Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 140 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

----o0o----

PHẠM BÙI PHƯƠNG UYÊN

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ VỀ NHÂN THÂN
GIỮA VỢ, CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH

CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẠM BÙI PHƯƠNG UYÊN
MSSV: 1853801012227

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ VỀ NHÂN THÂN
GIỮA VỢ, CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH

GVHD: THS. LÊ THỊ MẬN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2022



LỜI CẢM ƠN

Con cám ơn ba, mẹ đã luôn hết lòng yêu thương, ủng hộ và là chỗ dựa tinh
thần cho con trong suốt quá trình trưởng thành. Em cám ơn chị gái đã luôn ở bên em,
bao dung và hỗ trợ em hết mình.
Em xin được gửi lời cám ơn đến Ths. Lê Thị Mận – Giảng viên khoa Luật Dân
sự, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, người đã ln tận tình và hết mực
kiên nhẫn trong suốt quá trình hướng dẫn và giúp đỡ em hồn thành khóa luận. Em
đã nhận được rất nhiều lời động viên, động lực phấn đấu và sự chỉ bảo từ cơ. Em kính
chúc cơ thật nhiều sức khỏe và ngày càng thành công hơn trong công việc.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung trong Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả
của q trình tổng hợp, nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
Ths. Lê Thị Mận. Các số liệu tham khảo được sử dụng trong khóa luận đảm bảo tính
chính xác và trung thực, tuân thủ quy định về trích dẫn và chú thích tài liệu tham
khảo.
Tơi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 6 năm 2022
Sinh viên

Phạm Bùi Phương Uyên


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT....................................................................................5
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ VỀ NHÂN THÂN GIỮA VỢ, CHỒNG ....................11
1.1. Khái quát về quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng ....................11
1.1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng ........................11
1.1.2. Đặc điểm của quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng ..................13
1.1.3. Ý nghĩa của cơ chế pháp lý về quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ,
chồng ......................................................................................................................14
1.1.4. Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng .............15
1.1.5. Nguyên tắc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ,
chồng ......................................................................................................................18
1.1.6. Lược sử pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ,
chồng ......................................................................................................................19
1.2. Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ,
chồng .........................................................................................................................24
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ mang tính chất tình cảm riêng tư giữa vợ, chồng ........24
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ mang tính chất tự do, dân chủ ......................................28
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................40
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ VỀ NHÂN
THÂN CỦA VỢ CHỒNG ......................................................................................41
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ nhân thân mang tính
tình cảm riêng tư giữa vợ, chồng ...........................................................................41
2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ chung thuỷ ..................................41
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ giữa vợ và
chồng ......................................................................................................................47
2.1.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ sống chung .................................53
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ nhân thân mang tính tự
do, dân chủ ...............................................................................................................58
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền bình đẳng giữa vợ, chồng...............58



2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền, nghĩa vụ học tập, làm việc, tham gia
hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội .........................................................62
2.2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền, nghĩa vụ về nhân thân khác giữa vợ
và chồng .................................................................................................................64
2.3. Nguyên nhân của bất cập và một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện
quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng .....................................................66
2.3.1. Nguyên nhân của bất cập ............................................................................66
2.3.2. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ nhân thân
của vợ, chồng .........................................................................................................68
2.3.3. Kiến nghị giải pháp đảm bảo thi hành pháp luật về quyền và nghĩa vụ nhân
thân của vợ, chồng .................................................................................................73
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

1.

Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân
thực tế


Án lệ số 41

2.

Bộ luật Dân sự

BLDS

3.

Bạo lực gia đình

BLGĐ

4.

Bộ luật Hình sự

BLHS

5.

Bộ luật Tố tụng Dân sự

BLTTDS

6.

Cơng ước về xố bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ 1987


Cơng ước Cedaw

7.

Hơn nhân và gia đình

HNGĐ

8.

Hồng Việt Luật lệ

HVLL

9.

Luật Phịng, chống bạo lực gia đình

Luật PCBLGĐ

10.

Nhà xuất bản

Nxb.

11.

Quốc triều Hình luật


QTHL

12.

Tồ án nhân dân

TAND

13.

Thành phố

TP.

14.

Thơng tư liên tịch

TTLT

15.

Viện kiểm sát

VKS


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Gia đình là cái nơi hình thành nhân cách con người, đóng vai trò là tế bào và
là nguồn gốc của xã hội. Cơng tác xây dựng gia đình vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển bền vững đất nước. Chính vì vậy, việc điều chỉnh các mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình, trong đó, hơn nhân với vai trị là trụ cột tinh thần,
là nền móng tạo lập gia đình là vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của nhà lập
pháp. Việt Nam đã đạt được những thành tựu trong hoạt động xây dựng pháp luật phù
hợp với điều kiện thực tế mà Việt Nam là thành viên. Bên cạnh đó, cơng tác phổ biến,
giáo dục, đưa pháp luật hôn nhân gia đình vào đời sống cũng đạt được kết quả đáng
ghi nhận. Song, xét trong phạm vi quan hệ pháp luật về nhân thân giữa vợ, chồng,
không thể phủ nhận sự tồn tại của các hành vi vi phạm trên thực tế. Cụ thể, việc thực
hiện quyền tự do dân chủ của vợ chồng cũng như quyền lựa chọn nghề nghiệp, quyền
cư trú, quyền bình đẳng giữa vợ chồng cịn gặp nhiều trở ngại. Thực tiễn còn cho thấy
tỷ lệ các cặp vợ chồng hiểu biết sâu và tuân thủ quy định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ nhân thân vẫn cịn chiếm số lượng ít; sự thờ ơ trong việc chấp hành và tơn
trọng pháp luật cịn tồn tại; đồng thời việc xem thường những chế tài dân sự dẫn đến
khó khăn trong việc can thiệp sớm. Việc xâm hại quyền và nghĩa vụ về nhân thân của
vợ chồng không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ thể chất, tinh thần, tiền bạc của các bên
trong quan hệ mà còn tác động theo hướng tiêu cực đến hoạt động quản lý an ninh xã
hội.
Trong hai năm trở lại đây, tình hình dịch bệnh Covid-19 đã tạo ra những tác
động khơng nhỏ lên nền kinh tế xã hội nước ta. Trong giai đoạn thực hiện giãn cách
xã hội, gia đình trở thành nơi sinh hoạt chủ yếu của các thành viên. Điều này mở ra
cơ hội giúp các thành viên được thực hiện việc quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.
Song cũng đồng thời làm bùng phát những mâu thuẫn gia đình. Đặc biệt, trong mối
quan hệ giữa vợ, chồng, việc gia tăng tần suất gặp mặt nhau, phân chia công việc nhà
khơng đồng đều, thói quen sinh hoạt khơng phù hợp… đã trở thành những nguyên
nhân chính dẫn đến những xung đột và phát sinh hành vi xâm hại quyền và nghĩa vụ
nhân thân đối với nhau. Pháp luật dần bộc lộ những hạn chế nhất định trong việc điều
chỉnh quan hệ mang tính chất tình cảm riêng tư giữa vợ, chồng cũng như quan hệ
mang tính chất tự do dân chủ giữa vợ và chồng.


