TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI : “Nghiên cứu cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 và
bài học rút ra cho Việt Nam về thu hút đầu tư nước ngoài”
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Thanh
Lớp học phần
:2152FECO1921
Nhóm
:4
Năm học 2020-2021
1
MỤC LỤC
1.Đặt vấn đề………………...………………………………………………………….3
2.Cơ sở lí luận……………...…………………..………………………………………4
2.1Đầu tư nước ngồi………..………………………………………………………….4
2.2Khủng hoảng tài chính……..………………………………………………………..5
2.3Mối quan hệ giữa khủng hoảng tài chính và đầu tư nước ngồi…….………………5
3.Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997………………………………….……..7
3.1Tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997…………………………….7
3.2 Nguyên nhân cuộc khủng hoảng……………………………………………………7
3.3Tác động của cuộc khủng hoảng………...…………………………………………..8
3.3.1 Tác động đến nền kinh tế thế giới……….……………………………………..8
3.3.2 Tác động đến Việt Nam………………………….…………………………….8
3.4Giải pháp ứng phó của chính phủ các nước………………….…………………….15
4.Bài học rút ra cho Việt Nam về thu hút đầu tư nước ngoài ……………………..17
Kết luận….. ……………………………...…………………………………………...21
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………………..22
2
NGHIÊN CỨU CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
CHÂU Á 1997 VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM
VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI
Nhóm 4: Ngơ Thanh Huyền (K54E3); Nguyễn Thị Thu Huyền (K55E2); Dương Trung
Kiên (K55E4); Ngô Thị Khánh Linh (K55E3); Ngô Thị Phương Linh (K55E4); Nguyễn
Thị Khánh Linh (K55E3); Phạm Mỹ Linh (K55E1); Vũ Thị Diệu Linh (K55E3); Nguyễn
Thị Loan (K55E4); Nguyễn Thị Luyến (K55E4).
Học phần: Đầu tư quốc tế
Mã học phần: 2152FECO1921
Tháng 11.2021
Tóm tắt:
Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm
1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn,
và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi
như là "những con Hổ Đơng Á". Cuộc khủng hoảng này cịn thường được gọi là Khủng
hoảng tiền tệ châu Á. Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng,
bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước
châu Á. Trước tình hình đó, chính phủ các nước ra sức thực hiện các biện pháp để khôi
phục lại thị trường tài chính của nước mình. Việt Nam cũng khơng ngoại lệ. Bài thảo
luận dưới đây tập trung phân tích nguyên nhân, tác động, hậu quả và giải pháp ứng phó
với cuộc khủng hoảng của các nước bị ảnh hưởng. Từ đó đề ra những bài học cụ thể
cho Việt Nam về thu hút đầu tư nước ngoài.
1.Đặt vấn đề
Bước vào thế kỉ XXI chúng ta đang bước vào quá trình mở cửa và hội nhập quốc
tế , cùng với quá trình CNH - HĐH đất nước. Với sự hội nhập quốc tế ngày càng đa
dạng đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội nhưng khơng ít thử thách trong quá trình
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Trong quá trình mở cửa và hội
nhập với nền kinh tế thế giới , chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trên
tất cả các mặt như kinh tế, chính trị, VH XH, ngoại giao..., nhờ vào quá trình hội nhập
kinh tế đã tạo ra những cơ hội hợp tác kinh tế, liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp
trong nước với doanh nghiệp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong quá trình phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế , Việt Nam chúng ta khơng
thể phủ nhận vai trị quan trọng của đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài ngày
càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế đang trên đà phát triển nói chung cũng như
Việt Nam nói riêng . Nó thể hiện rất cụ thể, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài chính
ở các quốc gia châu Á năm 1997 khi một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài giảm hàng
loạt bởi nền tảng kinh tế vĩ mơ yếu kém, các dịng vốn nước ngoài kéo vào và quan trọng
3
hơn là sự tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt của các nhà đầu tư nước ngoài vào các
quốc gia đang phát triển nhanh hàng đầu của khu vực châu Á như là Thái Lan, Hàn
Quốc, Malaysia,.. Nó đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá
tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở những quốc gia này; nhiều
doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo
trong các năm 1997-1998; những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn
Quốc và Thái Lan… Khơng nằm ngồi sự khủng hoảng đó, nền kinh tế của Việt Nam ít
nhiều cũng chịu sự ảnh hưởng bởi vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sau 1997 đã bị
sụt giảm nhanh chóng so với trước đó, nó đã ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế còn non trẻ
sau đổi mới của Việt Nam. Vốn đầu tư nước ngồi khơng chỉ là nguồn cung cấp vốn
quan trọng mà cịn là con đường cung cấp cơng nghệ hiện đại , những bí quyết kỹ thuật
cao, đặc biệt là những kinh nghiệm trong công tác quản lý và là cơ hội tốt cho VN tham
gia hội nhập kinh tế thế giới .
Chính vì vậy việc tìm hiểu nghiên cứu về cuộc khủng hoảng tài chính 1997 ở
châu Á, từ đó rút ra bài học về vấn đề đầu tư nước ngồi ở Việt Nam là vơ cùng cần
thiết nhất là trong điều kiện nước ta cũng đang trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Nghiên cứu về nguyên nhân , diễn biến cũng như những hậu quả mà cuộc khủng
hoảng gây ra cho nền kinh tế các nước châu á cũng như các nước khác trên thế giới sẽ
cho chúng ta cái nhìn đúng đắn hơn về " mặt trái " xu hướng toàn cầu hoá đồng thời rút
ra những bài học kinh nghiệm về vấn đề đầu tư nước ngồi ở Việt Nam.Vì thế, nhóm 4
chúng tơi đã quyết định lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á 1997 và bài học rút ra cho Việt Nam về thu hút đầu tư nước ngoài ” làm đề
tài nghiên cứu cho bài thảo luận này .
2.Cơ sở lí luận về khủng hoảng tài chính và đầu tư nước ngồi
2.1 Đầu tư nước ngoài
a, Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình của đầu tư quốc tế, phản ánh sự
di chuyển của các loại tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý từ nước này sang
nước khác trong một thời gian dài để kinh doanh với mục tiêu là lợi nhuận, trong đó
người sở hữu vốn (cổ phần tại doanh nghiệp nhận đầu tư) trực tiếp điều hành các hoạt
động tại doanh nghiệp nhận đầu tư.
Đặc điểm
• Hầu hết do MNCs thực hiện
• Thời gian dài và có tính ổn định
• Thường kèm theo chuyển giao cơng nghệ
• Chủ đầu tư có quyền tự quyết
• Phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu
• Nhằm tìm kiếm lợi nhuận
b, Đầu tư gián tiếp nước ngoài (hoặc đầu tư chứng khốn nước ngồi) là một loại
hình thức di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó chủ đầu tư của một nước mua chứng
khoán (cổ phiếu, trái phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác) của nước ngồi để thu lợi nhuận
nhưng khơng nắm quyền kiểm sốt trực tiếp đối với tổ chức phát hành chứng khoán.
