TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------
HÀ XUÂN LỊCH
MSSV: 1853801011091
TƢ TƢỞNG PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
TRONG LỊCH SỬ LẬP HIẾN VIỆT NAM
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 - 2022
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
TP.HCM - Năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật với đề tài “Tư tưởng
phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam” là cơng trình
nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Mạnh Hùng.
Khóa luận có sử dụng, trích dẫn ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các
thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số liệu, thơng tin
được sử dụng trong Khóa luận là hồn toàn khách quan, trung thực.
Tác giả
Hà Xuân Lịch
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢ TƢỞNG PHÂN CHIA
QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC............................................................................................ 5
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển; nội dung và ý nghĩa của tƣ tƣởng phân
chia quyền lực nhà nƣớc. ................................................................................................ 5
1.1.1. Lịch sử hình thành của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước ............................ 5
1.1.2. Nội dung của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước ........................................... 9
1.1.3. Ý nghĩa của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước ........................................... 10
1.2. Phân quyền với tập quyền xã hội chủ nghĩa và phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực nhà nƣớc...................................................................................... 14
1.2.1. Phân quyền với tập quyền xã hội chủ nghĩa ......................................................... 14
1.2.2. Phân quyền với phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước .............. 16
1.3. Sự áp dụng tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc trong các mơ hình
chính thể ......................................................................................................................... 18
1.3.1. Sự áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong chính thể đại nghị ..... 19
1.3.2. Sự áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong chính thể cộng hịa
tổng thống........................................................................................................................ 21
1.3.3. Sự áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong chính thể cộng hòa
hỗn hợp ............................................................................................................................ 24
1.4. Sự áp dụng tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc trong các bản Hiến
của Việt Nam ................................................................................................................. 27
1.4.1. Hiến pháp 1946 ..................................................................................................... 27
1.4.2. Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 ...................................................................... 30
1.4.3. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) .............................................................................. 34
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................................. 37
CHƢƠNG 2: TƢ TƢỞNG PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG
HIẾN PHÁP HIỆN HÀNH, THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ ............................... 39
2.1. Tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc trong Hiến pháp năm 2013 .............. 39
2.2. Thực trạng áp dụng tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc ở Việt Nam
hiện nay .......................................................................................................................... 44
2.2.1. Thực trạng phân công quyền lực nhà nước ........................................................... 44
2.2.2. Thực trạng phối hợp quyền lực nhà nước ............................................................. 49
2.2.3. Thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước ............................................................ 52
2.3. Giải pháp hồn thiện cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực
nhà nƣớc ......................................................................................................................... 58
2.3.1. Giải pháp hồn thiện phân công quyền lực nhà nước ........................................... 58
2.3.2. Giải pháp hoàn thiện sự phối hợp quyền lực nhà nước......................................... 61
2.3.3. Giải pháp hồn thiện về kiểm sốt quyền lực nhà nước ....................................... 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................................. 66
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước hình thành từ thời kỳ cổ đại, gắn
liền với tên tuổi của những nhà triết gia vĩ đại Aristotle, Polybe, John Locke. Các tư
tưởng này sau đó được Charlesclouis De Secondat Montesquieu khái quát lên thành
học thuyết, thường được gọi là học thuyết phân chia quyền lực nhà nước hay thuyết
phân quyền. Tư tưởng này gần như “mất hút” trong xã hội phong kiến nhưng lại
phát triển cực thịnh ở xã hội tư sản và trở thành nguyên tắc cốt lõi, cơ bản, được áp
dụng phổ biến trong tổ chức bộ máy nhà nước tư bản. Trong khi đó, việc tổ chức
quyền lực nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam lại gần như
phủ nhận hồn tồn ngun tắc này trong một thời gian dài, thay vào đó là áp dụng
nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, từ khi lập hiến đến nay, tư tưởng
phân chia quyền lực mặc dù chưa được ghi nhận trong Hiến pháp nhưng trên thực tế
nó vẫn được áp dụng ở một mức độ nhất định, đặc biệt là Hiến pháp năm 1946 đã
có sự áp dụng rõ nét tư tưởng này. Sau đó, do hồn cảnh lịch sử và chịu ảnh hưởng
của tư duy tập quyền xã hội chủ nghĩa nên vấn đề phân công, phối hợp và kiểm sốt
quyền lực đã khơng được đề cập trong Hiến pháp 1959, đặc biệt là trong Hiến pháp
1980. Đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) với mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền đã nhận thức lại tập quyền xã hội chủ nghĩa và thay đổi tư duy tập
quyền xã hội chủ nghĩa bằng tư duy phân công, phối hợp quyền lực nhà nước.
Hiến pháp năm 2013 đã có bước tiến dài trong việc hồn thiện cơ chế phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động có
hiệu quả hơn. Điều này được thể hiện qua việc ghi nhận quy định “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tuy đã có sự
tiếp thu những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền nhưng tổ chức bộ máy
nhà nước trong Hiến pháp năm 2013 vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng bởi tư duy tập
quyền xã hội chủ nghĩa. Điều này khiến tổ chức bộ máy nhà nước ta trở nên cồng
kềnh, nhiều bất cập và nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến cơ chế phân cơng, phối
hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước. Có thể kể đến như cơ chế vận hành và mối
quan hệ giữa các cơ quan quyền lực chưa thực sự hợp lý, sự phân công chưa rõ
ràng, chồng chéo thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực, vấn đề kiểm soát quyền lực
của Quốc hội chưa được đề cập. Từ đó, làm giảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng, suy
yếu hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước. Yêu cầu đặt ra trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền là phải khắc phục được những điểm yếu trên nhằm đảm
bảo hoạt động của Nhà nước đạt hiệu quả cao. Để làm được điều này thì cần có các
2
nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về việc áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực
nhà nước vào tổ chức bộ máy nhà nước của Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu
những giá trị của học thuyết phân quyền và chuyển hóa nó vào mơ hình bộ máy nhà
nước ta là yêu cầu khách quan và mang tính cấp bách.
Những điều trình bày trên đây là cơ sở và lý do khách quan để tác giả lựa
chọn đề tài “Tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc trong lịch sử lập hiến Việt
Nam”. Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng tư tưởng phân chia quyền
lực nhà nước vào tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam, tác giả đưa ra các giải pháp
trong Luận văn với hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong cơng tác hồn thiện pháp
luật nước nhà. Đây là kết quả của quá trình làm việc, nghiên cứu một cách nghiêm
túc của tác giả. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài hẳn cịn sai sót, mong
q Thầy Cơ góp ý và nhắc nhở. Tác giả xin chân thành cảm ơn!