1


Theo thống kê của cơ quan chức năng, các vụ việc hơn nhân gia đình mà Tồ
án thụ lý và giải quyết trong các năm 2020, 2021 có chiều hướng giảm so với cùng
kỳ các năm trước.1 Tuy nhiên, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2021, số các cuộc gọi vào
Tổng đài của Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã
tăng khoảng 140% so với năm 2020, trong đó 83% các cuộc gọi liên quan đến chủ
thể là vợ chồng2. Đáng quan ngại là hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ nhân thân
giữa vợ và chồng, không chỉ được phản ánh thông qua các số liệu, các vụ việc thể
hiện trong bản án, quyết định của Tồ án mà cịn diễn ra tiềm ản trong xã hội, gây
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của các bên trong quan hệ vợ chồng. Và điều
này đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc rà sốt, hồn thiện pháp luật nhằm tạo hành
lang pháp lý an toàn, đồng bộ điều chỉnh hiệu quả quan hệ nhân thân giữa vợ, chồng.
Cũng từ lý do đó, việc tiếp cận nghiên cứu vấn đề “QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ VỀ
NHÂN THÂN GIỮA VỢ, CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH”
ở góc độ một khố luận tốt nghiệp (mà tác giả chọn lựa nghiên cứu) sẽ giải quyết
được những yêu cầu cơ bản mà thực tiễn xã hội đã đang đặt ra. Khoá luận tập trung
nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về quan hệ nhân thân giữa vợ, chồng; nội dung
quy định pháp luật hiện hành; những khuyết thiếu còn tồn tại trong pháp luật, cũng
như các vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật quyền và nghĩa vụ về nhân thân
giữa vợ, chồng. Từ đó, tác giả mong muốn thơng qua cơng trình nghiên cứu này kiến
nghị những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tích cực quyền, nghĩa vụ về nhân thân
giữa vợ, chồng.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước liên quan đến đề tài
Từ lâu, việc điều chỉnh quan hệ nhân thân đã là nội dung quan trọng và cấp
thiết đối với nền lập pháp của nhiều quốc gia đã và đang phát triển, mang ý nghĩa gắn
liền với việc nội luật hoá các điều ước quốc tế về quyền con người. Từ đây, quyền và
nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng cũng trở thành đề tài được khai thác rộng rãi

ở Việt Nam và trên thế giới. Sau đây là một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu liên
quan đến quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng:
Toà án nhân dân tối cao (2021), “Báo cáo tổng kết công tác năm 2021 và phương hướng, nhiệm vụ trọng
tâm cơng tác năm 2022 của các Tồ án”, Cổng thơng tin điện tử Tồ án nhân dân tối cao,
truy
cập lần cuối ngày 12/6/2022
2
Trung tâm Phụ nữ và Phát triển (2021), “Ngơi nhà bình n – địa chỉ tạm lánh an toàn cho nạn nhân bị bạo
lực”, truy cập lần cuối ngày 22/6/2022
1

2


2.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Luận án Tiến sĩ Triết học: “Essays on gender, marriage and inequality”, được
thực hiện bởi tác giả Emily Fitzgibbons Shafer, thuộc Stanford University thực hiện
vào năm 2010. Tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề liên quan đến giới tính,
hơn nhân và bất bình đẳng giới. Cụ thể, cơng trình đề cập quyền và nghĩa vụ lao động
trong quan hệ hôn nhân (khả năng tìm kiếm việc làm, mức lương hưởng, sự khác biệt
trong lĩnh vực nghề nghiệp, phân chia công việc gia đình…); phân tích cơ chế xác
định lai lịch pháp lý (quyền giữ họ và tên của cá nhân vợ chồng) sau khi kết hôn theo
pháp luật của một số nước; từ đó, tác giả làm đưa ra các bình luận về những vấn đề
được nghiên cứu, dưới góc nhìn đề cao bình đẳng giới.
Bài viết “The abolition of the adultery law in South Korea” đăng trên tạp chí
Asian Journal of Women’s Studies, được thực hiện bởi hai tác giả Jae Joon Chung,
Junxia Liu (2018). Trong bài viết, nhóm tác giả đã tiến hành phân tích nghĩa vụ chung
thuỷ theo quy định pháp luật Hàn Quốc, trong tiến trình lập pháp từ quá khứ đến hiện
tại; lý giải những yếu tố tác động đến lựa chọn phi hình sự hố tội ngoại tình, đồng
thời đưa ra quan điểm đối với vấn đề này. Với phương pháp nghiên cứu so sánh, bài

viết còn cho thấy sự khác biệt ở những mức độ nhất định trong pháp luật Hàn Quốc
và pháp luật một số nước khác trên thế giới như Vương Quốc Anh, Hợp Chủng Quốc
Hoa Kỳ, các pháp luật một số quốc gia khu vực Châu Á khác từ đó đánh giá và kiến
giải pháp lý phù hợp trong việc điều chỉnh nghĩa vụ chung thuỷ giữa vợ chồng.
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Nhóm giáo trình, sách chun khảo, luận văn
Đề tài Nghiên cứu khoa học sinh viên: “Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh
vực hơn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam” được thực hiện bởi
tác giả Nguyễn Thị Thu Hương và Hoàng Thị Trang (2019). Trong cơng trình này,
các tác giả đã tập trung nghiên cứu một số quyền và nghĩa vụ về nhân thân cơ bản
giữa vợ và chồng như quyền kết hôn, ly hơn; quyền bình đẳng; nghĩa vụ chung thuỷ;
quyền xác định cha, mẹ, con; quyền ni con ni. Cơng trình đã chỉ ra một số thành
tựu cũng như hạn chế trong hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính và
tư pháp; phân tích nguyên nhân chủ quan và khách quan; từ đó đề xuất một số giải
pháp như bổ sung quy định về thay đổi thông tin cha, mẹ trong giấy khai sinh của