Đặc điểm
• Chủ đầu tư nước ngồi chỉ nắm giữ chứng khốn, khơng nắm quyền kiểm
sốt hoạt động của tổ chức phát hành chứng khốn; bên tiếp nhận đầu tư có
quyền chủ động hoàn toàn trong sử dụng vốn.
4
Đầu tư chứng khoán với kỳ vọng về một khoản lợi nhuận tương lai dưới
dạng cổ tức hoặc phần chênh lệch giá .
• Số lượng chứng khốn mà các chủ thể đầu tư nước ngồi được mua có thể
bị khống chế ở mức độ nhất định tùy theo từng loại chứng khốn và tùy theo
từng nước, thường < 10%.
• Tính bầy đàn; vào/ra nhanh.
• Thu nhập của chủ đầu tư: cố định hoặc không cố định, tùy thuộc vào loại
chứng khốn mà nhà đầu tư mua.
• Nước tiếp nhận đầu tư khơng có khả năng, cơ hội tiếp thu cơng nghệ, kỹ
thuật máy móc thiết bị hiện đại và kinh nghiệm quản lý...mà chỉ tiếp nhận
vốn bằng tiền.
• Chủ đầu tư thường là các định chế tài chính, các quỹ đầu tư, cơng ty bảo
hiểm, quỹ hưu trí hoặc cá nhân, doanh nghiệp.
2.2 Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có
thể dẫn đến sụp đổ quỹ. Đặc trưng của mỗi quỹ cấu thành nên hệ thống tài chính là các
dịng tiền vào/ ra, nhận/ thanh tốn, hình thành tài sản có/ tài sản nợ. Khi xảy ra hiện
tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số lượng,
thời hạn, chủng loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính. Như vậy, khủng hoảng
tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi loại khủng hoảng gắn với
mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều
phương tiện dùng để thanh tốn tại một thời điểm nào đó. Chính vì vậy, khủng hoảng
tài chính có đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng “thừa”
diễn ra trong nền kinh tế thị trường từ nhiều năm nay.
Đặc điểm:
• Khủng hoảng tài chính xảy ra trong nền kinh tế tiền tệ, liên quan đến cấu
trúc tài chính, ảnh hưởng đến mức giá tài sản chính (S&P 500, NYSE…),
đầu tư tài chính.
• Gây ra sự sụp đổ các định chế tài chính và sự nổ tung bong bóng giá tài sản,
và có tác động đến nền kinh tế thực.
2.3 Mối quan hệ giữa khủng hoảng tài chính và đầu tư nước ngồi.
Khủng hoảng tài chính tác động đến đầu tư quốc tế trên những khía cạnh chính sau:
• Thứ nhất, các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh chuyển lợi nhuận về nước.
• Thứ hai, vốn tài trợ của công ty mẹ ở bản quốc cho các công ty con ở nước nhận
đầu tư giảm sút nghiêm trọng. Các nước phát triển thay vì đầu tư ra nước ngồi,
đã quay lại để ngăn chặn suy giảm kinh tế trong nước.
• Thứ ba, tạo ra làn sóng bảo hộ nền kinh tế trong nước nhằm ứng phó với khủng
hoảng trong ngắn hạn. Điều này gây bất lợi cho thu hút đầu tư quốc tế.
Đối với đầu tư trực tiếp:
Cuộc khủng hoảng tài chính làm cho tình hình kinh doanh quốc tế xấu nghiêm trọng,
mức độ rủi ro cao, thiếu vốn nên nhiều tập đoàn phải điều chỉnh chiến lược đầu tư kinh
doanh, điều chỉnh địa bàn và các định hướng đầu tư dẫn đến thu hẹp phạm vi đầu tư,
đồng thời cắt giảm vốn nhằm giảm thiểu rủi ro kinh doanh.
•
Khủng hoảng tài chính tồn cầu và sự suy yếu về kinh tế đã làm giảm khả năng và
xu hướng đầu tư của các công ty, đặc biệt xu hướng đầu tư ra nước ngoài. Tạo ra tâm lý
quan tâm đặc biệt đến những bất ổn và rủi ro toàn cầu - là những nhân tố cản trở lớn
5
trong thực hiện các chương trình FDI nhiều tham vọng. Mong muốn của các công ty mở
rộng đầu tư ra nước ngồi ít dựa vào cách thức đóng góp cổ phần như cùng sở hữu và
cấp phép nhằm giảm chi phí đầu tư của mình.
Sự suy giảm mạnh hoạt động M&A là vì các cơng ty xun quốc gia TNCs khơng
muốn mạo hiểm đầu tư ra bên ngồi trong giai đoạn này, thay vào đó, họ tập trung nguồn
vốn để cải tổ hoạt động các công ty và doanh nghiệp trong nước. Đây chính là nguyên
nhân chính dẫn đến giảm FDI tồn cầu.
Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đã ngày càng tác động mạnh đến kế hoạch đầu
tư của các công ty xuyên quốc gia TNCs (Transnational Corporations). Lợi nhuận suy
giảm do khối lượng buôn bán giảm sút đã làm hạn chế xu hướng đầu tư. Mặt khác, chi
phí kinh tế tăng và khả năng tiếp cận tín dụng giảm làm cho các cơng ty khó có khả năng
tiếp cận được với nguồn tài chính bên ngồi để đầu tư cho các dự án mới (bao gồm cả
các dự án sáp nhập và mua lại M&A và các dự án môi trường xanh greenfield). Đây
được coi là tác động của "đổ vỡ tín dụng và khủng hoảng tài chính" (financial crisis and
credit crunch). Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính tồn cầu, nhiều
cơng ty do dự trong việc chọn lựa xu hướng đầu tư và thường thiên về chọn lựa các
chiến lược đầu tư ít rủi ro, có số lượng vốn đầu tư khơng nhiều.
Đối với đầu tư gián tiếp:
Khủng hoảng tài chính làm cho các nhà đầu tư lo ngại trước những bất ổn của thị
trường và bán chứng khoán để nắm giữ những tài khoản ít rủi ro hơn khiến dịng vốn
đầu tư gián tiếp sụt giảm nghiêm trọng.