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài “Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt
Nam” đã có hai luận văn Luận văn Cử nhân Luật nghiên cứu, đó là Luận văn “Tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Phượng năm 2009 và của tác giả Nguyễn Thanh Quyên năm
2014. Đây là hai cơng trình nghiên cứu chun sâu về đề tài này. Tuy nhiên, Luận
văn của tác giả Nguyễn Thị Hồng Phượng được thực hiện từ năm 2009 nên vấn đề
thể hiện tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong Hiến pháp năm 2013 chưa
được đề cập. Còn Luận văn của tác giả Nguyễn Thanh Quyên được thực hiện vào
năm 2014, đã tám năm trôi qua, bối cảnh nước nhà đã có nhiều sự thay đổi, biến
động lớn, nên một số nội dung đã khơng cịn phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy
nhà nước. Ngồi ra, cũng có một số Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ có liên quan,
các bài nghiên cứu khoa học, bài viết trên các tạp chí có đề cập đến vấn đề phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
nội dung và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước của một số quốc gia điển hình và tại Việt
Nam. Qua việc tìm hiểu sự thể hiện tư tưởng phân chia quyền lực qua các bản Hiến
pháp của Việt Nam trong các thời kỳ, tác giả đánh giá những tiến bộ và yếu kém
cần được loại bỏ. Qua đó, đề xuất một số giải pháp liên quan đến nguyên tắc
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát” giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
3
nhằm làm cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đạt hiệu quả cao, chống
lại sự lạm dụng quyền lực nhà nước.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có nhiệm vụ: Làm rõ lịch
sử hình thành và phát triển của tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Nội dung,
giá trị và việc áp dụng tư tưởng này trong các mơ hình chính thể đương đại; phân
tích, đánh giá cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước có hay khơng sự vận dụng tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam và mức độ áp
dụng như thế nào. Cuối cùng là đề xuất một số giải pháp về tổ chức bộ máy nhà
nước có khai thác yếu tố tích cực của nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước là đề tài nghiên
cứu rộng, phức tạp. Tuy nhiên, trong phạm vi của Luận văn, tác giả chỉ tập trung
việc phân tích, đánh giá, làm rõ những nội dung cơ bản nhất về tư tưởng này trong
các mơ hình chính thể tiêu biểu trên thế giới. Đồng thời, phân tích sự áp dụng tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước qua các bản hiến pháp của Việt Nam và đưa ra
một số đề xuất mang tính định hướng, tham khảo trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: lý thuyết và thực tiễn áp dụng tư tưởng
phân chia quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gồm
những vấn đề sau: cơ sở lý luận về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước; thực
trạng áp dụng các quy định của pháp luật về ngun tắc phân cơng, phối hợp và
kiểm sốt quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam; giải pháp hoàn
thiện quy định của pháp luật về sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực.
Luận văn chỉ dừng lại ở sự thể hiện tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước
trong phạm vi các cơ quan nhà nước ở trung ương tại Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Luận văn này sẽ góp phần làm sáng tỏ những điểm lý luận và thực tiễn áp
dụng tư tưởng phân chia quyền lực vào việc tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời,
đưa ra một số phương thức hạn chế quyền lực nhà nước, chống sự chuyên chế, độc
tài và đề xuất một số ý kiến về tổ chức bộ máy nhà nước trong tương lai.
Kết quả của Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy của các cơ sở đào tạo luật.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả sử dụng hầu hết các phương pháp nghiên
cứu chung của ngành khoa học pháp lý từ phân tích, tổng hợp đến chứng minh và so
sánh, dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
4
7. Kết cấu của Luận văn Luận văn này gồm:
Lời nói đầu và hai chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước.
Chƣơng 2: Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong Hiến pháp hiện
hành, thực trạng và kiến nghị.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
5
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢ TƢỞNG PHÂN CHIA
QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển; nội dung và ý nghĩa của tƣ tƣởng
phân chia quyền lực nhà nƣớc.
1.1.1. Lịch sử hình thành của tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc.
“Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước” là tổng thể các quan điểm của các
học giả, nhà nghiên cứu về cách thức phân chia quyền lực nhà nước thành các loại
quyền lực khác nhau, về cơ chế vận hành của từng loại quyền lực và mối quan hệ
theo hướng ngăn cản, kiềm chế hoặc đối trọng lẫn nhau giữa các loại quyền lực ấy
trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước1.
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước hay còn gọi là thuyết phân quyền có
lịch sử hình thành từ rất sớm. Mầm mống của tư tưởng này đã manh nha xuất hiện
từ các nhà nước phương Tây cổ đại, mà điển hình là nhà nước Hy Lạp và cộng hòa
La Mã. Xuất phát từ mong muốn quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, các nhà tư
tưởng Ephialtes (Thế kỷ V TCN) và Pericles (495 - 429 TCN) đã thực hiện những
cải cách tiến bộ để xây dựng bộ máy chính quyền theo mơ hình dân chủ. Và người
đặt nền móng sơ khai cho sự xuất hiện của tư tưởng phân chia quyền lực là Aristote,
nhà tư tưởng vĩ đại của Hy Lạp cổ đại. Khoảng thế kỷ thứ IV TCN, Aristotle (384 322 TCN) trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp của 158 nhà nước đơn nhất và liên bang
đã viết tác phẩm “Chính trị học” và “Hiến pháp Athens”. Qua các tác phẩm này,
ông đã đặt nền tảng cho sự ra đời của học thuyết phân quyền dù chỉ ở mức độ sơ
khai. Ông phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước thành ba bộ phận hoàn
toàn riêng biệt với nhau gồm: các quyền thảo luận hay quyết nghị, áp dụng luật hay
hành pháp và phán xử theo luật. Ba chức năng này sẽ phân cho các cơ quan khác
nhau đảm nhiệm. Ngồi ra, ơng cũng trình bày cách thức hình thành, chức năng,
thẩm quyền, thành viên và cơ cấu của từng bộ phận. Đặc biệt, ơng cho rằng khơng
có loại hình chính thể nào là duy nhất có thể phù hợp với tất cả thời đại và quốc
gia2. Như vậy, có thể nói Aristotle là người đầu tiên trình bày về tư tưởng phân
quyền. Sau Aristotle cịn có Polybe (210 - 120 TCN) cũng bổ sung thêm vào tư
tưởng này tính độc lập tương đối của các bộ phận quyền lực nhà nước3. Tuy nhiên,
1
Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một
số nước, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 16.
2
Sau này, Rousseau trong tác phẩm nổi tiếng “Khế ước xã hội” cũng nhiều lần đề cập đến luận điểm này
“Nhưng các mục tiêu chung nói trên của một thể chế tốt đẹp là Tự do và Bình đẳng sẽ tùy theo hồn cảnh
mỗi nước mà đổi khác do tình huống quốc gia. Mỗi dân tộc sẽ tự chọn lấy thể chế thích hợp riêng của mình”.
3 Xem thêm Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà
nước ở một số nước, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 102.
6
do hạn chế của thời đại, những tư tưởng của Aristote và Polybe chỉ mới dừng lại ở
mức sơ khai chứ chưa đi sâu lý giải tại sao phải phân thành các loại quyền và phân
tích quan hệ giữa các nhánh quyền lực trên.
Là một tư tưởng tiến bộ nhưng vào thời kì phong kiến, tư tưởng phân chia
quyền lực khơng được nhắc đến nhiều vì chính thể qn chủ tuyệt đối đang hưng
thịnh ở hầu hết các quốc gia. Thống trị xã hội lúc bấy giờ là tư tưởng tập trung
quyền lực với mọi quyền lực tối cao thuộc về nhà vua, đây chính là căn nguyên dẫn
đến mọi hành vi độc tài, lạm dụng quyền lực nhà nước. Chỉ đến khi quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện, chính thể quân chủ chuyên chế ngày càng suy yếu
và bị giai cấp tư sản lật đổ. Giai cấp tư sản thiết lập chính quyền của mình với mục
tiêu tự do, dân chủ thì tư tưởng này mới có cơ hội xuất hiện trở lại. Về sau, kế thừa
những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại, các nhà tư tưởng ở châu Âu
đã phát triển thành học thuyết phân chia quyền lực ở Tây Âu vào thế kỷ 17 - 18, mà
đại diện tiêu biểu là John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1689 - 1755) và Jean
- Jacques Rousseau (1712 - 1778). Từ đó đến nay, phân chia quyền lực nhà nước đã
trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của hầu hết các nhà nước tư
bản.
Đầu tiên, phải nhắc đến nhà triết học người Anh John Locke (1632 - 1704),
ông là người đầu tiên khởi thảo hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân
quyền và được thể hiện trong tác phẩm “Hai chuyên luận về chính quyền”. Trong
tác phẩm này, ơng đã trình bày nguồn gốc, mục đích của nhà nước, các loại quyền
lực nhà nước, phạm vi giới hạn của từng quyền, vị trí và mối quan hệ giữa các
quyền4. Locke khẳng định quyền lực mà các cơ quan nhà nước có được là do có sự
ủy quyền từ phía Nhân dân nên quyền lực này phải bị giới hạn. Ông chia quyền lực
nhà nước thành ba loại quyền: thứ nhất là quyền lập pháp - loại quyền tối cao nhưng
không vô hạn, quyền này do những người được Nhân dân ủy quyền đảm nhiệm
(Nghị viện); thứ hai là quyền hành pháp, quyền này bị giới hạn trong phạm vi lợi
ích chung nhằm ngăn chặn sự hình thành chính quyền chuyên chế, điều mà các nhà
nước phong kiến đã từng thực hiện để tạo nên áp bức, bất công cho dân chúng; thứ
ba là quyền liên minh, tức là quyền quyết định về các vấn đề an ninh, hịa bình, đối
ngoại. Theo ơng, cả quyền hành pháp và quyền liên minh đều thuộc về nhà vua
(Chính phủ liên bang). Cũng trong tác phẩm này, ơng đã trình bày một cách khá đầy
đủ cách thức hoạt động của hai cơ quan lập pháp, hành pháp và hiện nay vẫn còn
Xem thêm Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà
nước ở một số nước, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 45.