3


con; quy định cụ thể các biện pháp, phương thức bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh
vực hôn nhân gia đình.
Luận văn thạc sĩ Luật học được thực hiện bởi tác giả Nguyễn Như Ngọc
(2014): “Quyền bình đẳng về nhân thân giữa vợ và chồng theo pháp luật Việt Nam”.
Tác giả tiến hành nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quan hệ nhân thân giữa vợ
và chồng, được tiếp cận dưới góc độ quyền bình đẳng. Luận văn chỉ rõ những vướng
mắc còn tồn tại như nạn bạo lực, bất bình đẳng trong khả năng tham chính, trong việc
tham gia quan hệ xã hội, phân công lao động giữa vợ và chồng… Thơng qua việc tìm
hiểu quy phạm pháp luật và tham khảo kinh nghiệm từ các nước trong khu vực, kết
hợp với việc phân tích thực tiễn và đánh giá số liệu thống kê, tác giả đưa ra một số
đề xuất đáng chú ý như: sửa đổi quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm

2015 điều chỉnh tỷ lệ thương tật áp dụng đối với các chủ thể đặc biệt như vợ chồng;
bổ sung biện pháp buộc lao động cơng ích vào Luật PCBLGĐ; xem xét việc quy định
chế tài dân sự đối với người ngoại tình khi ly hơn, xét hành vi ngoại tình là một tình
tiết tăng nặng để khơng được ưu tiên nuôi con sau ly hôn…
Luận văn thạc sĩ Luật học: “Bình đẳng giới trong pháp luật hơn nhân và gia
đình” được thực hiện bởi tác giả Nguyễn Thị Hoàng Giang (2014). Thông qua luận
văn, một số quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng đã được tác giả phân
tích và bàn luận dưới góc độ bình đẳng giới; cơng trình giúp người đọc có cái nhìn
tổng quan về những giá trị tiến bộ mà pháp luật hôn nhân và gia đình đã đạt được và
những bất cập còn tồn tại trên thực tế như một số quy định vẫn cịn mang tính hình
thức, chưa đảm bảo tính khả thi, một số quan hệ liên quan bình đẳng giới phát sinh
nhưng chưa được điều chỉnh… Một số kiến nghị của đề tài được quan tâm như cần
bổ sung quy định buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong thời kỳ hôn nhân đối với
những trường hợp vợ hoặc chồng từ chối thực hiện nghĩa vụ này; xây dựng quy định
điều chỉnh chế định ly thân nhằm đảm bảo hạn chế tối đa nạn bạo lực gia đình ảnh
hưởng lên người yếu thế.
Khố luận tốt nghiệp: “Bình đẳng giới trong gia đình” được thực hiện bởi tác
giả Cao Đăng Huy (2012). Trong khoá luận này, tác giả làm rõ những vấn đề chung
về bình đẳng giới trong gia đình - một phần quan trọng liên quan đến nội dung đề tài
quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng. Tác giả nghiên cứu thực tiễn áp
dụng pháp luật, chỉ ra bất cập và nguyên nhân trong tư tưởng và định kiến xã hội, từ
đó đề xuất giải pháp cải cách pháp luật điều chỉnh nạn bạo lực gia đình như bổ sung

4


hình phạt lao động cưỡng bức đối với người gây ra bạo lực, buộc tham gia các lớp
tập huấn về kiến thức bạo lực gia đình; tăng mức xử lý nghiêm khắc đối với các chủ
thể có hành vi chọn lựa giới tính thai nhi; tăng cường thực hiện tuyên truyền pháp
luật, nâng cao trình độ hiểu biết kiến thức về bình đẳng giới đối với mọi đối tượng.

Nhóm bài báo, tạp chí
Bài viết “Nghĩa vụ chung thủy của vợ chồng nhìn từ góc độ xã hội và pháp lý”
được thực hiện bởi tác giả Nguyễn Thị Lan, đăng trên Tạp chí Luật học (Số đặc san
về bình đẳng giới) vào năm 2005. Bài viết phân tích “nghĩa vụ chung thuỷ” trong
từng giai đoạn hình thành nhà nước và pháp luật, chỉ ra mối tương quan giữa nghĩa
vụ tuân thủ pháp luật và tình cảm mang tính chất bản năng của con người – nguồn
gốc xây dựng hôn nhân của xã hội hiện đại. Tác giả làm sáng tỏ khái niệm “ngoại
tình” thơng qua việc liệt kê những dạng hành vi, phân tích một số quan điểm xoay
quanh thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành, từ đó chỉ ra những bất cập còn tồn tại
trong việc xử lý vi phạm.
Bài viết “Một số khía cạnh về giới trong pháp luật điều chỉnh quan hệ vợ chồng
cần quan tâm khi giảng dạy mơn học Luật Hơn nhân và gia đình” được thực hiện bởi
tác giả Nguyễn Phương Lan (2007), đăng trên Tạp chí Luật học, (03). Trong bài viết,
tác giả phân tích tổng qt về quyền bình đẳng giới ở cả hai nội dung: quyền nhân
thân và quyền tài sản. Đối với khía cạnh quyền nhân thân, tác giả đã tiếp cận nghĩa
vụ chung thuỷ; quyền bình đẳng trong quan hệ tình dục; quyền tự do lựa chọn việc
làm mẹ, sinh con… dưới góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật song song với việc phân
tích tâm lý của cả hai giới. Bài viết sẽ là nguồn tham khảo hữu ích đối với tác giả khi
triển khai chương 1.
Bài viết “Pháp luật phịng chống bạo lực gia đình ở Singapore nhìn từ góc độ
bảo vệ quyền của phụ nữ”, của tác giả Nguyễn Tuyết Mai (2010) đăng trên Tạp chí
Luật học, (02). Trong bài viết, tác giả đưa ra khái niệm về “bạo lực gia đình” dưới
góc độ nghĩa thơng thường và pháp lý, sau đó tiến hành phân tích các quy định pháp
luật Singapore và những Điều ước quốc tế quan trọng điều chỉnh vấn đề này. Bên
cạnh việc thu thập số liệu thực tế, tác giả đã tóm tắt quá trình lập pháp của Singapore
về bảo vệ quyền phụ nữ trong vấn nạn bạo lực gia đình, từ đó rút ra kinh nghiệm cho
các quốc gia châu Á có đặc điểm văn hố, truyền thống, tín ngưỡng tương đồng với
Singapore.