+ Dòng vốn đầu tư gián tiếp biến động mạnh. Thị trường chứng khoán trong nước
liên tục điều chỉnh, với nhiều yếu tố tác động. Trong đó việc bán rịng của các nhà đầu
tư nước ngồi có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường, tạo hiệu ứng mạnh đến
tâm lý nhà đầu tư, và làm cho thị trường liên tục giảm điểm. Việc các tổ chức tài chính
– chi nhánh hoặc cơng ty con rút vốn về nước nhằm cứu nguy hoặc đảm bảo an tồn cho
các cơng ty mẹ. Bên cạnh đó khủng hoảng tài chính cũng tạo tâm lý bảo tồn vốn; tâm
lý nắm giữ tiền mặt hơn là cổ phiếu của các Nhà đầu tư – Đây là 02 nguyên nhân cơ bản
mà nhà đầu tư nước ngồi bán rịng, có tác động ảnh hưởng đến thị trường chứng khốn
trong nước
+ Các hoạt động đầu tư, liên kết góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược
vào hệ thống ngân hàng trong nước giảm và hạn chế hơn. Tác động mang tính gián tiếp
này, chủ yếu ảnh hưởng đến chiến lược tăng trưởng vốn điều lệ của một số NHTMCP ;
hoặc không đạt được theo kế hoạch kỳ vọng. Qua đó ảnh hưởng đến q trình thực hiện
chiến lược đổi mới công nghệ ; phát triển dịch vụ cũng như tiếp cận và học tập kinh
nghiệm quản trị, quản lý ngân hàng hiện đại của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài.
Đây là tác động tạm thời và mang tính ngắn hạn.
+ Những biến động của lãi suất; của giá vàng; của đồng Dollar Mỹ... trên các thị
trường tiền tệ thế giới trong điều kiện khủng hoảng thường biến động nhanh, liên tục và
khó dự báo. Điều Này tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ, và tác động ảnh hưởng
nhất định đến thị trường tiền tệ ; thị trường ngoại hối...
6
3.Khủng hoảng tài chính Châu Á 1997
3.1 Tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997
Năm 1997 là một năm đầy biến động trên thị trường tài chính tiền tệ thế giới đặc biệt
là khu vực châu Á với khủng hoảng tài chính tiền tệ nghiêm trọng bắt đầu từ Thái Lan
sau đó lan san các nước ASEAN khác rồi tới Hàn Quốc, Nhật Bản. Dù đã được Chính
phủ mỗi nước, các tổ chức quốc tế như IMF,.. cùng các quốc gia có nền kinh tế mạnh
trên thế giới phối hợp ngăn chặn. Song thực tế đã cho thấy, cuộc khủng hoảng đã tác
động đến phạm vi mang tính tồn cầu để lại nhiều hệ lụy và bài học đắt giá cho những
nền kinh tế mới nổi. Tại thời điểm đó, nhiều nước châu Á là điểm đến lý tưởng của các
nhà đầu tư trên thế giới: tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, lãi suất đầu tư hấp dẫn, thị
trường chứng khoán ,nhu cầu tiêu dùng cao cấp phát triển vượt bậc. Tuy nhiên,nền tảng
kinh tế vĩ mơ yếu, các vịng vốn nước ngồi kéo vào, tấn công đầu cơ và rút vốn hàng
loạt khiến Thái Lan không kịp phản ứng. Dẫn đến đồng tiền mất giá, các thị trường
chứng khoán, trung tâm tiền tệ sụp đổ, tài sản sụt giảm. Bắt đầu từ Thái Lan rồi lan sang
các quốc giá Châu Á khác để lại các hậu quả nghiêm trọng. Còn tùy vào năng lực xử lý
khủng hoảng ở mỗi quốc gia khác nhau mà hậu quả để lại khác nhau.
3.2 Nguyên nhân
• Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Sản xuất và cơ sở hạ tầng tập trung vào xuất khẩu, quan tâm đặc biệt để đáp ứng
nhu cầu trên thị trường Mỹ. Nhu cầu của thị trường nội địa gần như bị lãng quên. Về lâu
dài, nền kinh tế mất đi tính chủ động. Thêm nữa, Chính phủ gắn đồng tiền quốc gia với
đồng Đơ la Mỹ và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Khi cục dữ trữ Liên bang Mỹ
tăng giá đồng Đô la, giá của đồng bạc tăng theo. Điều này làm cho tài khoản vãng lai
của Thái lan suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc
tế tăng. Trong hồn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đối neo lỏng
lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù
đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ
ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
• Các vịng vốn nước ngồi kéo vào
Vào thời điểm đó, tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, lãi suất đầu tư hấp dẫn, thị trường
chứng khoán ,nhu cầu tiêu dùng cao cấp phát triển vượt bậc. Lãi suất ở các nước châu
Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dịng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào
các nước châu Á. Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm
của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các cơng ty ở châu Á bất
chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi
vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ khơng tự bảo hiểm rủi ro.
• Tấn cơng đầu cơ và rút vốn hàng loạt
Một số quỹ đầu cơ tài chính sững sở đã ký hàng loạt hợp đồng mua bán ngoại tệ có
thời hạn ở Thái Lan. Lúc đó, ngân hàng nhà nước cảm thấy những hợp đồng này khơng
có gì đáng ngại cịn xem đây là một trong những phương pháp hữu hiệu đảm bảo vốn
lưu thông cho nền kinh tế. Đến tháng 5 năm 1997, những dấu hiệu tiền khủng hoảng
xuất hiện, ngân hàng Thái Lan mới dừng hoạt động này nhưng đã quá muộn. Thị trường
bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta khơng
cịn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy
những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu
7
cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút
vốn ra.
• Năng lực xử lý khủng hoảng kém:
Khi nhận ra bị tấn cơng tiền tệ, chính phủ Thái Lan đã cố sức bảo vệ tỷ giá để đến
nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối ngoài nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm
kéo dài. Nhiều nhà kinh tế cho rằng đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng
tiền của mình.
3.3 Tác động của cuộc khủng hoảng đến thế giới và Việt Nam
3.3.1 Tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới
Trong những năm 90 những nước đang phát triển ở Châu Á rất coi trọng đầu tư nước
ngoài vì đầu tư trực tiếp hay gián tiếp đều bổ sung nguồn vốn rất nhiều cho nền kinh tế.
Tuy nhiên khi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số nước Đơng Nam Á năm
1997 nổ ra, nó đã để lại những hậu quả nặng nề, đặc biệt là đối với các nước đang phát
triển. Nó gây ra những chấn động lớn về kinh tế, xã hội ở mỗi nước, đồng thời ảnh
hưởng đến các nước khác ở khu vực.
a) Tác động tiêu cực
Trước hết, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nằm
trong khu vực chịu khủng hoảng cũng gặp phải đó chính là sự mất ổn định của đồng tiền
và của các thị trường tiền tệ ở mỗi nước và khu vực; là sự giảm sút các luồng vốn nước
ngoài đổ vào mỗi nước và toàn khu vực; là sự giảm sút ngay cả nguồn vốn trong nước
do lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả những điều đó đã làm cho giảm sút tốc độ tăng
trưởng của các nước, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và tăng tài khoản
thâm hụt vãng lai. Sự gắng gỏi giữ giá bản tệ đã làm hao kiệt nhanh chóng lượng dự trữ
ngoại tệ của nhà nước, đồng bản tệ bị phá giá nhanh chóng. Cùng với điều đó là tình
trạng thất nghiệp tăng nhanh, lạm phát cao.