4
7
được áp dụng trong mơ hình tổ chức nhà nước của hầu hết các nước 5. Đặc biệt, ông
đã dự liệu đến trường hợp nếu có sự xung đột và mâu thuẫn giữa hai cơ quan này thì
sẽ giải quyết như thế nào. Trong tình huống này, theo ơng thì quyền phân xử phải
thuộc về Nhân dân, vì Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước nên có quyền
quyết định sẽ chọn chính sách nào tốt nhất cho họ. Và theo Locke, tất cả các nhánh
quyền lực này đều có thể bị thay đổi khi có sự lạm dụng quyền lực 6. Tuy nhiên,
trong tư tưởng của Locke vẫn tồn tại những điểm hạn chế sau: về quyền lực nhà
nước, ơng cho rằng “chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp, mà
tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những cái phụ thuộc vào nó”. Với cách
phân chia như trên thì Locke đã đề cao cơ quan lập pháp hơn hai cơ quan còn lại.
Điều này là rất nguy hại vì sẽ khơng có cơ quan nào có thể đối trọng và kiểm soát
khi lập pháp lạm quyền. Mặc dù nhận thức được quyền lực nhà nước phải được
phân thành các nhánh quyền khác nhau nhưng ông chỉ giao cho hai cơ quan thực
hiện là Quốc hội và nhà vua. Điều này dẫn đến nguy cơ quyền lực nhà nước tập
trung quá nhiều vào Chính phủ liên bang và Chính phủ liên bang sẽ dùng ưu thế này
để lạm quyền, lấn át quyền lực của các nhánh quyền còn lại.
Nhắc đến tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước, chúng ta phải kể đến công
lao của nhà triết học vĩ đại người Pháp, C.L. Montesquieu (1689 - 1775), người
được coi là cha đẻ của thuyết “Tam quyền phân lập”. Sau nhiều năm nghiên cứu, đi
sâu vào thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước của nước Anh, tiếp thu tinh hoa của thế
hệ đi trước, ơng đã hồn thiện học thuyết phân quyền qua tác phẩm “Tinh thần pháp
luật”. Đây là một trong những tác phẩm vĩ đại trong lịch sử triết học chính trị và
trong lịch sử luật học. Montesquieu đã dành hai mươi năm để nghiên cứu tác phẩm
này, bao quát các chủ đề về chính trị, luật, xã hội học, nhân loại học, và cung cấp
hơn 3.000 trích dẫn, giai đoạn từ 1741 - 1747 là lúc ơng tập trung tồn bộ thời gian
và tâm huyết để viết tác phẩm, đến nỗi sức khỏe bị giảm sút nghiêm trọng7. Tác
phẩm sau đó được xuất bản dưới dạng ẩn danh vào năm 1748 để tránh sự kiểm
duyệt. Tuy nhiên, nó đã khơng nhận được sự chào đón và ủng hộ của chính quyền
phong kiến và bị liệt vào danh sách bị cấm lưu hành. Vì trong tác phẩm,
Montesquieu đã công khai lên án chế độ chuyên chế, bênh vực chủ nghĩa hợp hiến
và thuyết phân quyền, bãi bỏ chế độ nô lệ, bảo vệ quyền tự do cơng dân, chủ trương
5
Xem thêm Bùi Ngọc Sơn (2005), Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, NXB Tư
pháp, Hà Nội, tr. 72 - 73.
6
Xem thêm Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và Quyền công dân, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 22.
7
(truy cập ngày 13/06/2022).
8
xây dựng Nhà nước pháp quyền8. Theo ông, ở đâu khơng có phân quyền thì ở đó
dân chúng khơng có tự do, quyền con người không thể thực hiện đầy đủ.
Montesquieu cho rằng, quyền cơ bản nhất của con người là quyền tự do chính trị, là
quyền mà cơng dân có thể làm mọi việc mà pháp luật cho phép. Nhằm đảm bảo
quyền tự do chính trị này thuộc về cơng dân thì phải chống lạm quyền bằng cơ chế
phân chia, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Đặt tác phẩm “Tinh thần pháp luật” trong thời đại khai sáng, chúng ta dễ
dàng phát hiện và công nhận những điểm mới mẻ của Montesquieu so với Locke.
Ơng khơng sa vào cái nhìn chủ quan, duy lý cực đoan mà đã phân tích pháp luật
trong cái nhìn khách quan, bao quát. Quan điểm của Montesquieu khác Locke ở một
số nội dung như: Một là, nếu như Locke xem quyền lực lập pháp là tối cao, hai
quyền hành pháp và liên minh chỉ là phái sinh của lập pháp thì Montesquieu lại xem
các cơ quan nhà nước là bình đẳng nhau, không cơ quan nào đứng trên cơ quan nào.
Đây là một bước tiến trong tư duy của Montesquieu, vì sẽ đảm bảo cơ quan thực
hiện quyền lập pháp không thể lạm quyền mà thực hiện những hành vi độc tài. Hai
là, Montesquieu cho rằng cần tách quyền lực xét xử - quyền tư pháp độc lập với các
thứ quyền khác và giao cho một cơ quan riêng biệt. Có như thế mới đảm bảo tự do
cho dân chúng, vì ơng nhận thấy “Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp
thì ơng quan tịa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp”9. Ba là, ngoài việc chia tách,
Montesquieu cịn địi hỏi phải có sự phối hợp và ngăn cản giữa các cơ quan thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong khi Locke lại không đề cập đến
khía cạnh “ngăn cản quyền lực”. Đây là điểm mới và tiến bộ nhất của ơng so Locke.
Hay nói cách khác, đến thời đại của ơng thì sự phân quyền đã triệt để hơn theo kiểu
quyền lực phải được kiểm sốt bằng chính quyền lực10. Ngồi ra, sự tiến bộ ấy cịn
được thể hiện khi Montesquieu đã phân tích một cách đầy đủ, có hệ thống các loại
quyền, lý do phải tách ba loại quyền, cách thức kiểm soát, đối trọng giữa các nhánh
quyền lực… Chung quy lại, nếu tư tưởng của Locke là sự kế thừa tinh hoa của các
nhà tư tưởng vĩ đại trước đó, kết hợp với sự suy diễn pháp lý từ thực tiễn sinh động
thì thuyết phân quyền của Montesquieu “khơng phải là kết quả của một sự suy luận
pháp lý diễn dịch mà là một quy tắc của nghệ thuật chính trị, một thủ đoạn chính
trị, một “bí quyết’ chính trị và đồng thời, nguồn cảm hứng của sự suy luận của
8
Nguyễn Thị Thu Hƣơng (2014), Montesquieu - Nhà tư tưởng và tác giả của “Tinh thần pháp luật”, Tạp
chí triết học, số 5.
9
Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch (1996), NXB Giáo dục, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn - Khoa Luật, Hà Nội, tr. 100.
10
Xem thêm Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 139.
9
Montesquieu chinh là sự quan sát Hiến pháp nước Anh, chính thể nước đó thời bấy
giờ”11 và kết hợp với kinh nghiệm của các tiền bối đi trước mà chủ yếu là Aristote
và Locke.