5



Bài viết “Một số khía cạnh pháp lý về quyền của phụ nữ ở nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa” của tác giả Trần Thị Huệ (2011) đăng trên Tạp chí luật học,
số 02. Bài viết phân tích các vấn đề liên quan đến quyền của phụ nữ theo pháp luật
Cộng hồ Nhân dân Trung Hoa, ở các khía cạnh như quyền lao động, quyền sở hữu,
quyền thừa kế, và quyền nhân thân trong xã hội nói chung và trong quan hệ hơn nhân
và gia đình nói riêng. Tác giả chỉ ra những quy định của pháp luật mang ý nghĩa
hướng đến bảo vệ quyền phụ nữ, điểm sáng của q trình lập pháp, đồng thời phân
tích dựa trên số liệu thực tế. Bài viết là nguồn tham khảo hữu ích đối với tác giả khi
nghiên cứu pháp luật nước ngoài tại Chương 2 của đề tài.
Bài viết “Bảo vệ quyền làm mẹ trong quan hệ hôn nhân và gia đình” đăng trên
Tạp chí Luật học (11), của tác giả Nguyễn Phương Lan (2014). Bài viết phân tích
những vấn đề liên quan đến quyền làm mẹ - quyền nhân thân quan trọng của người
phụ nữ. Tác giả đi sâu phân tích những cách thức thực hiện quyền làm mẹ như quyền
sinh con và xác định cha mẹ cho con, quyền áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, quyền
nhờ mang thai hộ, quyền nhận ni con ni… Từ đó, tác giả đề xuất một số giải
pháp nổi bật như: bổ sung một số quy định điều chỉnh vấn đề bình đẳng giữa vợ chồng
trong việc thực hiện quyền làm cha, làm mẹ (thoả thuận lựa chọn biện pháp tránh
thai, quyết định sinh con hoặc không sinh con…), những nội dung cần chứng minh
trong quá trình xác định cha cho con, biện pháp bảo đảm quyền thăm nom, chăm sóc
con sau ly hơn.
Bài viết “Quyền và lợi ích hợp pháp của người cao tuổi trong các quan hệ hôn
nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn Thị Lan (2017), đăng trên Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số định kỳ 05 (302). Thông qua bài viết, tác giả tiến hành phân tích quyền
và lợi ích của người cao tuổi trong nhóm quan hệ vợ chồng và cha mẹ con. Trong các
phân tích liên quan đến quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, tác giả chỉ ra những vấn
đề còn hạn chế trong việc áp dụng pháp luật trên thực tiễn đối với nghĩa vụ chung
sống, tơn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau.
Bài viết “Bảo đảm quyền tham chính của phụ nữ - Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn” của tác giả Mai Thị Diệu Thuý (2019), đăng trên Tạp chí Pháp luật và thực
tiễn, số 41. Bài viết phân tích các chế định đảm bảo thực hiện quyền tham chính của
phụ nữ dưới các góc độ về chính trị, kinh tế, pháp lý, văn hố – xã hội; nhận diện
những rào cản và thách thức còn tồn tại trong thực tiễn thực thi pháp luật làm cơ sở

6


để đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tham chính
của phụ nữ.
Bài viết “Vai trò và vị thế của người phụ nữ Nhật Bản trong gia đình hạt nhân
hiện nay: So sánh, đối chiếu với Việt Nam” của các tác giả Lưu Thị Thu Thuỷ, Bùi
Thị Minh Phương, Bùi Thị Hồng (2019), đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và
Giới, số 4. Bài viết chỉ ra những thay đổi to lớn trong vị thế của người phụ nữ Nhật
Bản, đặt trong sự so sánh với vai trị và vị trí của người phụ nữ tại Việt Nam. Bài viết
tập trung phân tích, đánh giá những đóng góp của người phụ nữ về mặt kinh tế, tổ
chức đời sống gia đình và khả năng tham gia các hoạt động văn hố, chính trị khác
trong xã hội. Khơng chỉ đưa ra cái nhìn tồn diện về lược sử lập pháp điều chỉnh vai
trị và vị thế của người phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội; các tác giả cịn dẫn
chứng những số liệu thống kê cụ thể, đảm bảo tính khách quan cho lập luận.
Bài viết “Quy định mới về các tội xâm phạm chế độ hơn nhân và gia đình trong
Bộ luật Hình sự năm 2015” được hồn thành bởi tác giả Nguyễn Văn Cừ (2019), đăng
trên Tạp chí Pháp luật và thực tiễn, số 38. Bài viết bàn luận về những ưu điểm và bất
cập còn tồn tại trong quy định pháp luật hình sự điều chỉnh những tội xâm phạm chế
độ hơn nhân gia đình, từ đó đưa ra một số kiến nghị như bổ sung các tiêu chí xác định
trường hợp “nam, nữ sống chung như vợ chồng” là hành vi vi phạm pháp luật; bổ
sung trường hợp ngoại lệ không bị xem là hành vi phạm tội khi người mang thai hộ
không phải là chị, em cùng hàng với bên vợ, bên chồng nhưng khơng vì mục đích
thương mại…
Có thể nhận thấy vấn đề nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ

chồng từ lâu đã nhận được sự quan tâm một cách phù hợp. Không thể phủ nhận là ở
mức độ nhất định, các bài viết, cơng trình nghiên cứu đã phân tích được các quy định
của pháp luật trong từng thời kỳ, thực tiễn áp dụng và đưa ra một số đề xuất cụ thể
có giá trị nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng. Tuy
nhiên, những nghiên cứu này chủ yếu được công bố vào giai đoạn từ năm 2019 trở
về trước, phần lớn được thực hiện với mục đích so sánh Luật Hơn nhân và gia đình
trước và sau đổi mới, hoặc giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài. Đồng
thời, có thể do dung lượng của bài viết và thời gian nghiên cứu không cho phép nên
những bài viết này thường thiếu đi sự cân bằng về đối tượng nghiên cứu (chủ yếu
nghiên cứu các chế định bảo vệ quyền nhân thân của người phụ nữ), hoặc chưa có sự
bao quát đối với những vấn đề trong lĩnh vực thuộc đề tài khố luận (có cơng trình

7


chỉ bàn về quyền bình đẳng giới trong gia đình, quyền bình đẳng về nhân thân trong
quan hệ hơn nhân, có cơng trình lại đi sâu vào khía cạnh bạo lực gia đình, cũng có
những bài viết tiếp cận từng vấn đề riêng lẻ như nghĩa vụ chung thuỷ, chung sống…).
Mặt khác, trong thời gian thực hiện khoá luận (2021-2022), do ảnh hưởng của tình
hình dịch bệnh Covid-19, thực tiễn xã hội đã có nhiều thay đổi dẫn đến những vướng
mắc liên quan đến các chế định điều chỉnh quan hệ hơn nhân gia đình càng bộc lộ rõ
nét hơn sự đòi hỏi được quan tâm, nghiên cứu kịp thời và đầy đủ.
3. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc nghiên cứu đề tài “Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ
và chồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành”, tác giả mong muốn làm rõ cơ sở lý
luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến quan hệ nhân thân giữa vợ
và chồng; từ đó, kiến nghị những giải pháp góp phần bảo vệ những chủ thể trên một
cách tốt nhất.
Để đạt được mục đích này, tác giả đặt ra những nhiệm vụ quan trọng cần hoàn
thành như sau:

Thứ nhất, xây dựng hệ thống lý luận về quyền, nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ,
chồng. Trong đó, tác giả phân tích, làm sáng tỏ khái niệm và đặc trưng của quan hệ
nhân thân giữa vợ, chồng. Tìm hiểu những quan điểm và cách thức điều chỉnh đối
với hai nhóm quyền và nghĩa vụ về nhân thân cơ bản: quyền và nghĩa vụ mang tính
chất tình cảm riêng tư, quyền và nghĩa vụ mang tính tự do, dân chủ trong tiến trình
lịch sử lập pháp của nước ta. Tiến hành làm rõ nội dung quy định pháp luật điều chỉnh
vấn đề này; từ đó đánh giá ưu điểm và hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Thứ hai, thông qua việc dẫn chứng các số liệu thống kê và một số hành vi xâm
phạm phổ biến đến quyền nhân thân trong quan hệ hôn nhân gia đình, tác giả đánh
giá về tính hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền;
Thứ ba, tham khảo xu hướng lập pháp của một số quốc gia trên thế giới nhằm
tìm ra bản chất, vị trí, vai trị của các quy định về bảo vệ quyền, nghĩa vụ nhân thân
quan hệ hôn nhân gia đình. Từ đó đưa ra gợi mở và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
trên cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu trong đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

8


Đối tượng nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng
như những quy định pháp luật hơn nhân gia đình về bảo vệ quyền và nghĩa vụ nhân
thân của vợ chồng; kinh nghiệm từ pháp luật các quốc gia trong khu vực, các nước
phát triển; thực tiễn áp dụng pháp luật, những hành vi xâm phạm, những vướng mắc,
bất cập còn tồn tại trên thực tế cũng như trên khía cạnh quy định pháp luật và chế tài
xử lý được áp dụng tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề quyền và nghĩa vụ
về nhân thân của vợ và chồng trong quan hệ hơn nhân và gia đình giữa công dân Việt
Nam với nhau, theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Nội dung nghiên cứu của khố
luận khơng bao gồm quan hệ về tài sản, tuy nhiên, tác giả vẫn tiến hành phân tích
khía cạnh vật chất phái sinh - trong trường hợp cần thiết nhằm làm rõ quy định liên

quan đến quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng. Quan hệ nhân thân trong
hôn nhân trái pháp luật, hơn nhân có yếu tố nước ngồi, và trong những giai đoạn
nằm ngồi thời kỳ hơn nhân không được đề cập trong đề tài. Về giới hạn cơ chế pháp
lý nghiên cứu, tác giả tập trung phân tích pháp luật hơn nhân và gia đình, riêng đối
với một số vấn đề như chế tài xử lý hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thuỷ, hành vi
bạo lực gia đình… pháp luật hành chính và pháp luật hình sự sẽ được đề cập đến như
một giải pháp pháp lý mang tính răn đe, đảm bảo sự phối hợp liên ngành trong phòng
chống tội phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề về lý luận và các quy định của pháp luật hiện hành nhằm
giải quyết các mục tiêu, vấn đề nghiên cứu đặt ra, tác giả sử dụng phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu quyền và nghĩa
vụ về nhân thân giữa vợ và chồng qua các thời kỳ.
- Phương pháp so sánh được sử dụng khi phân tích sự phát triển của pháp luật
Việt Nam qua các thời kỳ hoặc nhằm làm rõ khác biệt giữa pháp luật nước ngoài và
pháp luật Việt Nam; nhận diện được những vấn đề đã và chưa được giải quyết ở trong
và ngoài nước, những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, từ đó đề xuất phương án giải
quyết phù hợp.

9


- Phương pháp phỏng vấn chuyên sâu được thực hiện với các chuyên gia,
những người hoạt động thực tiễn nhằm ghi nhận tình hình thực tế, những vướng mắc,
bất cập cịn tồn tại.
- Phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu trong xuyên suốt đề tài nhằm
phân tích những vấn đề mang tính lý luận, số liệu thống kê được thu thập, bản án,
quyết định được Toà án ban hành, đồng thời nắm bắt được chính xác ý chí đích thực
của những nhà lập pháp thể hiện thơng qua quy phạm pháp luật.

- Phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng nhằm liên kết và xâu chuỗi các
vấn đề đã được phân tích, phát triển, từ đó khái qt hố các luận điểm nhằm tìm ra
bản chất, giải pháp phù hợp với từng vấn đề. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu
trong phần kết luận từng chương và kết luận chung của khoá luận.
6. Cấu trúc khoá luận
Chương 1: Khái quát chung và pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ về
nhân thân giữa vợ, chồng
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị nhằm bảo đảm
thực hiện quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng

10


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ VỀ NHÂN THÂN GIỮA VỢ, CHỒNG
1.1. Khái quát về quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng
1.1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng
Khái niệm nhân thân
Trong Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, khái niệm nhân thân được hiểu là những
gì thuộc về cá nhân mỗi con người; là đặc điểm về hình thể, tuổi tác, tính cách gắn
liền với cá nhân mỗi con người trong thời điểm hiện tại3. Theo Từ điển tiếng Việt phổ
thông, nhân thân là tổng hợp các đặc điểm về thân thể, tính cách và cuộc sống của cá
nhân một con người, về mặt thi hành pháp luật4.
Từ các khái niệm trên và ở góc độ pháp lý, có thể hiểu nhân thân là tổng hợp
các quan hệ pháp luật ghi nhận sự hiện hữu của một cá nhân trong đời sống pháp lý,
với tư cách là chủ thể của quyền và nghĩa vụ pháp lý. Nói cách khác, nhân thân là
tồn bộ những yếu tố tinh thần phi tài sản thuộc về cá nhân, gắn với mỗi người. Bao
gồm những đặc điểm về tâm lý, xã hội và có thể có một số đặc điểm về sinh học có ý
nghĩa về mặt xã hội, nhân thân được xác định thông qua các yếu tố nhận dạng như họ
và tên, nơi cư trú, dân tộc, quốc tịch, giới tính, tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa,