Năm Thái Lan Philippines
(Baht/USD (Peso/USD
)
)
Malaysia
(Ringgit/USD
)
Indonesia
(Rupiah/USD
)
Hàn
Quốc(Won/USD
)
199
6
26
26
3
2,308
844
199
7
47
40
4
5,400
1.696
Bảng Tỷ giá hối đối bình qn năm 1996-1997
Nguồn: World Bank
Khủng hoảng cũng góp phần làm tăng lên nhanh chóng tình trạng thất nghiệp ở các
nước trong khu vực (gấp đôi trong năm 1998 so với năm 1997 ở Thái Lan, Hàn Quốc
và Indonesia …) mà còn ở các nước bạn hàng của họ do đó thu hẹp quy mơ nhập khẩu
vì khủng hoảng.
8
Nước
Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp
1996
1997
1998
1996 1997
Thái Lan
6.70
0.40
8.30
3.30
3.70
Malaysia
8.20
7.00
2.00
2.60
2.70
Indonesia
7.80
4.60
13.70
2.20
3.00
Philippines 5.80
5.20
0.50
9.50
10.40 13.80
Hàn Quốc
5.50
5.80
2.30
2.50
7.10
1998
5.00
8.00
Bảng Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính
Nguồn: World Bank
Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn tăng trưởng kinh tế
nhanh, kéo dài hàng mấy thập kỷ trước đó và dựa vào các nguồn vốn nước ngoài của
các nước đang phát triển khu vực, để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với nhịp
độ tăng trưởng ơn hồ hơn.
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng
khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung toàn thế giới khoảng
500 tỷ. Qua đây chúng ta thấy được những tác động có tính chất toàn cầu của cuộc khủng
hoảng này. Lượng đầu tư tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo tính tốn khoảng 150 tỷ
USD đã bị rút khỏi Đông nam Á. Các nhà đầu tư nước ngoài giảm niềm tin. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI bị sụt giảm mạnh mẽ và tiếp tục giảm ở mức thấp trong những năm
tiếp theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ xảy ra.
Sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần
lên vai các công ty - con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh tốn, phá sản của
chúng, nhất là đối với các Công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm
sút nhanh chóng. Ở Inđơnêxia, do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài /GDP
đã nhảy từ 35% lên đến 140%, hầu hết các ngân hàng bị coi là phá sản. Tình hình “bong
bóng bất động sản” vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ
khó địi hoặc giữ gìn bất đắc dĩ một lượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó
bán.
Nước
Năm
Số doanh nghiệp phá sản
Thái Lan
1/1998-5/1998
582
Malaysia
1996
1997
489
6583
Indonesia
1998
Khoảng 80% doanh nghiệp ngừng hoạt động
Hàn Quốc
1997
1998
14000
53000
Bảng Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp
Nguồn: World Bank
9
Khủng hoảng tài chính đã khiến dịng vốn FPI liên tục tháo lui khỏi các nước ASEAN
trong những năm 1997.1998. Theo Báo cáo của Viện tài chính quốc tế, năm 1997 dịng
vốn đầu tư gián tiếp nước ngồi chảy ra khỏi 5 nước bị khủng hoảng nặng nề nhất là
Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Philipin khoảng 64 tỷ USD so với 102,9 tỷ
USD của năm 1996. Dòng vốn này tiếp tục tháo chạy khỏi 5 nước trên trong những năm
tiếp theo, năm 1998 là 53,8 tỷ USD, năm 1999 là 65,7 tỷ USD. Đầu tư cổ phiếu từ mức
20,3 tỷ USD năm 1996 giảm xuống còn 12,9 tỷ USD năm 1997, 6 tỷ USD năm 1998.
Sự tháo chạy của dòng vốn đầu tư gián tiếp khỏi hệ thống tài chính ngân hàng của 5
nước bị khủng hoảng trên đã khiến hệ thống ngân hàng, tài chính rơi vào tình trạng thua
lỗ, phá sản lớn chưa từng có. Tính từ ngày 11 4-1997 đến ngày 31-3-1998, trong tổng
số 108 ngân hàng Thái Lan, có tới 64 ngân hàng có vấn đề (chiếm 59%), 4 ngân hàng
phải bán cho các công ty nước ngồi, 56 ngân hàng bị đình chỉ hoạt động. Số ngân hàng
có vấn đề ở Malaysia là 41 (chiếm 68%), số ngân hàng có vấn đề ở Inđơnêxia là 83
(chiếm 36%), 16 ngân hàng của Inđơnêxia bị đình chỉ hoạt động, 11 ngân hàng bị sáp
nhập. Tại Hàn Quốc, trong số 56 ngân hàng, có 16 ngân hàng bị đình chỉ hoạt động, 18
ngân hàng bị coi là có vấn đề (chiếm 32%).
Năm tài chính từ 01/04/1997 đến 31/03/1998
Năm tài chính
từ 01/04/1996
đến 31/01/1997
(tổng số ngân
hàng)
Số ngân
hàng bị
đình chỉ
hoạt
động
Số ngân
hàng bị
quốc
hữu hóa
Số
Số ngân
ngân
hàng
bị
hàng bị bán
cho
sáp
cơng
ty
nước
nhập
ngồi
Tổng số
ngân
hàng có
vấn
đề
lớn
Thái Lan
108
56
4
0
4
65 (59%)
Malaysia
60
0
0
41
0
41 (68%)
Indonesia 228
16
56
11
0
83 (36%)
Hàn
Quốc
16
2
0
0
18 (32%)
Nước
56
Bảng Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài chính
Nguồn: World Bank
Cuộc khủng hoảng đã đẩy 40% nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Các nền kinh
tế lớn như Nhật Bản, Nga, Brazil,...đã bị cuốn vào vịng xốy của nó. IMF gần như mất
khả năng đóng vai trị “người chữa cháy" của nền kinh tế toàn cầu.
Sau khi bùng nổ cuộc khủng hoảng đồng Baht ở Thái Lan tháng 7/1997, các công ty
Nhật Bản đã vội vã rút vốn khỏi châu Á do sợ suy thoái kinh tế Nhật Bản kéo dài. Những
thay đổi trong chính sách tỷ giá hối đối và bn bán của Mỹ đối với Châu Á đã tác
động tiêu cực đến các nền kinh tế khu vực này. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á
trước hết do cơ cấu yếu kém của nền kinh tế trong nước nhưng bị trầm trọng thêm do
những biến động bên ngồi liên quan đến mơi trường tài chính quốc tế và trật tự buôn
bán quốc tế.
10
Thị trường tiền tệ thế giới đang bị tác động mạnh của sự lưu chuyển vốn ồ ạt và ngắn
hạn. Vì vậy, những biến động ngắn hạn về tỷ giá hối đoái trở nên nhạy cảm và được quy
định bởi sự thay đổi không thể dự báo trước của quan hệ cung cầu tiền tệ. Nguồn vốn
thế giới chảy vào các nền kinh tế mới nổi ở khu vực này giảm mạnh từ mức 196 tỷ USD
năm 1996 xuống còn 39 tỷ USD năm 1998, trong khi các nền kinh tế Âu Mỹ phát triển
ổn định khiến nguồn vốn lại chảy ngược từ các nước Châu Á trở lại Âu Mỹ. GDP của
Mỹ đạt 8000 tỷ USD năm 1998, còn GDP của EU đạt 6000 tỷ. Nền kinh tế Mỹ phát
triển mạnh làm cho đồng đôla Mỹ tiếp tục tăng mạnh lên so với các đồng tiền Châu Á.