Sau Montesquieu, còn một số tác giả cũng đề cập đến tư tưởng phân chia
quyền lực như J.J. Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội,” đã đưa ra
những quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Tư tưởng phân quyền của Rousseau khác xa so với
những quan điểm của Aristote và Montesquieu khi ông không hề đề cập đến quyền
lực nhà nước được phân chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp. Dù nêu cao tư tưởng quyền lực nhà nước là không thể phân chia, Rousseau lại
cho rằng phân quyền là cách tốt nhất để ngăn chặn sự lạm quyền. Ông chủ trương
nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước nằm trong tay Nhân dân.
Nhưng ông lại chỉ ra rằng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp và
quyền hành pháp, giao chúng vào tay cơ quan quyền lực tối cao và chính phủ là
cách thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả cho nhà nước, cũng
như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền. Ngồi ra, ơng cịn nêu lên cơ chế cụ thể,
tối ưu để để ngăn chặn sự lạm quyền của hành pháp và vai trò quan trọng của cơ
quan tư pháp trong việc đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như
cho sự cân bằng giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân.
1.1.2. Nội dung của tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc
Phân chia quyền lực nhà nước là một trong những lý thuyết chính trị - pháp
lý có ý nghĩa hết sức quan trọng, cả trong tư tưởng và thực tiễn chính trị. So với các
tư tưởng khác trong chế độ chuyên chế độc tài, lý thuyết của nó được coi là tư
tưởng thời đại, mang tính dân chủ sâu sắc, sự nhân đạo và tiến bộ vì nó phục vụ đắc
lực cho cơng cuộc đấu tranh chống độc tài, chuyên chế và lạm quyền trong quá
trình thực thi quyền lực nhà nước. Nội dung của tư tưởng phân chia quyền lực thể
hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, quyền lực nhà nước phải được chia tách thành nhiều loại quyền
khác nhau như quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp... Căn cứ vào tính
chất của mỗi quyền để trao cho những cơ quan độc lập khác nhau thực hiện. Theo
đó, quyền lập pháp được thực hiện bởi một cơ quan do dân chúng bầu ra với nhiệm
kỳ nhất định, trong một khoảng thời gian hợp lý, khơng q dài để thâu tóm quyền
lực nhưng cũng khơng q ngắn để khơng thể làm được gì; quyền hành pháp có
11
Dẫn theo Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà
nước ở một số nước, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 95.
10
nhiệm vụ chính là đưa ra những quyết định kịp thời để quản lý đất nước sẽ do một
cá nhân nắm giữ như một ông vua; quyền tư pháp thực hiện chức năng xét xử sẽ do
một cơ quan riêng biệt đảm nhiệm12. Sở dĩ phải phân chia vì quyền lực nhà nước
ln “mang tính chính trị, giai cấp và được thực hiện bởi một tầng lớp đặc biệt
chuyên làm nhiệm vụ quản lý”13 nên nó ln có xu hướng tự mở rộng, tự tăng
cường vai trị của mình. Và thực tế chỉ ra rằng, “Quyền lực được ví như một dịng
sơng lớn. Khi giữ nó trong phạm vi giới hạn của hai bờ, nó có cả vẻ đẹp và sự hữu
ích, nhưng khi nó phá vỡ bờ thì nó sẽ quá hung dữ như bị chặn đứng giữa dòng, nó
sẽ cuốn trơi mọi thứ, tàn phá và hủy hoại bất cứ nơi nào mà nó đi qua”14. Bất kì ai
hay bất kì cơ quan nào khi được trao quyền lực thì đều có xu hướng lạm dụng
quyền lực và tăng quyền lực ấy lên mức cao nhất. Việc phân chia cho mỗi cơ quan
đảm nhận một loại quyền lực sẽ đảm bảo không một cơ quan nào nắm trọn vẹn
quyền lực nhà nước, cũng như không một cơ quan nào có thể “lấn sân” sang hoạt
động của cơ quan khác. Thực chất của sự phân chia quyền lực là sự phân định một
cách rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, đồng thời đảm bảo
sự chun mơn hóa trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp đều thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp
luật. Muốn thực hiện việc kiểm soát hiệu quả thì phải có cơ chế hữu hiệu nhằm giới
hạn quyền lực nhà nước, mà cách tốt nhất là phân chia nó ra. Đồng thời, phải giới
hạn quyền lực nhà nước từ bên trong, thực hiện bởi chính các cơ quan trong bộ máy
nhà nước. Từ đó, mới có thể đảm bảo quyền tự do dân chủ của cá nhân, chống lại
hành vi tùy tiện, độc đoán, gây phiền hà cho dân chúng từ phía các cơ quan cơng
quyền và quan chức nhà nước.
Thứ hai, các cơ quan này độc lập khi thực hiện quyền lực nhà nước. Nhưng
sự độc lập ấy không dẫn đến hệ quả triệt tiêu nhau mà ngược lại, các nhánh quyền
còn phải phối hợp với nhau để thực hiện quyền lực nhà nước. Từ việc phân cơng
rành mạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mới có thể đưa đến sự phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan này, tạo nên cơ chế cân bằng giữa các nhánh quyền lực, đảm
bảo thực hiện các mục tiêu chung của nhà nước. Phân quyền là đảm bảo cho sự
thống nhất quyền lực, vì khi đó các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy hoạt
động độc lập với nhau nhưng lại có mối quan hệ khăng khít tạo nên cơ chế phối
12
Xem thêm Bùi Ngọc Sơn (2005), Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, NXB Tư
pháp, Hà Nội, tr. 87 - 88.
13
Nguyễn Thị Hồng Phƣợng (2009), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt
Nam, Luận văn Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1.
14
Dẫn theo Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà
nước ở một số nước, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 113.
11
hợp, vì “Thực tế khơng có bất kì một hệ thống quyền lực nhà nước nào khi phân
định xong thì mỗi bộ phận quyền lực lại hoàn toàn tự hoạt động riêng biệt, như kiểu
một bộ máy mà các bánh xe răng cưa rời rạc nhau, tự quay lấy một mình, mà trái
lại chúng phải khớp vào nhau”15.
Thứ ba, để hoạt động của bộ máy nhà nước đạt hiệu quả, ngồi sự phân
cơng, phối hợp, giữa các cơ quan nhà nước thì cần phải có sự đối trọng, chế ước lẫn
nhau giữa các nhánh quyền theo phương châm không cơ quan nào nằm ngồi sự
kiểm sốt, giám sát từ phía cơ quan khác. Kiềm chế, đối trọng quyền lực nhà nước
là phải bị giới hạn và kiểm soát từ bên ngồi bởi Nhân dân và từ ngay chính bên
trong các cơ quan nhà nước đó. Các nhánh quyền lực độc lập với nhau trong việc
thực hiện các chức năng nhà nước nhưng khơng vì thế mà các cơ quan này được
phép “tự do” hoạt động theo ý mình mà ln phải đặt trong khuôn khổ pháp luật.
Điều này nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên quyền hoặc thiếu trách
nhiệm trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, qua đó bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đại đa số Nhân dân trong xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc
Tư tưởng phân chia quyền lực là một tư tưởng tiến bộ, đặt nền móng cho
nền dân chủ cổ đại. Nó đã đóng góp những lý luận quan trọng trong thực tiễn chính
trị thế giới, đặc biệt là trong việc giới hạn quyền lực nhà nước. Trải qua hàng trăm
năm nhưng học thuyết này đến nay vẫn còn nguyên những giá trị tiến bộ và cần
được tiếp tục nghiên cứu và kiểm nghiệm:
Thứ nhất, tư tưởng phân chia quyền lực ra đời là sự phủ định biện chứng về
mặt tư tưởng của lý thuyết tập quyền chuyên chế. Trong nhà nước phong kiến,
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều thuộc về vua. Nhà vua có quyền tự ban
hành ra các luật, trực tiếp lãnh đạo bộ máy hành chính và là cấp xét xử cuối cùng,
vua cũng không phải chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào. Về nguyên tắc, vua
không chia sẻ quyền lực của mình cho bất cứ ai và quyền lực của vua là khơng bị
giới hạn. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến quyền tự do của con người bị vi phạm,
dân chủ không được đảm bảo. Giống như Montesquieu từng đề cập: “Khi mà quyền
lập pháp và quyền hành pháp được nhập lại trong tay một người hay một Viện
ngun lão thì sẽ khơng có gì là tự do nữa; vì người ta sợ rằng chính ơng ta hay
viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng khơng có gì là tự
do nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp người ta sẽ độc đoán với quyền
sống và quyền tự do của cơng dân; quan tịa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư
Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 207.