của cá nhân. Nhân thân là một trong những yếu tố quan trọng xác định lý lịch tư pháp
của mỗi cá nhân. Các yếu tố liên quan đến nhân thân có ảnh hưởng trực tiếp đến hành
vi, nhận thức và cách ứng xử của con người.
Khái niệm quyền và nghĩa vụ nhân thân
Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, nghĩa vụ là “việc phải làm theo bổn phạn
của mình hoặc theo sự phân cơng”5.
Ở góc độ pháp lý, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 xác định “nghĩa vụ là
việc mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả
tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc hoặc khơng được thực hiện cơng việc
nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”6. Theo Giáo trình Luật Dân sự
Việt Nam, “nghĩa vụ theo nghĩa chung nhất là việc mà theo quy định của pháp luật
Từ điển Từ và ngữ Việt Nam (2006), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1318
Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thơng, Nxb. Thành phố Hồ chí Minh, tr. 648
5
Từ điển Từ và ngữ Việt Nam (2006), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1318
6
Điều 274 BLDS năm 2015
3
4

11


hay vì đạo đức mà bắt buộc phải làm hoặc không được làm đối với xã hội, đối với
người khác”7.
Theo Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, “nghĩa vụ pháp lý không
phải là khả năng xử sự mà là sự cần thiết phải xử sự như vậy. Cịn quyền là những
hành vi theo ý chí, nguyện vọng, nhận thức khả năng của mình, được thực hiện những
cơng việc mà pháp luật cho phép8.
Quyền và nghĩa vụ là sự ràng buộc pháp lý giữa ít nhất hai chủ thể trong một

quan hệ pháp luật, xác định một bên phải thực hiện hay không được thực hiện một
công việc nhất định và bên kia được hưởng (quyền) lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ
đó. Hai phía chủ thể trong quan hệ pháp luật gồm một bên có quyền và một bên có
nghĩa vụ và quyền - nghĩa vụ của hai bên đối lập nhau: Quyền của bên này là nghĩa
vụ của bên kia và ngược lại.
Từ các khái niệm luận dẫn trên có thể hiểu, quyền và nghĩa vụ nhân thân là
nội dung của một quan hệ pháp luật luôn gắn với chủ thể và không thể chuyển giao
cho người thứ ba. Xét về mặt bản chất, đây là những giá trị, lợi ích tinh thần phi tài
sản. Quyền và nghĩa vụ nhân thân của cá nhân được xác định theo quy định của pháp
luật.
Khái niệm quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng
Quan hệ vợ chồng được xác lập làm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhân thân và
quyen va nghia vu ve tài sản. Bên cạnh các quyền và nghĩa vụ với xã hội trong tư cá
nhân, tư cách một cơng dân, vợ chồng cịn có quyền và nghĩa vụ với gia đình và đối
với nhau. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ chồng là chuẩn mực đạo đức, cách
ứng xử mang tính tự nhiên và truyền thống được nâng thành luật. Một cách tổng quát,
các quyền và nghĩa vụ về nhân thân tạo ra cuộc sống vợ chồng trong điều kiện cả hai
ràng buộc lẫn nhau trong quan hệ hôn nhân9.
Ở nghĩa khái niệm pháp lý, quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng
là một nội dung của quan hệ vợ chồng được pháp luật hôn nhân và gia đình tác động
điều chỉnh. Trong đó, với tư cách chủ thể phát sinh bởi yếu tố tình cảm đặc biệt, vợ,
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 17
Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.
156
9
Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam: Tập I – Gia đình, Nxb
Trẻ TP. Hồ Chí Minh, tr. 225
7
8


12


chồng phải thực hiện các nghĩa vụ nhân thân đối với nhau và được hưởng quyền –
những lợi ích phi vật chất trong mối tương quan: quyền của bên này là nghĩa vụ của
bên kia và ngược lại. Vợ chồng bình đẳng trong việc thực hiện hoặc kìm chế khơng
thực hiện các hành vi nhất định để mỗi bên được thụ hưởng (quyền) các lợi ích về
tinh thần, sức khoẻ và tình cảm; quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng
được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng
Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng bao gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng là một bộ phận
của quyền dân sự, gắn liền với bản thân vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân. Các
quyền và nghĩa vụ này phát sinh trên cơ sở kết hôn (hoặc việc chung sống như vợ,
chồng và được pháp luật công nhận là vợ chồng); và kết thúc khi quan hệ hôn nhân
chấm dứt. Mỗi cá nhân nói chung đều có quyền được hưởng quyền nhân thân theo
quy định pháp luật. Quan hệ nhân thân trong hôn nhân không bị phụ thuộc, chi phối
bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ, giới tính, tơn giáo, địa vị xã
hội… Đồng thời, chỉ với tư cách là vợ chồng của nhau thì họ mới có các quyền và
nghĩa vụ đó 10.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng không thể chuyển
giao cho người khác. Các quyền dân sự nói chung, quyền nhân thân nói riêng là do
nhà nước quy định cho các chủ thể dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định. Quan hệ nhân thân từ đó mang tính cá biệt hố, khơng thể trộn lẫn, không thể
do người khác thực hiện thay mà phải do đích thân họ thực hiện, hoặc được thực hiện
phụ thuộc vào mối quan hệ vợ, chồng. Vì vậy, về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ về
nhân thân giữa vợ, chồng không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các
cá nhân với nhau.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng là quyền tuyệt đối,
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của cá nhân với

tư cách là vợ chồng được quy định cụ thể tại Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hơn
nhân và gia đình (HNGĐ) năm 2014 và nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành. Không
ai được tự hạn chế hoặc thực hiện việc cản trở, ngăn cấm người khác thực hiện và thụ
Đại học Luật Hà Nội (2017), “Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam”, Nxb Công an nhân dân, tr.
135
10