Đến tháng 12/1998 các đồng tiền Châu Á vẫn mất giá từ 13% - 16% so với trước khủng
hoảng. Cho đến tận nửa cuối tháng 3-1999 đồng Yên cần được giao dịch với tỷ giá 123124 Yên cho một đôla Mỹ. Xu hướng giảm giá của đồng Yên Nhật Bản cùng với khả
năng lạm phát cao được gọi là cần thiết để kích thích nhu cầu trong nước. Tuy nhiên,
biên độ giao động tỷ giá lớn giữa đồng Yên và đồng đôla Mỹ khơng có lợi cho các nền
kinh tế Châu Á.
b) Tác động tích cực
Nhìn một cách khách quan thì cuộc khủng hoảng tài chính bên cạnh gây ra một loạt
các tác động xấu vơ cùng sâu sắc kể trên thì trong một chừng mực nào đó, nó cũng mang
lại những tác động tích cực. Đó là đem tồn bộ nền kinh tế Châu Á nói chung và Đơng
Nam Á, Đơng Bắc Á nói riêng sang một giai đoạn phát triển mới, thốt khỏi tình trạng
nóng trước đó.
Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm
thiểu được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng
dự trữ quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh
tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
Thứ hai, nhiều nước sẽ nhận được nguồn tín dụng quốc tế chính thức để phục vụ cho
mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế sau khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng cũng giúp
định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hoá hơn nền tài chính quốc gia. Có
thể nói cuộc khủng hoảng sẽ như một cú “động” mạnh để xốc lại nền kinh tế cho cân
bằng, hợp lý và hiệu quả. Toàn bộ nền kinh tế sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất
của khủng hoảng sẽ có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện
hơn, do đó hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần và là dịp để chính phủ và nhân dân mỗi
nước thuộc khu vực cũng như các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế bổ khuyết những
thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn về những yếu tố thuộc con người… từ đó tạo ra
những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế.
Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng cũng chuyển dịch vị thế về kinh tế chính
trị truyền thống của các cường quốc tại khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước
Asean và Mỹ, châu Âu.
3.3.2 Tác động của cuộc khủng hoảng tới Việt Nam
Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam được chia thành hai giai đoạn trước “đổi mới”
và sau “đổi mới”. Trước đổi mới là thời kỳ từ năm 1976 đến năm 1985, sau đổi mới là
giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Hiện tại nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế mở. Từ khi “đổi mới” Việt Nam ngày
càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế giới, do đó cũng đã phải chịu
những ảnh hưởng nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Trên con
11
đường chuyển đổi cơ chế và hội nhập Việt Nam đã đạt được khơng ít thành tựu cũng
như phải đối đầu với khơng ít thách thức.
a) Tác động tiêu cực
*) Xét về lĩnh vực thương mại
Dưới thời kỳ kế hoạch hoá, Việt Nam kiểm soát chặt chẽ việc giao dịch thương mại
nước ngồi. Tại thời điểm đó, Liên Xơ cũ và Đơng Âu là những đối tác thương mại
chính của Việt Nam. Tất cả mọi giao dịch đều do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện.
Xuất khẩu
Sau đổi mới năm 1986, xuất khẩu được coi là mục tiêu số một. Rất nhiều chính sách
đã được thi hành. Tự do hố thương mại bằng việc giảm bớt sự hạn chế của hệ thống
thuế quan và phi thuế quan nhằm khuyến khích người xuất khẩu. Năm 1990, tỷ lệ tăng
trưởng của xuất khẩu đạt 23,5%. Năm 1991, tỷ lệ này giảm xuống -13,2% bởi sự tan rã
của Liên bang Xô viết và Đơng Âu, những đối tác thương mại chính của Việt Nam.
Những năm sau, Việt Nam đã tìm kiếm nhiều thị trường xuất khẩu mới, đó là các quốc
gia Đơng Á như Singapore, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc. Tốc độ tăng trưởng thương
mại tăng nhanh vượt 30% năm 94, 95, 96. Những con số này có xu hướng giảm từ năm
94 và giảm mạnh vào năm 97 và 98 do bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng ở Châu Á vì nước
ta chủ yếu dựa vào thị trường này để phát triển xuất khẩu.
Nhập khẩu
Về nhập khẩu, tỷ lệ này là 7,3% năm 1990, sau đó giảm xuống -15,1% năm 1991,
sau sự tan rã của Liên Xô cũ và Đông Âu. Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu đã tăng lại và đạt
tới 54,4% năm 93. Nhập khẩu tăng mạnh như vậy bởi q trình phát triển cơng nghiệp
cần nhiều ngun liệu và trang thiết bị. Đến năm 94 thì con số nhập khẩu lại giảm xuống
vì nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính khu vực, giảm xuống 4% năm
97 và -0,8% năm 98.
*) Tác động về tỷ giá
Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tác động mạnh mẽ đến tâm
lý của các nhà đầu tư, đã tạo ra tình trạng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ. Ở nước ta thể hiện
rõ nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của dân cư và tổ chức kinh tế quy đổi sang
ngoại tệ hay các loại tài sản khác. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền gửi
bằng đồng Việt Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết
kiệm của dân chúng. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt
trần gây sức ép phá giá đồng tiền Việt Nam. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và
thị trường ngoại hối nói chung cầu ln ln cao hơn cung.
Thời kỳ 1997 – 1998 cũng ghi nhận ba lần điều chỉnh tỷ giá vào tháng 7-1997 (bình
quân 11.690 VND/USD), tháng 2-1998 (bình quân 12.664 VND/USD) và tháng 8-1998
(bình quân 13.715 VND/USD). Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng nhu
cầu vay vốn bằng đồng Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giả và do vậy làm tăng lãi suất
đồng Việt Nam. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua
được USD hoặc phải mua với giá cao để thanh toán đơn hàng đã phải chịu lỗ nặng.
Ngoại trừ đồng SGD bị phá giá 8,3%, bốn đồng tiền khác của khu vực ĐNA bị phá
giá từ 32% đến 56% so với USD, trong khi đó đồng Việt Nam chỉ bị mất giá ít so với
USD (ngày 17/10 ta mới bắt đầu phá giá 4,5% giá trị đồng Việt Nam).