15
12
pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ơng quan tịa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn
áp, nếu một người hay một tổ chức của quan chức hoặc của quý tộc, hoặc của dân
chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”16. Vì vậy, để hạn
chế sự độc đốn thì phải làm phân tán quyền lực, không để một cá nhân nắm q
nhiều quyền lực. Muốn như vậy, khơng cịn cách nào khác là phải phân chia quyền
lực thành các quyền khác nhau, giao cho các cơ quan khác nhau thực hiện. Các cơ
quan này phối hợp, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau để cùng thực thi quyền lực nhà
nước.
Thứ hai, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước ra đời đã cung cấp nền tảng
lý luận quan trọng, góp phần vào quá trình chấm dứt sự độc tài, chuyên chế, đặt nền
móng cho sự hình thành các thể chế tự do, dân chủ. Đồng thời, nó là “chìa khóa”
dẫn dắt nhiều quốc gia, nhiều dân tộc đến với khát vọng tự do, dân chủ và được
hưởng những quyền lợi xứng đáng. Dưới sự cai trị tàn độc của các triều đại phong
kiến, giai cấp tư sản đã lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cách mạng lật đổ chế độ
phong kiến, thiết lập nhà nước dân chủ. Tiêu biểu nhất phải kể đến Đại cách mạng
Pháp năm 1789. Chịu ảnh hưởng từ những tư tưởng tiên tiến của trào lưu triết học
ánh sáng, mà đại diện là thuyết phân quyền của Montesquieu và Rousseau, sau khi
cách mạng thành công, giai cấp tư sản đã thiết lập nền cộng hòa, thành lập mơ hình
nhà nước dân chủ mà ở đó, quyền làm chủ thuộc về tồn thể nhân dân. Sau đó,
ngun tắc phân chia quyền lực nhà nước cũng được thừa nhận trong Hiến pháp và
áp dụng trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước Pháp.
Thứ ba, phân chia quyền lực làm tăng hiệu quả quản lý của bộ máy nhà
nước. Khi đó, mỗi cơ quan tập trung thực hiện mà mình được phân chia, từ đó hình
thành nên q trình phân cơng quyền lực nhằm tạo sự chun mơn hoá chức năng,
nhiệm vụ của mỗi nhánh quyền lực. Đồng thời, khẳng định vị trí, vai trị của mỗi
ngành trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. Cụ thể, công việc chủ yếu của cơ
quan lập pháp là làm luật nên phải có phải thận trọng; trong khi người thực thi pháp
luật có chức năng chính là cai trị nên phải có tính quyết đốn, khác với bản tính độc
lập và vơ tư của cơ quan tịa án. Ngồi ra, phân chia như vậy cịn tạo ra tính thi đua
giữa các nhánh quyền lực, tăng cường tính hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước. Vì những nhân viên làm việc trong cơ quan nhà nước xem công việc họ đang
16
Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch (1996), NXB Giáo dục, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn - Khoa Luật, Hà Nội, tr. 100.
13
làm như bao nghề nghiệp khác trong xã hội, phải có sự hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh để hồn thành tốt cơng việc của mình17.
Thứ tƣ, lý thuyết về phân chia quyền lực nhà nước đánh dấu cột mốc cho sự
phát triển hiện đại về tính kỹ thuật chính trị trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà
nước, dùng phân quyền để kiểm sốt sự lạm quyền. Đó là cơ chế kiềm chế và đối
trọng, kiểm soát và chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực. Nhờ vậy, có thể
loại trừ nguy cơ tập trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm
người hay một cơ quan quyền lực duy nhất nào đó - nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
sự tha hóa quyền lực. Trước đây, người ta quan niệm rằng, có thể kiểm soát quyền
lực nhà nước bằng nhân quyền, đạo đức quyền hoặc giáo quyền. Đến Montesquieu,
kiểm soát quyền lực nhà nước phải được thực hiện “bằng một cơ chế mà các thành
phần của nó nằm ngay chính trong cơ cấu nhà nước”18. Kiểm sốt giữa chính các
cơ quan nhà nước với nhau để khơng xảy ra tình trạng cơ quan này lấn quyền, làm
ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan khác và quyền tự do của Nhân dân. Đặc biệt,
Nhân dân cũng có quyền kiểm sốt quyền lực nhà nước thông qua quyền bầu cử và
ứng cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm các cơ quan, chức danh mà Nhân dân khơng cịn tin
tưởng. Tóm lại, cơ chế kiểm sốt quyền lực hữu hiệu nhất đó là kiểm sốt quyền
lực nhà nước từ phía Nhân dân và từ chính các cơ quan trong bộ máy nhà nước đó,
“việc đặt cả nhà nước và cơng chúng vào một cơ chế kiểm sốt hợp lý và hữu hiệu
đã làm nên cái mà cả trước và sau Montesquieu, các nhà chính trị lừng danh khác
đã không thực hiện được, là sự kết hợp giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện”19.
Thứ năm, học thuyết phân quyền đã đặt nền tảng cho sự ra đời của một mơ
hình nhà nước mới - Nhà nước pháp quyền20. Từ những nội dung của thuyết phân
quyền, có thể thấy phân quyền gắn liền với việc giới hạn quyền lực nhà nước nên
phân quyền chỉ có thể có trong chế độ dân chủ, “nơi mà ở những mức độ khác
nhau, Nhân dân tham gia thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước được
17
Nguyễn Thị Thanh Quyên (2014), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử lập hiến Việt
Nam, Luận văn Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 7
18
Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 106.
19
Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 140.
20
Nhà nước pháp quyền thật ra khơng phải là một hình thức hay một kiểu nhà nước mà nó chỉ là một mơ
hình về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước xoay quanh yếu tố trọng tâm là dân chủ.
14
xem là bắt nguồn từ Nhân dân và phục vụ Nhân dân”21. Trong các nhà nước phong
kiến và độc tài, quyền lực nhà nước chỉ nằm trong tay nhà vua hoặc một nhóm
người nên khơng có sự phân chia quyền lực. Hoặc nếu có cũng chỉ là sự phân cơng
nhiệm vụ giữa những con người trong bộ máy nhà nước. Jean Jacques
Rousseau (1712 - 1778) trong tác phẩm trứ danh “Khế ước xã hội” đã khẳng định
chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước là Nhân dân, quyền lực nhà nước phải
thống nhất ở Nhân dân. Theo ông, phân quyền là phương tiện để thực hiện chủ
quyền Nhân dân và đảm bảo cho hoạt động của bộ máy nhà nước đạt hiệu quả.
Ngoài Rousseau, Immanuel Kant (1724 - 1804), người có cơng lớn nhất trong
việc hồn thiện lý thuyết về học thuyết Nhà nước pháp quyền đã xem phân quyền
là yêu cầu tiên quyết trong một Nhà nước pháp quyền 22. Vì trong Nhà nước pháp
quyền thì quyền con người phải được đảm bảo. Cách tốt nhất để đảm bảo quyền
con người chính là giới hạn quyền lực nhà nước. Mà để giới hạn quyền lực nhà
nước thì khơng thể không phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước đó.