13


hưởng quyền, nghĩa vụ về nhân thân của họ trong mối quan hệ vợ chồng; trừ trường
hợp luật có quy định khác.
Thứ tư, quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng có tính chất hỗ
tương. Tức quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng được quy định tương ứng
giữa hai bên, quyền của người này chính là nghĩa vụ của người kia và ngược lại. Đặc
điểm này tạo ra mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa hai chủ thể trong suốt thời kỳ hôn
nhân. Mặt khác, do sự tác động của chuẩn mực đạo đức, sự chi phối của yếu tố tình
cảm, huyết thống nên nhiều trường hợp, quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ,
chồng khơng thể tách bạch. Khi đó, quy phạm pháp luật xác định nghĩa vụ cần được
thực hiện của một bên, cũng đồng thời là căn cứ thụ hưởng quyền của họ.
1.1.3. Ý nghĩa của cơ chế pháp lý về quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa
vợ, chồng
Gia đình là tế bào của xã hội, đóng vai trị vô cùng quan trọng trong việc xây
dựng một xã hội ổn định, phát triển. Gia đình cịn là nơi sản sinh ra con người, là cái
nơi hình thành, ni dưỡng và hoàn thiện những phẩm chất đầu tiên của mọi cá nhân.
Có thể nói, gia đình là nhân tố tác động sâu sắc đến quá trình phát triển chung của đất
nước. Ngày nay, cùng với những cải cách dân chủ, thay đổi về kinh tế, xã hội và sự
công nhận rộng rãi đối với tư tưởng bình đẳng giới; mơ hình gia đình hạt nhân dần
gia tăng, chiếm tỉ lệ cao trong xã hội. Gia đình hạt nhân theo cách hiểu đơn giản nhất
là hình thức gia đình gồm một cặp vợ chồng và con cái do họ sinh ra. Sự thay đổi này

đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hơn nhân đối với gia đình: hơn nhân là trụ cột về
mặt nhân thân và tài sản; đồng thời là căn cứ chính làm phát sinh quan hệ pháp luật
giữa các thành viên trong gia đình. Đảm bảo quan hệ hơn nhân phát triển đúng với
giá trị đích thực là góp phần xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, xã hội ổn định,
phát triển. Chính vì vậy, quan hệ hơn nhân nói chung, quyền và nghĩa vụ về nhân
thân giữa vợ, chồng nói riêng càng cho thấy nhu cầu được quan tâm, điều chỉnh nhiều
hơn bởi pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng là lợi ích tinh thần gắn kết hai
cá thể độc lập trở thành một “gia đình”. Việc tồn tại các quy định minh thị về nghĩa
vụ thuỷ chung, chung sống, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau… đóng vai trị quan trọng
trong việc giáo dục và định hướng các bên về trách nhiệm của bản thân đối với việc
xây dựng và gìn giữ hạnh phúc gia đình. Thơng qua đó, là biện pháp hữu hiệu trong

14


việc củng cố quan hệ gia đình, bảo vệ lợi ích chính đáng của các đương sự và trên hết
là bảo vệ cuộc hôn nhân đã xác lập.
Quy định về quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ chồng cịn là cơ sở pháp
lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết các tranh chấp giữa vợ chồng khi có
yêu cầu. Đặc biệt, việc vi phạm các nghĩa vụ nhân thân còn là một trong các căn cứ
quan trọng được Toà án xem xét và đưa vào lập luận, trong quá trình ra phán quyết
chấp nhận hoặc từ chối u cầu ly hơn.
Bên cạnh đó, sự ghi nhận về bình đẳng giới trong quan hệ vợ, chồng có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng. Bởi lẽ, đảm bảo quyền bình đẳng trong phạm vi gia đình là cơ
sở để có được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ ngoài xã hội. Sự ghi nhận của
pháp luật góp phần giải phóng người phụ nữ khỏi những định kiến giới; xoá bỏ dần
những tư tưởng phong kiến lạc hậu như đạo “tam tịng” hay quan niệm người chồng
có quyền gia trưởng, được toàn quyền quyết định mọi vấn đề trong gia đình. Quy
định “vợ chồng bình đẳng về mọi mặt trong gia đình” cịn góp phần xây dựng một

mơi trường sống tích cực cho con trẻ, thúc đẩy sự tự do phát triển cho thế hệ sau –
một lực lượng lao động tiềm năng của đất nước.
Quy định về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng còn trở thành cơ sở nền tảng
thúc đẩy sự phát triển tự do cá nhân và xây dựng đời sống hôn nhân gia đình hạnh
phúc, bền vững đúng với giá trị đích thực của nó. Sau khi kết hơn, vợ chồng khơng
hồ nhập thành một chủ thể duy nhất mà vẫn có những vai trò riêng, nhu cầu riêng
đối với việc theo đuổi nghề nghiệp, nhu cầu cống hiến cũng như mong muốn được
khẳng định vị trí của cá nhân ngồi xã hội. Vì vậy, những quy định về quyền và nghĩa
vụ giữa vợ và chồng trong việc tôn trọng tự do cá nhân (tương đối) giúp các bên ý
thức được mục đích của hơn nhân là hướng đến việc xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh
phúc, khơng tạo ra những ràng buộc và can thiệp phi lý vào quan hệ giữa một bên vợ,
chồng với người thứ ba, đồng thời tạo điều kiện để các bên tham gia quan hệ xã hội
nhằm phát triển kinh tế gia đình.
1.1.4. Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ, chồng
Quan hệ pháp luật xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt dưới sự tác động đồng
thời từ ba yếu tố: quy phạm pháp luật, chủ thể và sự kiện pháp lý. Trong đó, quy
phạm pháp luật và chủ thể là điều kiện cần, còn sự kiện pháp lý là điều kiện đủ làm
xuất hiện quan hệ pháp luật. Về lý luận, cấu thành sự kiện làm phát sinh quan hệ pháp

15


luật hơn nhân và gia đình thường có 2, 3 sự kiện, nếu thiếu một trong số các sự kiện
đó thì cấu thành sự kiện sẽ khơng có hiệu lực11.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng nói chung,
quyền và nghĩa vụ về nhân thân nói riêng là sự kiện mà với sự xuất hiện của chúng,
quan hệ vợ chồng được xác lập. Quan hệ vợ chồng được xác lập bởi hai nhóm sự kiện
pháp lý: sự kiện kết hôn và sự kiện chung sống như vợ chồng được pháp luật công
nhận là vợ chồng.
Cấu thành sự kiện của việc xác lập quan hệ hôn nhân gồm hành vi nộp hồ sơ

