầu sau thế chiến thứ 2 cũng không phải hoàn toàn sai, lý luận
tăng trưởng kinh tế đơn thuần đương nhiên là không đúng, nhưng cũng
không thể nói trong đó không có bất kỳ thành phần hợp lý nào. Ví dụ nói
“tăng trưởng”, đơn giản là quy kết sự phát triển của xã hội thành tăng trưởng
kinh tế, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nên đánh một cái dấu,
điều này đương nhiên không thể thực hiện; bởi nó đã coi nhẹ các nhân tố
khác mang lại sự phát triển, quên mất sự phát triển toàn diện của xã hội và
kết quả là dẫn tới chỗ “có tăng trưởng nhưng không phát triển”. Nhưng điều
này cũng không có nghĩa rằng, dường như phải xa rời sự tăng trưởng kinh tế
thì mới là nói tới sự phát triển; nếu đúng như vậy, thì nhất định đó là nói
suông với phát triển. Trong lời nói đầu cuốn Quan điểm phát triển mới của
F.Perroux giải thích “Phát triển là vừa chỉ hoạt động phát triển, vừa có ý
nghĩa trạng thái của kết quả”
(6)
. Quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển như
thế nào? “Tăng trưởng là một chỉ tiêu của quy mô, nó có ý nghĩa tự thân từ
trong sự phát triển, sự phát triển này tuy có sự khác biệt với tăng trưởng,
nhưng vẫn xoay quanh nó, đồng thời khi đạt được tiến triển trong sự tăng
trưởng sẽ thể hiện rõ hiệu quả và lợi ích của bản thân”
(7)
. Điều này có nghĩa
là hoạt động “phát triển” không có kết quả, không có ý nghĩa. Tuy nhiên,
phát triển không tương đồng với tăng trưởng, hai khái niệm này có sự khác
biệt, nhưng có điều phát triển phải xoay quanh tăng trưởng, chứ không phải là
trốn tránh hoặc đào thải tăng trưởng; đồng thời, chỉ khi có tiến triển trong tăng
trưởng thì mới có thể thể hiện rõ hiệu quả và lợi ích, đó chính là đạt đến sự
phát triển có kết quả.
Từ đó, có thể thấy rằng, một mặt, tính khác biệt giữa tăng trưởng và phát
triển khiến chúng ta không thể làm lẫn lộn hai khái niệm này; mặt khác, tính
thống nhất của hai khái niệm cũng khiến chúng ta không thể tách rời chúng
một cách tuyệt đối. Ngày nay, chúng ta nói về một khái niệm tương tự như
vậy - phát triển toàn diện không có nghĩa là không cần đến tăng trưởng, bởi
tăng trưởng kinh tế là cơ sở để phát triển cái khác. Nói phát triển hài hoà
không có nghĩa là tăng trưởng bình quân, mà coi xây dựng kinh tế vẫn là nội
dung quan trọng của quan điểm phát triển khoa học. Vì thế dễ dàng nhận
thấy rằng, so sánh và tiếp thu thành quả tích cực trong lý luận phát triển đã
có là một đặc trưng của quan điểm phát triển khoa học lấy con người làm
gốc.
Một đặc điểm quan trọng của quan điểm phát triển khoa học là đưa khái
niệm “lấy con người làm gốc” vào trong phạm trù của quan điểm phát triển,
đồng thời đặt nó ở vị trí đặc biệt quan trọng.
“Lấy con người làm gốc” là bản chất và trung tâm, đồng thời cũng là một
nguyên tắc cơ bản của quan điểm phát triển khoa học. Kiên trì quan niệm lấy
con người làm gốc thể hiện việc coi lợi ích của nhân dân là điểm xuất phát
và mục đích cuối cùng. Đó là bản chất và nguyên tắc cơ bản của quan điểm
phát triển. Tương tự như vậy, “toàn diện”, “hài hoà”, “có thể lâu dài”, “thống
nhất trù hoạch” mang ý nghĩa quản lý, thể hiện đặc trưng mới của quan điểm
phát triển khoa học này.
Nhiều năm qua, người ta đã không ngừng thảo luận về vấn đề phát triển và
cuối cùng đã đạt đến nhận thức chung: “Phát triển ngày càng được coi là một
sự giác ngộ của tư tưởng xã hội.”
Con người ý thức được rằng, địa vị chủ thể trong dòng phát triển lịch sử của
chính mình đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài. Ở đây, chúng ta chỉ muốn
nhấn mạnh, trong cách nhìn nhận của quan điểm duy vật lịch sử, tính quy luật
khách quan của lịch sử phát triển không bị chi phối bởi ý chí của con người,
nó thống nhất với vai trò và địa vị của con người trong lịch sử phát triển.
Không có hoạt động sáng tạo lịch sử của con người, thì sẽ không có lịch sử.
“Lịch sử chẳng qua là hoạt động theo đuổi mục đích của chính con người mà
thôi”
(8)
. Nhưng hoạt động của con người lại chịu sự chi phối của điều kiện
khách quan, điều kiện lịch sử khách quan xác định mà mỗi thế hệ con người
gặp phải, bất kỳ người nào cũng đều không thể tuỳ tiện sáng tạo lịch sử theo
ý muốn của mình. Quy luật khách quan của lịch sử phát triển không nằm
ngoài hoạt động của con người, mà thể hiện thông qua hoạt động của con
người. Tính quy luật khách quan của lịch sử phát triển và tính mục tiêu của
sự theo đuổi trong hoạt động lịch sử của con người là sự thống nhất nội tại.