Hiện nay, dù thực tiễn chính trị đã thay đổi nhiều so với thời kỳ tư tưởng
phân chia quyền lực ra đời, thế nhưng lý thuyết của nó vẫn cịn đầy sức sống, những
giá trị mang tính phổ qt của nó vẫn đang được khai thác và nhân rộng trong tổ
chức quyền lực của nhiều quốc gia. Ở các nước tư bản phát triển, phân quyền vẫn là
nguyên tắc cơ bản để tiến hành cải cách, đổi mới phương thức tổ chức quyền lực
nhà nước cho phù hợp với sự xuất hiện và biến đổi của những nhân tố kinh tế, chính
trị mới. Cịn ở các nước đang phát triển, tư tưởng này cũng đã gợi mở nhiều vấn đề
mang tính nguyên tắc khách quan trong q trình tìm kiếm mơ hình dân chủ, xây
dựng nhà nước pháp quyền và thiết lập các yếu tố nền tảng của văn minh chính trị.
1.2. Phân quyền với tập quyền xã hội chủ nghĩa và phân công, phối hợp
và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc
1.2.1. Phân quyền với tập quyền xã hội chủ nghĩa
Học thuyết tập quyền xã hội chủ nghĩa được hình thành trên nền tảng của
yêu cầu xây dựng nhà nước “chun chính vơ sản” trong học thuyết của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và gắn liền với sự ra đời của Hiến pháp Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa nửa đầu thế kỷ XX. C. Mác (1918 - 1983) đưa ra quan điểm cho rằng
quyền lực nhà nước là thống nhất, không thể phân chia. Ơng đã đưa ra mơ hình
21
Nguyễn Minh Đoan (2009), “Quyền lực nhà nước thống nhất và vấn đề phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam”, Một số vấn đề về tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 32.
22
Xem thêm Nguyễn Đăng Dung (2008), Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Đà Nẵng, tr. 8.
15
Công xã Pari, nơi mà bộ máy nhà nước thực hiện tất cả các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp và được tổ chức thành một mạng lưới từ trung ương đến địa phương,
hoạt động theo cơ chế tự quản với ngun tắc dân chủ và cơng khai. Nhất trí với
quan điểm của C.Mác và tiếp tục phát triển quan điểm quyền lực nhà nước là thống
nhất và thuộc về Nhân dân, V.I.Lênin (1870 - 1924) khẳng định yêu cầu cần xây
dựng một bộ máy vững mạnh, thích ứng được với mọi sự biến đổi, thành phần tổ
chức bộ máy đó phải đảm bảo được việc đơng đảo quần chúng được kiểm tra mọi
cơng việc nhà nước. Từ đó, ơng đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm này vào
quá trình tổ chức bộ máy nhà nước kiểu mới ở Nga sau khi Cách mạng tháng Mười
thành công, giai cấp vơ sản giành chính quyền với chủ trương: Phế bỏ chế độ đại
nghị - chế độ tách rời công tác lập pháp và công tác hành pháp, hợp nhất công tác
lập pháp và hành pháp của nhà nước lại. Hợp nhất công tác quản lý và công tác
lập pháp. Về sau, Hiến pháp 1924 - Hiến pháp đầu tiên của Liên bang Xơ viết đã
chính thức ghi nhận tư tưởng tập quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức bộ máy
nhà nước.
Từ những di sản lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể rút ra
một số nội dung cơ bản của học thuyết tập quyền xã hội chủ nghĩa như sau: đảm
bảo toàn bộ quyền lực nhà nước phải thuộc về Nhân dân, tập trung thống nhất ở
Nhân dân, Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thơng qua cơ quan đại diện, mà
trước hết là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước là Quốc hội. Sự tập trung
quyền lực nhà nước vào cơ quan đại diện của Nhân dân đã làm cho quyền lực bảo
đảm tính thống nhất của nó. Các cơ quan khác của nhà nước chỉ là cơ quan phái
sinh do cơ quan quyền lực cao nhất thành lập và phải chịu sự kiểm tra, giám sát tối
cao của cơ quan đó. Tính chịu trách nhiệm và ln bị giám sát bởi cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất và Nhân dân chính là cơ sở để đảm bảo cho quyền lực nhà
nước khơng bị tha hóa. Khi nghiên cứu hai học thuyết phân quyền và tập quyền xã
hội chủ nghĩa, có thể thấy hai học thuyết này có sự đối lập trong tư tưởng, thể hiện
qua việc áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong học thuyết phân
quyền rõ nét hơn ở tập quyền xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước. Nếu như ở phân quyền,
yêu cầu tiên quyết là phải phân tán quyền lực bằng cách phân chia quyền lực nhà
nước thành ba loại quyền khác nhau, khơng được để một cơ quan nắm tồn bộ
quyền lực thì ở tập quyền xã hội chủ nghĩa lại địi hỏi phải có sự thống nhất quyền
lực, tập trung quyền lực vào tay Nhân dân và chính Nhân dân ủy quyền lại cho cơ
quan lập pháp là Quốc hội. Từ đó, Quốc hội sẽ phân cơng quyền lực cho hai cơ
quan còn lại.
16
Thứ hai, về vị trí của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Cả hai học thuyết
đều cho rằng Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nhưng ở phân
quyền thì Nhân dân tự mình trao quyền lập pháp cho Nghị viện, quyền hành pháp
cho Chính phủ và quyền tư pháp cho Tịa án. Các nhánh quyền đều được Nhân dân
ủy quyền nên có vị trí ngang bằng nhau, khơng cơ quan nào xếp trên cơ quan nào,
từ đó mới dẫn đến việc kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Còn ở tập quyền xã hội chủ
nghĩa lại địi hỏi phải có sự thống nhất quyền lực, tập trung quyền lực vào tay Nhân
dân và chính Nhân dân ủy quyền lại cho cơ quan lập pháp là Quốc hội. Lúc này,
Quốc hội mới trao lại quyền lực cho Chính phủ và Tịa án. Như vậy, trong mối quan
hệ giữa ba cơ quan thì Quốc hội có ưu thế hơn, được “đặt trên” hai cơ quan cịn lại,
Chính phủ và Tịa án chỉ là các cơ quan phái sinh từ Quốc hội, do lập pháp thành
lập và phải chịu sự kiểm soát của cơ quan này. Do đó, trong tập quyền xã hội chủ
nghĩa thì ba nhánh quyền không thể cân bằng nhau như trong phân quyền.
Thứ ba, vì tập quyền xã hội chủ nghĩa khơng có sự phân chia quyền lực nhà
nước nên cũng khơng đặt ra nhu cầu “kiềm chế và đối trọng” giữa các nhánh quyền
lực. Có chăng chỉ là sự kiểm tra, giám sát từ phía Nhân dân và lập pháp đối với các
cơ quan hành pháp, tư pháp. Sự kiểm tra, giám sát này chỉ mang tính “một chiều” vì
ở tập quyền khơng có cơ chế kiểm sốt ngược lại đối với lập pháp do tư tưởng Quốc
hội toàn quyền, quá đề cao Quốc hội. Trong khi, ở phân quyền, sự “kiềm chế và đối
trọng”, giữa các nhánh quyền rất gay gắt. Nó được coi là chìa khóa quan trọng để
kiểm sốt sự lạm quyền, vì mỗi cơ quan đều tách biệt, hoạt động độc lập, quyền lực
luôn bị giới hạn trong khn khổ và phải chịu sự “kiểm sốt chéo” từ hai cơ quan
cịn lại. Tiêu biểu nhất có thể kể đến là tổ chức bộ máy nhà nước của Hoa Kỳ Quốc gia đưa cơ chế “kiềm chế và đối trọng” lên đỉnh cao.
1.2.2. Phân quyền với phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
nhà nƣớc
Đầu tiên, cần khẳng định rằng nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm sốt
quyền lực khơng phải là mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước như phân quyền và tập
quyền mà chỉ là cách thức để tổ chức bộ máy nhà nước. Sau một thời gian dài áp
dụng nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa trong Hiến pháp 1959 và Hiến pháp
1980, tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta đã bộc lộ nhiều yếu điểm, nhiều nội dung
không cịn phù hợp với tình hình tình hình kinh tế, xã hội của đất nước đang biến
chuyển nhanh chóng. Trước tình hình thực tiễn đó, địi hỏi phải có một bản Hiến
pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho Nhân dân. Hiến pháp 1992 ra đời là bước tiến quan trọng trong
việc nhận thức lại tập quyền xã hội chủ nghĩa. Cho đến năm 2001, đánh dấu bước
17
ngoặt của nền lịch sử lập hiến Việt Nam khi nguyên tắc phân công, phối hợp quyền
lực nhà nước đã chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp sửa đổi. Điều này thể
hiện sự áp dụng những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền vào tổ chức bộ máy ở
nước ta. Và bản Hiến pháp 2013 đã hoàn thiện cơ chế này khi bổ sung thêm vấn đề
kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói, nguyên tắc phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt quyền lực được xem như là thành tựu lý luận của Việt Nam trong việc áp dụng
tập quyền xã hội chủ nghĩa kết hợp với những hạt nhân hợp lý của thuyết phân
quyền trong hoàn cảnh thực tế ở nước ta.