12
Đồng
Tỷ giá so với USD
Mức độ phá giá
Ngày 1/7 Ngày 6/10
Baht/USD
25,65
36,37
42%
Rupiah/USD 24,75
38,65
56%
Peso/USD
26,37
34,92
32%
RM/USD
2,5
3,38
35%
SGD/USD
1,43
1,548
8,3%
Bảng tình hình phá giá của các đồng tiền Đơng Nam Á
Nguồn: World Bank
*) Đầu tư nước ngồi
Nguồn vốn FDI, nói chung nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam
phát triển qua 3 giai đoạn khác nhau, từ 1988 đến 1990, từ 1991 đến 1995 và từ 1996
đến nay:
+ Trong giai đoạn đầu từ 1988 đến 1990, nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam
không đáng kể. Chỉ có 37 dự án được cấp phép vào năm 1988 với mức vốn 371,8 triệu
đôla, con số này tiếp tục tăng trong những năm sau, tốc độ tăng trưởng từ 56,6% năm
1989 giảm xuống 44% năm 1990.
+ Giai đoạn hai, được đánh dấu bởi sự tăng lên vượt bậc của dòng vốn FDI. So
với thời kỳ trước, năm 1991 dịng vốn đạt con số 1322,3 triệu đơla, tốc độ tăng trưởng
của FDI tăng mạnh từ 57,5% lên 63,7% rồi lần lượt là 33,9%; 29,8% và 73,4% trong
các năm 1992, 1993, 1994, 1995. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy những nhà đầu tư
nước ngoài ngày càng tin tưởng viễn cảnh kinh tế Việt Nam.
+ Nhưng đến giai đoạn ba, từ 1996 đến 1998, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam
ngày càng giảm. Khoản tiền cho các dự án giảm 16% năm 1996, 45,3% năm 1997,
16,1% năm 1998. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á năm 1997 ảnh hưởng lớn đến
dòng vốn chảy vào Việt Nam và nguồn vốn FDI ở Việt Nam giảm mạnh trong 2 năm
97- 98. Từ khi cuộc khủng hoảng nổ ra, các nhà đầu tư nước ngồi phải đối mặt với
nhiều khó khăn tài chính, nhiều người đã phải thu hồi những khoản đầu tư ở nước ngồi,
nhiều người khác khơng thể đầu tư thêm ra hải ngoại. Việt Nam đã phải chịu ảnh hưởng
nghiêm trọng khi FDI bị rút khỏi đất nước vì chúng ta phụ thuộc nhiều vào các nhà
đầu tư Châu Á. 60% nguồn vốn FDI tới từ các quốc gia Châu Á, 1/4 trong số đó là từ
các nước ASEAN, nơi mà cuộc khủng hoảng tài chính xuất hiện đầu tiên và tiếp tục ảnh
hưởng xấu đến nền kinh tế.
Trong một nghiên cứu gần đây của Bộ Lao động thương binh và xã hội chỉ ra rằng
lượng thất nghiệp trên toàn quốc tăng lên 6,6% trong lực lượng lao động năm 98. Lực
lượng lao động nước ta tăng 1,1 triệu người hàng năm. Việc rút vốn FDI khiến cho càng
có nhiều hơn những người thất nghiệp bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
tạm ngừng sản xuất, càng làm cho vấn đề việc làm khó giải quyết hơn.
Lượng khách du lịch tới Việt Nam trong năm 98 giảm 10% so với năm trước đó,
giảm 1,5 triệu và còn giảm hơn trong năm 99. Các khách sạn ở Tp. HCM phải đối mặt
với khó khăn vì thiếu khách. Mặc dù giá phòng cho thuê đã giảm từ 30% tới 50% nhưng
13
tỷ lệ phịng có người đặt ở các khách sạn Tp. HCM chỉ đạt 35% và các công ty du lịch
bị ảnh hưởng mạnh bởi việc khách hàng giảm đáng kể. Lý do của việc này là do sự giảm
đáng kể của lượng khách đến từ Châu Á, nơi mà chiếm tới 70% tổng lượng khách du
lịch vào Việt Nam. Lý do thứ hai là bởi việc sụt giảm trong nguồn vốn FDI khiến cho
một lượng lớn doanh nhân nước ngồi khơng tới Việt Nam nữa.
*) Về vốn ODA:
Nhật Bản dẫn đầu trong các nước cung cấp cho Việt Nam và dù khó khăn vẫn hứa
giữ nguyên số lượng vốn vay và khoản tài trợ đã cam kết. Thị trường Việt Nam lại chưa
phát triển đầy đủ để có thể bị cuốn vào vịng xốy khủng hoảng tiền tệ. Hơn thế, chế độ
quản lý ngoại hối của Việt Nam vẫn cịn được kiểm sốt rất chặt chẽ phù hợp với các
biện pháp khuyến khích đầu tư ở Việt Nam.
Thị trường chứng khốn chưa hình thành, các cơng cụ tài chính chưa phát triển. Các
cổ phiếu trái phiếu và các loại giấy tờ có giá trị khác của Việt Nam chưa được phát hành
trên thị trường quốc tế. Đầu tư chính thức vào Việt Nam vẫn chưa được thừa nhận. Đầu
tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam thường với thời hạn dài chưa đến hạn trả.
Trong các dự án sản xuất, các nhà đầu tư nước ngồi khơng thể lập tức chuyển vốn ra
nghĩa là ít có khả năng tăng đột ngột nhu cầu ngoại tệ. Mặt khác việc quản lý nguồn
ngoại tệ ra, vào của Việt Nam tương đối chặt chẽ cũng tạo nên một lực cản đáng kể,
giảm áp lực của các nguồn ngoại tệ chảy ra nước ngồi hoặc những hoạt động đầu cơ
tích trữ này ở trong nước.
Mặc dù Việt Nam đã gia nhập ASEAN, nhưng các quan hệ kinh tế với các nước trong
khu vực chưa hoàn toàn chặt chẽ chưa chịu tác động dây truyền như một số nước khác.
loại hàng hoá xuất khẩu quan trọng của Việt Nam là gạo cũng bị ảnh hưởng do giá gạo
của Thái Lan giảm từ 15%- 20%. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Thái Lan và các
nước mạnh hơn trên thị trường của Việt Nam. Đối với các nước trong khu vực, sự mất
giá đồng tiền của họ với USD đã làm cho giá hàng hố của họ rẻ đi, làm tăng tính cạnh
tranh hàng hố của các nước đó.Vì vậy sự tràn lan hàng hố của các nước ASEAN tràn
vào Việt Nam là có thực (kể cả qua con đường nhập lậu ). Ngược lại hàng hoá VIệt Nam
giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực. Đồng Baht và các đồng tiền khác
trong khu vực bị phá giá, gây sức ép giảm giá hàng Việt Nam xuất khẩu sang các nước
đó. Do vậy nếu xuất khẩu hàng Việt nam sang các nước này sẽ khó khăn hơn. Vì vậy
nếu khả năng bảo hộ mậu dịch của nước ta giảm thì khả năng cạnh tranh hàng của ta sẽ
bị thử thách lớn.