đăng ký kết hôn của nam nữ tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và được cấp Giấy
chứng nhận kết hơn hợp pháp. Như vậy, kết hôn là một trong các sự kiện pháp lý làm
hình thành quan hệ hơn nhân, là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhân thân
giữa vợ và chồng.12
Việc kết hôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật và được ghi nhận trong các văn
bản pháp luật do nhà nước ban hành. Bên cạnh Điều 36 Hiến pháp của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (Hiến pháp năm 2013), Luật Hơn nhân và
gia đình (Luật HNGĐ) năm 2014 quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan
hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết
hôn.”13 Một số điều kiện kết hôn phải tuân thủ được quy định tại Điều 8 Luật này bao
gồm: điều kiện về độ tuổi, sự tự nguyện, nhận thức và các trường hợp cấm kết hôn.
Việc quy định những điều kiện cụ thể có ý nghĩa quan trọng đối với việc kết hơn và
mục đích của hơn nhân. Một mặt, quy định hướng đến tiêu chuẩn hố việc kết hơn
của nam nữ, đảm bảo mọi hành vi kết hôn đều tuân thủ điều kiện như nhau; mặt khác,
là cơ sở pháp lý loại trừ việc kết hôn không đúng quy định pháp luật và mục đích của
việc kết hơn14. Nếu vi phạm điều kiện kết hôn, hoặc việc kết hôn chỉ được thực hiện
dưới hình thức nghi thức tơn giáo, do người khơng có thẩm quyền tổ chức và khơng
được đăng ký kết hơn thì hơn nhân đó khơng có giá trị pháp lý, không làm phát sinh
quan hệ vợ chồng giữa hai bên nam nữ.

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), “Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam”, Nxb Hồng Đức
- Hội Luật gia Việt Nam, tr. 56
12
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), tlđd số 11, tr. 153
13
Khoản 5 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014
14
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), tlđd số 11, tr. 155
11


16


Sự kiện pháp lý chung sống như vợ chồng làm phát sinh quan hệ hôn nhân, là
trường hợp nam, nữ chung sống không đăng ký kết hôn nhưng được Nhà nước thừa
nhận là vợ chồng, khoa học pháp lý Việt Nam gọi đây là “hôn nhân thực tế”. Nguyên
nhân nhà nước ta thừa nhận hôn nhân thực tế xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đất nước.
Xét về mặt thực tiễn, trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1986, chiến tranh liên tục
kéo dài; tình hình kinh tế, chính trị, xã hội gặp nhiều khó khăn nên hơn nhân khơng
mang tính ổn định. Do ảnh hưởng của phong tục tập quán, việc đăng ký kết hôn không
được xem trọng và nghiêm chỉnh chấp hành như việc cưới hỏi theo những nghi thức,
tập tục tại địa phương15. Mặt khác, xét về khía cạnh pháp luật, Luật HNGĐ năm 1986,
Luật HNGĐ năm 195916 và các Sắc lệnh điều chỉnh quan hệ HNGĐ trước đây không
đặt ra quy định về nghĩa vụ đăng ký kết hơn một cách minh bạch. Vì vậy, nhà nước
công nhận hôn nhân thực tế nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, nhất là đứa
trẻ sinh ra trong cuộc hôn nhân thực tế.
Theo quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội
về việc thi hành Luật HNGĐ năm 2000 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng
dẫn xác định hôn nhân thực tế, những trường hợp nam, nữ chung sống với nhau không
đăng ký kết hôn chỉ được Nhà nước cơng nhận khi thuộc một trong hai nhóm đối
tượng sau:
- Thứ nhất, nam nữ bắt đầu chung sống với nhau trước ngày 03/01/1987.
Trường hợp này, để được nhà nước công nhận, bên cạnh điều kiện về thời điểm bắt
đầu việc chung sống, cần đảm bảo: việc chung sống như vợ chồng không vi phạm
điều kiện kết hôn, ngoại trừ quy định về việc thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ quan
có thẩm quyền; đồng thời, việc chung sống giữa họ cần đảm bảo tính liên tục, ổn định
và khơng bị gián đoạn.
- Thứ hai, nam nữ bắt đầu chung sống với nhau trong giai đoạn từ ngày
03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001. Trường hợp này, nếu đủ điều kiện kết hôn
các bên phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm (từ ngày

01/01/2001 đến ngày 01/01/2003). Nhà nước chỉ công nhận quan hệ hôn nhân thực
tế của nhóm đối tượng này nếu trong thời hạn hai năm thực hiện nghĩa vụ đăng ký

Lưu Thuỳ Dung (2015), Chung sống như vợ chồng: Thực tiễn và giải pháp pháp lý hồn thiện, Khố luận
tốt nghiệp cử nhân Luật, Đại học Luật TP. HCM
16
Điều 8 Luật HNGĐ năm 1986; Điều 11 Luật HNGĐ năm 1959
15

17


kết hơn bắt buộc nói trên, một bên vợ hoặc chồng chết trước 17, hoặc có u cầu xin
ly hơn18. Nói cách khác, Nhà nước chỉ cơng nhận quan hệ hơn nhân thực tế với nhóm
đối tượng này khi: việc chung sống như vợ chồng không vi phạm điều kiện kết hôn
và phát sinh các sự kiện chấm dứt hôn nhân trong hạn định.
Bên cạnh các điều kiện cụ thể đối với từng nhóm đối tượng kể trên, để được
cơng nhận hơn nhân thực tế cịn cần thoả mãn dấu hiệu xác định việc “nam nữ chung
sống với nhau như vợ chồng” được hướng dẫn cụ thể tại Điểm d Mục 2 TTLT số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp
ngày 03/01/2001 (TTLT số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP) Hướng dẫn
thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội “Về
việc thi hành Luật Hơn nhân và gia đình”.
Hiện nay việc đương nhiên công nhận quan hệ hôn nhân thực tế chỉ được đặt
ra đối với những cặp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng không đăng ký kết
hơn trước ngày 03/01/1987, với hệ quả là họ có tư cách vợ chồng với nhau. Các
trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn khác, nếu
khơng vi phạm điều kiện kết hơn, thì dù Nhà nước không cấm nhưng cũng không
được pháp luật thừa nhận. Điều này đồng nghĩa với việc không làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Hệ quả là nếu họ có u cầu ly hơn thì Tồ án thụ

lý và giải quyết khơng cơng nhận quan hệ vợ chồng. Các tranh chấp, yêu cầu về nhân
thân, tài sản giữa họ sẽ được điều chỉnh theo quy định tại Điều 14 Luật HNGĐ năm
2014.
1.1.5. Nguyên tắc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa
vợ, chồng
Nguyên tắc là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt
việc làm”19. Từ đó, có thể hiểu nguyên tắc là tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của
một hoạt động nào đó; mang tính xuất phát điểm, định hướng, xun suốt tồn bộ
hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong pháp luật HNGĐ, nguyên tắc là
những điều cơ bản định ra, được các cá nhân, tổ chức liên quan tuân thủ khi thực hiện

Điểm b Khoản 1 Mục II Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ngày
16/4/2003 Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, HNGĐ
18
Mục 2 Điểm a TTLT số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
19
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 694
17

18


×