Nguyên tắc này có những đặc điểm sau: Một là, quyền lực nhà nước là thống
nhất, khơng thể phân chia vì Nhân dân mới là chủ thể tối cao của quyền lực nhà
nước mà không phải Quốc hội hay Nghị viện. Tuy vậy, Nhân dân lại khơng thể tự
mình thực hiện quyền lực đó được mà phải ủy quyền cho cơ quan đại diện là Quốc
hội. Hai là, mặc dù Quốc hội là cơ quan thống nhất quyền lực nhà nước nhưng
Quốc hội không thể thực hiện cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà phải
phân công nhiệm vụ và giao cho các thiết chế khác nhau thực hiện. Ba bộ phận của
quyền lực nhà nước được phân công, thực hiện các quyền riêng: Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước;
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp;
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Ba là, tuy có sự phân
công nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn nhưng các cơ quan này khơng độc lập, riêng
rẽ hồn tồn với nhau mà ln có sự kiểm sốt, phối hợp chặt chẽ để thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Từ đó, có thể đảm bảo quyền lực nhà nước là
thống nhất về tay Nhân dân, các cơ quan nhà nước làm đúng, đủ trách nhiệm và
quyền hạn mà Nhân dân giao cho.
Tìm hiểu về học thuyết phân quyền với nguyên tắc phân cơng, phối hợp và
kiểm sốt quyền lực nhà nước, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một số khác biệt
như sau:
Thứ nhất, về phân công quyền lực nhà nước. Trong khi lý thuyết phân
quyền đòi hỏi quyền lực phải có sự “phân chia” rõ ràng, rành mạch, các cơ quan
trong bộ máy nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn riêng biệt và “độc lập” hoàn toàn
với nhau vì khơng có sự chung đụng nhân viên hay chồng lấn thẩm quyền. Trái với
sự tách bạch một cách triệt để đó, ở phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực, sự
phân cơng chỉ mang tính tạm thời. Các nhà lập hiến Việt Nam đã khôn khéo khi sử
dụng thuật ngữ “phân công” để phân biệt với “phân chia” trong lý thuyết phân
quyền. Lúc này, quyền lực nhà nước là thống nhất chứ không chia nhỏ. Và mặc dù
18
quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng không giống như tập quyền xã hội chủ
nghĩa, tập trung tuyệt đối vào cơ quan đại diện nhân dân, đề cao Quốc hội và hạ
thấp vai trò của các nhánh quyền còn lại mà thay vào đó, ở phân cơng, phối hợp và
kiểm sốt quyền lực thì ln có sự phân cơng, phân nhiệm hợp lý giữa các cơ quan.
Thứ hai, quyền lực nhà nước được phân định thành ba nhánh và phân công
cho các cơ quan khác nhau thực hiện nhưng để đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả
trong hoạt động của bộ máy nhà nước, tránh trùng lặp, chồng chéo và hướng tới
thực hiện mục tiêu chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì ngồi việc
phân cơng thì cịn phải có sự phối hợp lẫn nhau giữa các cơ quan23. Trái lại, với
phân quyền thi lại không yêu cầu sự phối hợp quyền lực giữa các cơ quan. Vì phối
hợp là u cầu của sự “phân cơng”, nhưng phân quyền lại tuân thủ cơ chế độc lập
gần như tuyệt đối, các cơ quan “mỗi người một việc” hoạt động hoàn toàn độc lập,
tách biệt với nhau nên việc phối hợp trong khi thực thi quyền lực nhà nước là khó
có thể xảy ra.
Thứ ba, đối với phân quyền và phân cơng, phối hợp, kiểm sốt quyền lực
nhà nước thì vấn đề kiểm sốt quyền lực đều được đặt ra. Tuy nhiên, đối với phân
quyền thì sự kiềm chế, đối trọng giữa các nhánh quyền xảy ra gay gắt hơn. Do yếu
tố đa đảng tác động, các đảng này thường có lợi ích và đường lối đối lập nhau nên
họ ln tìm cách để làm cho đảng mình chiếm ưu thế bằng việc đẩy mạnh hoạt động
kiểm tra, giám sát lẫn nhau để “hạ thấp” uy tín và “triệu tiêu” đối phương. Cịn đối
với phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực, thì hoạt động giám sát được thực
hiện nhẹ nhàng, mang tính nhân văn hơn rất nhiều. Vì mục đích của kiểm sốt
khơng phải “triệt tiêu” lẫn nhau mà là giúp hoạt động phân công, phối hợp trở nên
trơn tru, hiệu quả hơn.
1.3. Sự áp dụng tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc trong các mơ
hình chính thể
Hiện nay, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước ngày càng có ảnh hưởng
sâu rộng và được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hầu hết các nước tư bản
đều tiếp thu học thuyết này và việc phân chia quyền lực đã trở thành một trong
những nguyên tắc hiến định và đặc trưng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước. Tuy nhiên, trong các nhà nước tư sản hiện đại, việc áp dụng tư tưởng
phân chia quyền lực có sự khác nhau, phụ thuộc vào hình thức chính thể và ln có
sự biến dạng tùy theo điều kiện của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển cụ
23
(truy cập ngày 16/6/2022).
19
thể “phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà khi vận dụng ở các nước khác nhau, cách thức
tổ chức quyền lực này bị biến dạng làm cho sự phân chia và phối hợp trở thành
mang tính hình thức và tượng trưng”24. Do đó, trong số các quốc gia tiếp thu tư
tưởng này, có thể chia làm ba loại chính thể cơ bản sau:
1.3.1. Sự áp dụng tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc trong chính
thể đại nghị
Khi tìm hiểu về sự phân chia quyền lực trong chính thể đại nghị (kể cả nền
qn chủ hay nền cộng hịa) có thể thấy, hành pháp và lập pháp khơng hồn tồn
độc lập mà ln có mối liên hệ tác động qua lại, nhánh quyền lực này được thành
lập và tồn tại trên cơ sở có sự tín nhiệm và tin tưởng của nhánh quyền lực kia.
Chính vì vậy, cơ chế phân chia quyền lực nhà nước trong mơ hình chính thể đại
nghị là phân quyền mềm dẻo, ơn hịa. Sự mềm dẻo đó thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, trong việc hình thành các cơ quan nhà nước. Trong đó, Nghị viện
- nắm quyền lập pháp do dân trực tiếp bầu ra, bao gồm Thượng Nghị viện và Hạ
Nghị viện. Còn hành pháp, đứng đầu là Thủ tướng được Nghị viện bầu trên cơ sở
Đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện, nghĩa là Thủ tướng cũng chính là thành
viên của Nghị viện và là thủ lĩnh của Đảng cầm quyền. Các bộ trưởng trong Chính
phủ đều là những nghị sĩ do Nữ hoàng bổ nhiệm. Đối với nhánh tư pháp thì Nữ
hồng sẽ bổ nhiệm Thẩm phán theo đề nghị của Chính phủ. Hệ thống Tịa án ở Anh
đặt dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Thượng viện, ông ta vừa là Chánh án tối cao vừa
là thành viên của Chính phủ. Có thể thấy, các cơ quan và các chức danh đều được
thành lập trên cơ sở sự bổ nhiệm hoặc phê chuẩn của Nghị viện hoặc đang là thành
viên của Nghị viện. Như vậy, đã có sự chung đụng nhân viên giữa lập pháp với
hành pháp và lập pháp với tư pháp. Điều này khiến cho hoạt động của ba cơ quan
này không thể độc lập với nhau mà ln có sự cộng tác, đan xen lẫn nhau.