Lịch sử đã chỉ ra rằng, bất luận là giới tự nhiên hay điều kiện lịch sử đã định
trước mà hạn chế hoạt động và khả năng của con người đều có ý nghĩa song
trùng. Một mặt, nó hạn chế khả năng phát huy đặc tính tự do và khả năng thể
hiện lực lượng bản chất của nhân loại, làm cho con người cảm nhận được
tính hữu hạn của mình với tính cách chủ thể, đó là tính hữu hạn của khả năng
nhận thức và cải tạo thế giới vốn có của con người; mặt khác, hạn chế này lại
là bước ngoặt chuyển hoá và là con đường phát huy, phát triển năng lực bản
chất nhân loại. Không có hạn chế này, năng lực bản chất nhân loại không thể
được phát huy, sự phát triển tự do và toàn diện của con người cũng mất đi
gốc rễ. Dễ dàng thấy rằng, tính mục đích hợp lý, tính quy luật hợp lý của con
người trong hoạt động lịch sử là thống nhất nội tại, cơ sở thống nhất là thực
tiễn. Bởi thực tiễn là phương thức tồn tại của con người, là cơ sở để con
người có thể phát huy và phát triển năng lực bản chất của mình. Vì vậy, con
người được nói tới trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử là con
người thực hiện hoạt động thực tiễn, chứ không phải là con người trừu
tượng.
Xác định lấy con người làm nguyên tắc quan trọng và yêu cầu cơ bản của
quan điểm phát triển khoa học, dù trong cách đặt vấn đề hay trong hàm ý
cũng đều mang một ý nghĩa mới. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã
nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa cộng sản là “liên minh của những người tự do”,
“trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”(9); đồng thời chỉ rõ xã hội tương lai sẽ là “hình
thức xã hội với sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là nguyên tắc
cơ bản”(10). Quan điểm phát triển khoa học đưa nguyên tắc quan trọng lấy
con người làm gốc vào trong quan điểm phát triển, xác định việc thúc đẩy sự
phát triển toàn diện của con người là mục tiêu, đưa thực tiễn hiện thực của
việc không ngừng tạo điều kiện cho lý tưởng cao đẹp trong tương lai vào nội
dung của quan điểm phát triển. Điều này đã làm cho mục tiêu của quan điểm
phát triển trở nên rất rõ ràng và con đường, quá trình cũng như điều kiện
thực hiện mục tiêu cũng rất hiện thực, cụ thể. Cái mà quan điểm phát triển
này cần không phải là phát triển để phát triển, mà là thực hiện sự phát triển
toàn diện của con người để tìm tòi và thúc đẩy sự phát triển. Thực sự bảo
đảm quyền lợi kinh tế, chính trị và văn hoá của quần chúng nhân dân, đưa
các thành quả của sự phát triển đến với toàn thể nhân dân - đó vừa là việc lựa
chọn chính sách thực hiện, vừa là sự thể hiện cụ thể của nguyên tắc lấy con
người làm gốc.
Ngày nay, trong tiến trình toàn cầu hoá diễn ra không ngừng cũng như khoa
học - kỹ thuật thay đổi và phát triển nhanh chóng, những vấn đề mà nhân
loại cùng phải đối mặt cũng ngày càng nhiều, sự giao lưu qua lại giữa các
quốc gia, giữa các vùng lãnh thổ diễn ra sôi động chưa từng thấy. Với những
điều kiện trên, nguyên tắc “lấy con người làm gốc” và trào lưu phát triển thời
đại thống nhất là một. Xác định “lấy con người làm gốc” sẽ giúp cho chúng
ta thu được nhiều lợi ích trong giao lưu quốc tế và có vị trí chủ động. Mặt
khác, sự xuất hiện của xã hội thông tin, các hình thức kinh tế mới, điều kiện
lịch sử mới đã làm hiện rõ địa vị chủ thể của con người, thể hiện tinh thần,
trí tuệ, tố chất của con người ngày càng có ý nghĩa động lực to lớn và trực
tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong tình hình đó, đưa khái
niệm “lấy con người làm gốc” vào trong phạm trù quan điểm phát triển khoa
học có ý nghĩa quan trọng và sâu sắc. Quan điểm phát triển khoa học lấy con
người làm gốc là bước tiến triển trọng đại của lý luận phát triển, là thành quả
lý luận mang tính đặc trưng của thời đại.r
Người dịch: ThS. TRẦN THUÝ NGỌC
(Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội)
(*) Bài đăng trên Nhân dân nhật báo, số ra ngày 10 - 8 - 2004.
(1) F.Perroux. Quan điểm phát triển mới. Nxb Hoa Hạ, 1987, tr.1 (tiếng
Trung).
(2) F.Perroux. Sđd., tr.2-3.
(3) Đặng Tiểu Bình tuyển tập, q.3, Nxb Nhân dân, 1993, tr.116.
(4) Đặng Tiểu Bình tuyển tập. Sđd., q.3, tr.131.
(5) Đặng Tiểu Bình tuyển tập. Sđd., q.3, tr.131.
(6) F.Perroux. Quan điểm phát triển mới. Nxb Hoa Hạ, 1987, tr.10.
(7) F.Perroux. Sđd., tr. 3.
(8) Tổ chức giáo dục khoa học văn hoá của Liên hợp quốc: Quy hoạch giữa
kỳ giai đoạn 1977 - 1982, Trích từ: F.Perroux. Quan điểm phát triển mới,
Nxb Hoa Hạ, 1987, tr.112.
(9) Friedrich Engels – Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyển tập, q.1. Nxb Nhân
dân, 1995, tr. 294 (tiếng Trung).
(10) Friedrich Engels – Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyển tập, q.23. Nxb Nhân
dân, 1995, tr. 649 (tiếng Trung).