*) Về vấn đề nợ nước ngoài
Khủng hoảng khiến đồng Việt Nam mất giá 10%, và như vậy cứ 1 tỷ USD nợ thì
nay phải bỏ ra thêm 1200 tỷ đồng Việt Nam để trả do yếu tố tỷ giá. Đây là gánh nặng
lớn cho chính phủ, doanh nghiệp trong việc thanh toán nợ khi đồng nội tệ bị mất giá. Sự
kiện trên sẽ làm giảm uy tín và gây ảnh hưởng tiêu cực đến mơi trường đầu tư của tồn
khu vực, trong đó có Việt Nam.
b) Tác động tích cực
Bên cạnh khơng ít ảnh hưởng tiêu cực, Việt Nam vẫn thu được những tác động tích
cực. Vì lạc hậu về cơng nghệ và trang thiết bị mà sản phẩm làm từ Việt Nam không thể
cạnh tranh nổi với những sản phẩm tương tự tại các quốc gia láng giềng không chỉ trên
thị trường thế giới mà còn ở ngay cả thị trường khu vực. Công nghệ mới trở nên cấp
thiết. Khi cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra, máy móc, trang thiết bị trở nên rẻ hơn,
14
khuyến khích các doanh nhân Việt Nam đầu tư và trang bị mới các xí nghiệp của họ sao
cho hiệu quả nhất có thể như trường hợp nhà máy nhựa và dệt may.
Việt Nam giờ đây có thể tranh thủ thêm một số bài học rút ra từ khu vực và điều
chỉnh chính sách nhằm ngăn chặn khủng hoảng. Thực tế từ khi nổ ra cuộc khủng
hoảng khu vực đến này, đã có một loạt các chủ trương chính sách và chương trình mới
theo hướng cải cách nhận thức rõ sự cần thiết phải đạt được những tiến bộ lớn hơn về
những biện pháp cải cách cụ thể như Nghị quyết 4 của Trung Ương Đảng tháng
12/1997, chính thức kêu gọi đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước,
thái độ thận trọng hơn của nhà nước khi bảo lãnh vay nợ của các doanh nghiệp, những
cải tiến trong quy định về đầu tư nước ngoài trực tiếp,... Vấn đề là làm sao cho những
chủ trương chính sách này đi vào hoạt động.
Khả năng đầu tư tài chính từ các nước trong và ngồi khu vực giảm xuống có nghĩa
tốc độ tài trợ của nước ngồi vào Việt Nam sẽ được điều chỉnh cho phù hợp hơn với tốc
độ cải cách thực tế, như vậy giảm tình trạng đầu tư có tính rủi ro cao hay q mức cần
thiết. Trong tương lai, các nhà đầu tư nước ngồi sẽ chú ý nhiều hơn tới tính hợp lý của
môi trường đầu tư tổng thể và khả năng thương mại của từng khoản đầu tư cụ thể.
Việc tăng cường sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực để giành được vốn đầu
tư nước ngoài mà giờ đây trở nên khan hiếm hơn cuối cùng sẽ tác dụng thúc đẩy Việt
Nam tiến hành các biện pháp cải cách cụ thể hơn nhằm thu hút được một phần đầu tư
nước ngoài này và tránh bị tụt hậu quá nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Tóm lại, trong bối cảnh tồn cầu hố nền kinh tế, nền kinh tế các nước trong xu thế
mở cửa, hướng ngoại thì khủng hoảng kinh tế tại một nước, hay một khu vực sẽ có
những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như từng nền
kinh tế riêng biệt, do đó việc Việt Nam phải chịu những tác động từ cuộc khủng hoảng
tài chính 1997 là khơng thể tránh khỏi.
3.4 Giải pháp ứng phó của chính phủ các nước
3.4.1 Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mơ
v Chính sách tiền tệ
Sau khủng hoảng năm 1997, các nước Indonesia, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan
đều chủ trương áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát.
Hàn Quốc là nước Đơng Á đầu tiên áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát cả trên
danh nghĩa lẫn thực tế. Chính sách này được áp dụng từ đầu năm 1998, ban đầu, mức
lạm phát cơ bản mục tiêu được Ngân hàng Hàn Quốc (BOS) quyết định từng năm một.
Song từ năm 2000 thì quyết định theo từng thời kỳ trung hạn 2 năm.
Tháng 5/2000, Thái Lan bắt đầu từ bỏ chính sách mục tiêu trên cơ sở mà IMF
khuyến nghị và chuyển sang áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát. Lý do của sự chuyển
đổi này theo như tuyên bố của Ngân hàng Thái Lan (viết tắt là BOT) là mối quan hệ yêu
giữa lượng tiền cơ sở và tăng trưởng GDP ủy ban Chính sách tiền tệ của BOT quyết
định giữ cố định lãi suất ngắn hạn ở mức mà họ tin rằng làm thế sẽ giữ được tỷ lệ lạm
phát cơ bản ở mức đã cam kết là 0%-3,5%.
Malaysia khơng áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát. Ngân hàng trung ương
của nước này (HNM) tuyên bố rằng, mục tiêu của chính sách tiền tệ là sự cân bằng giữa
Tăng trưởng và lạm phát trong trung hạn. Tuy vậy, BNM vẫn lấy ổn định lạm phát làm
15
một mục tiêu then chốt và dùng lãi suất chính sách qua đêm để kiểm soát lạm phát. Hàng
năm, BNM đưa ra chỉ tiêu lạm phát và điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn qua đêm
liên ngân hàng để tác động tới lạm phát.
v Cơ chế tỷ giá hối đối
Sau khủng hoảng, các nước áp dụng các chính sách tiền tệ riêng, và dù trên danh
nghĩa khác nhau, nhưng trong thực tế có xu hướng hội tụ đi theo đường lối chung đó là
hướng trở lại chế độ tỷ giá hối đối cố định, tất nhiên là khơng cố định hoàn toàn như
trước khủng hoảng và trên danh nghĩa vẫn khẳng định áp dụng cơ chế thả nổi.
Thái Lan áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi, nhưng từ tháng 6/2001 thì BOT tích
cực can thiệp tỷ giá. Ngay cả trước năm 2001, thị tỷ giá giữa đồng baht và dollar được
xem là tương đối ổn định trong khi dự trữ ngoại hối nhà nước tương đối biến động khiến
cho các nhà nghiên cứu chính sách tỷ giá ở nước này đều tin rằng Thái Lan đi theo cơ
chế tỷ giá thả nổi có quản lý chặt chẽ.
Malaysia chấp nhận trở lại cơ chế tỷ giá cố định song phương từ tháng 9/1998 và áp
dụng cơ chế này cho đến tận tháng 7/2005 thì chuyển sang cơ chế tỷ giá neo vào số tiền
tệ.
v Quản lý dòng vốn
Từ cuối năm 1997 đến năm 2001, Hàn Quốc đã tiến hành một số biện pháp nhằm tự
do hóa hơn nữa di chuyển vốn.
Indonesia, năm 1997 ngay sau khủng hoảng, nhà đầu tư nước ngoài đã được phép sở
hữu cổ phần của doanh nghiệp Indonesia một cách không hạn chế (ngoại trừ trường hợp
các ngân hàng), việc mua lại các doanh nghiệp được miễn xin phép.