Thứ hai, trong sự phân chia nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước. Tuy chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nghị viện, Chính phủ, Tịa án khác nhau nhưng
chúng khơng tách biệt hồn tồn mà có sự phối hợp thường xuyên để thực hiện
quyền lực nhà nước. Chẳng hạn như trong lĩnh vực lập pháp thì Nghị viện Anh có
thể ủy quyền lập pháp cho Chính phủ; quyền sáng kiến pháp luật thuộc về Chính
phủ, Chính phủ sẽ soạn thảo các dự luật, hoạch định chính sách cho Nghị viện thảo
luận và thông qua hay Nghị viện cũng có thể can thiệp vào cơng việc của hành
pháp thơng qua việc bầu chức danh Thủ tướng và các thành viên trong Nội các.
Nguyên thủ quốc gia là Vua hoặc Nữ hồng có vai trị quan trọng nhưng chỉ là hình
24
Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 224.
20
thức, khơng có thực quyền mà quyền hành pháp được trao cho Thủ tướng và Chính
phủ. Trong lĩnh vực tư pháp, Thượng viện nhưng lại trở thành cơ quan tối cao có
quyền phán quyết, xét xử các vụ việc bị kháng án của tất cả các tòa án, là tòa đưa ra
quyết định cuối cùng và không bị kháng án25. Có thể thấy, hoạt động của các nhánh
quyền chưa thực sự tách biệt rõ ràng như lý thuyết phân quyền mà đang có sự nhập
nhằng, đan xen về chức năng, nhiệm vụ giữa ba nhánh quyền.
Thứ ba, trong việc kiểm sốt quyền lực nhà nước. Xét về vị trí của các cơ
quan trong tổ chức bộ máy nhà nước Anh, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy ở
chính thể đại nghị, Nghị viện có quyền lực rất lớn, đứng trên hai cơ quan cịn lại.
Xuất phát từ mục đích ban đầu của các nhà lập hiến là hạn chế đến mức tối đa
quyền lực của hành pháp, xây dựng một Nghị viện có thực quyền. Do thẩm quyền
rộng lớn của Nghị viện mà ở Anh đã có câu ngạn ngữ: "Nghị viện có quyền làm tất
cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành đàn bà". Do thành lập trên cơ sở của lập pháp
nên Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Nghị viện có quyền giám sát
Chính phủ, có thể lật đổ Chính phủ thơng qua cơ chế bất tín nhiệm và quyền bắt
giam, truy tố các thành viên của Nội các. Nghị viện cũng có thể can thiệp vào hoạt
động nội bộ của Chính phủ qua việc bầu Thủ tướng. Nhưng dần trở về sau, sự tranh
giành quyền lực của các đảng phái chính trị đã làm vai trị của Nghị viện khơng cịn
mạnh mẽ như trước, mà thay vào đó cơ quan hành pháp ngày càng lấy lại vị thế
trung tâm của quyền lực nhà nước của bộ máy nhà nước về mình. Từ chỗ phải chịu
sự kiểm sốt của Nghị viện, Chính phủ có thể thao túng ngược lại Nghị viện, Hiến
pháp cũng trao Thủ tướng những quyền có thể tác động đến hoạt động làm luật của
Nghị viện, có thể đe dọa giải tán Nghị viện trước hạn, ban bố tình trạng khẩn cấp.
Tuy nhiên, trên thực tế thì điều này rất khó xảy ra vì các thành viên Chính phủ là
tập hợp của Đảng chiếm đa số trong Nghị viện. Vì họ cùng chung một Đảng, chung
đường lối chính sách, Nội các được xem như là một “Uỷ ban” thu nhỏ của Đảng
cầm quyền nên khi đưa ra biểu quyết việc “luận tội” sẽ nhận được phản đối của đa
số thành viên trong Nghị viện. Quyền lực xét xử cần sự độc lập hồn tồn thì lại
khơng đạt được vì chế độ bổ nhiệm Thẩm phán dựa trên cơ sở của Nghị viện. Và
cũng khơng có cơ chế để tư pháp kiểm soát ngược lại với lập pháp và thiếu cơ chế
“kiểm soát chéo” giữa hành pháp và tư pháp. Như vậy, cơ chế kiểm soát giữa lập
pháp và hành pháp tại Anh chưa thực sự hiệu quả, sự kiểm soát giữa các cơ quan
này cũng chưa đến mức gay gắt, triệu tiêu nhau.
25
Xem thêm Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà
nước ở một số nước, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 142.
21
Chung quy nhất, chính thể đại nghị là mơ hình phân chia quyền lực ở mức
độ mềm dẻo do giữa lập pháp và hành pháp khơng có sự độc lập rõ ràng khi hành
pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp và có sự chung nhân viên giữa các
nhánh quyền lực. Các nhánh quyền lực này dựa vào nhau để hình thành và hoạt
động. Đây là kết quả của quá trình phát triển qua nhiều thế kỷ, thể hiện sự thích
ứng và linh hoạt để kết hợp sức mạnh giữa các đảng phái và quyền hành pháp. Tuy
nhiên, nó vẫn cịn có điểm hạn chế là khơng phân quyền rõ ràng, sự chung đụng
nhân viên khiến cho hoạt động của các cơ quan bị nhập nhằng, không đảm bảo sự
độc lập, kiềm chế đối trọng của các nhánh quyền khi thực hiện quyền lực nhà nước.
Chính vì vậy, có một số quan điểm cho rằng, tổ chức bộ máy nhà Anh hiện nay
khơng thực sự tn thủ hồn tồn ngun tắc phân chia quyền lực.
1.3.2. Sự áp dụng tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc trong chính
thể cộng hịa tổng thống
Khác với chính thể đại nghị, chính thể cộng hòa tổng thống lại áp dụng
nguyên tắc phân chia quyền lực một cách “cứng rắn” trong tổ chức bộ máy nhà
nước. Thể hiện ở việc các nhánh quyền lực độc lập với nhau nhờ khơng có sự
chung nhân viên giữa chúng. Hiện nay, có khoảng bốn mươi hai quốc gia có chỉnh
thể cộng hịa tổng thống. Mà đại diện điển hình cho mức độ áp dụng này là nhà
nước Liên bang Mỹ với cơ chế “kiềm chế và đối trọng” phản ánh khá chính xác
tương quan giữa ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự cứng rắn
thể hiện qua một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, trong việc hình thành các nhánh quyền lực. Với việc áp dụng tư
tưởng phân quyền triệt để thì cả hành pháp và lập pháp đều độc lập, không thành
lập trên cơ sở của nhau. Theo đó, cả lập pháp và hành pháp đều do Nhân dân bầu ra
theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Các vị Nghị sĩ Quốc hội sẽ do Nhân dân trực
tiếp bầu, còn Tổng thống sẽ được bầu gián tiếp thông qua đại cử tri. Điều này sẽ
giúp lập pháp và hành pháp tách biệt triệt để vì khơng có sự phụ thuộc và khơng có
sự chung đụng nhân viên với nhau. Tuy nhiên, nhánh tư pháp lại chưa thực sự đạt
được điều này vì chế độ bầu cử Thẩm phán được thành lập trên cơ sở của lập pháp
và hành pháp. Cụ thể, Thẩm phán tối cao của pháp viện liên bang sẽ do Tổng thống
đề cử và Thượng viện phê chuẩn.
Thứ hai, trong việc phân chia nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà
nước. Trong chính thể cộng hịa tổng thống, ln có sự tách bạch rõ ràng giữa các
cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Mỗi cơ quan đều có chức năng
riêng, khơng cơ quan nào có quyền “xâm lấn” thẩm quyền của cơ quan khác: Một
là, trong lĩnh vực lập pháp, Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 đã trao thẩm quyền cho riêng