3.4.2 Cải cách khu vực tài chính
Các nước Đơng Á dã thực thi các biện pháp, chính sách để cải cách khu vực tài
chính: giảm nợ xuất, tái vốn hóa các thể chế tài chính; đóng cửa các thể chế tài chính đổ
vỡ, tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế tốn mới đối với các tổ
chức tín dụng và tài chính khác; đẩy mạnh chun mơn hóa các thể chế tài chính; tăng
cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời nâng cao kỷ luật thị trường
Các nước Đông Á đã tiến hành tự do hóa mạnh mẽ khu vực tài chính của mình
từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, sung hệ thống giám sát tài chính lại khơng được
phát triển một cách tương xứng, thiết kế các chương trình cải cách tài chính/tái kiến theo
khuyến nghị của IMF World Bank, Hàn Quốc bắt đầu một chương trình như vậy từ
tháng 2/1998, Thái Lan từ tháng 8/1998, Indonesia từ năm 1998, Philippines và
Malaysia cũng từ nửa cuối năm 1998. Các chương trình này tập trung vào mục tiêu chính
là củng cố hệ thống giám sát tài chính, phục hồi khả năng trả nợ và năng lực thanh
khoản. Các biện pháp phục hồi khả năng trả nợ và năng lực thanh khoản được áp dụng
cho khu vực ngân hàng là chủ yếu.
Các biện pháp này gồm: ngân hàng trung ương cho các ngân hàng vay ngắn hạn;
bảo hiểm tiền gửi; mua lại nợ quá hạn (non-performing loans); cho vay tái cấp vốn cho
các ngân hàng thương mại; xây dựng hệ thống giúp ngân hàng và ngoài nợ ngân hàng
cùng tái cơ cấu nợ.
Các nước khu vực Đông Á đã nâng cao năng lực kiểm sốt; tăng cường tính độc
lập của cơ quan giám sát; giải quyết tình trạng nợ đọng bằng cách thành lập các công ty
quản lý nợ và tài sản, cho vay tái chấp các tổ chức tài chính, tạo thuận lợi cho việc mua
lại và sáp nhập giữa các tổ chức tài chính; cải cách chế độ bảo hiểm.
3.4.3 Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp
16
Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản,
nỗ lực tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng cố các quy định về tiêu chuẩn cáo bạch, bảo
vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban
giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế tốn và kiểm tốn theo thơng lệ quốc tế, tăng cường
mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động mua lại
và sáp nhập với doanh nghiệp trong nước và quốc tế.
Tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp
Cải cách doanh nghiệp ở Hàn Quốc hết sức phức tạp. Vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc
đã ban hành một loạt các biện pháp để thúc ép cải cách các doanh nghiệp.
Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra 3 cách thức nhằm tái cơ cấu các cơng ty bao gồm: Thứ
nhất, giải quyết tình trạng phá sản thơng qua q trình phân xử của toà án, Thứ hai, thực
hiện việc trả nợ một cách tự nguyện hay còn được xem là các giải pháp ngồi tịa án.
Thứ ba, đưa ra các biện pháp cải cách riêng đối với các hàng đầu.
Thay đổi phương thức quản trị
- Indonesia đã thay đổi phương thức quản trị của các công ty cổ phần, quản trị
gồm hai tầng: Một là ban giám sát có trách nhiệm giám sát nghiệp vụ và tư vấn cho ban
quản lý và một là ban quản trị mà người đứng đầu không được phép làm tổng giám đốc
về hình thức có vẻ nghiêm nhưng lại khơng thực sự hiệu quả. Thay vào đó đưa ra bộ
tiêu chí quản trị cơng ty tốt theo tiêu chuẩn của OECD trong đó có quy định rằng ít nhất
một phần ba số thành viên của ban quản trị công ty trong mỗi công ty cổ phần phải là
các thành viên độc lập giúp công ty được kiểm soát tốt hơn.
- Thái Lan cải cách bằng phương thức quản lý công ty nhấn mạnh vào việc nâng
cao thực hành chứ khơng phải thay đổi hồn tồn phương thức quản trị cơng ty như
Indonesia phải làm, Chính phủ Thái Lan đã tiến hành các chính sách sau nhằm nâng cao
năng lực quản trị nội bộ ở các doanh nghiệp. Cuối năm 1997, chính phủ đã phát hành
tiêu chí thực hành quản lý doanh nghiệp niêm yết và yêu cầu ban quản trị các doanh
nghiệp phải theo các tiêu chí đó để tăng cường lịng tin của các cổ đơng, nhà đầu tư và
các cá nhân, tổ chức có lợi ích liên quan khác.
- Philippines: Cải cách phương thức quản trị công ty cổ phần ở Philippines được
triển khai từ năm 2000, được triển khai muộn, lại dựa vào hướng dẫn nhiều hơn là vào
các biện pháp pháp lý. Điều này dẫn tới việc thực thi cải cách tại doanh nghiệp diễn ra
thiếu tích cực, cả hai điều trên khiến cho thành tích cải cách quản trị cơng ty ở
Philippines kém so với các nước trong khu vực, chỉ hơn Indonesia.
3.4.4 Cải cách các thị trường
Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ
của mình. Đồng thời cải cách thị trường lao đồng của các xí nghiệp tuyển dụng và sa
thải lao động khơng cần thuyết giúp cho xí nghiệp của các nước Đông Á trở nên linh
hoạt hơn.
4. Bài học rút ra cho Việt Nam về thu hút đầu tư nước ngồi
Một là, cần có một định hướng chiến lược đúng đắn về phát triển các ngành
Nông nghiệp, Công nghiệp và Dịch vụ cũng như định hướng đầu tư FDI vào các
ngành này, để các nhà đầu tư xác định được phương hướng phát triển của ngành
trong thời gian tới và có những quyết định đầu tư hợp lý. Việc thu hút vốn FDI mới
vào lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ thời gian gần đây giảm chủ yếu do
hệ thống kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, ngành công nghiệp hỗ trợ và năng lực doanh
17
nghiệp trong nước chưa đáp ứng yêu cầu. Trong đó,phải đặc biệt nhấn mạnh đến thể
chế, chính sách và mơi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam vẫn chưa thật sự hấp
dẫn nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là từ các nước tiên tiến. Để thay đổi điều này, Việt
Nam cần phải tiếp tục cải thiện mạnh mẽ mơi trường đầu tư kinh doanh theo hướng bình
đẳng, minh bạch, giảm thiểu những chi phí giao dịch ngầm trong quá trình xin cấp phép
đầu tư, xử lý triệt để tình trạng tham nhũng. Tiếp tục hồn thiện cơ sở hạ tầng giao thông,
thông tin liên lạc cũng như các loại dịch vụ khác nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho
nhà đầu tư. Một vấn đề quan trọng khác là tập trung đào tạo đội ngũ lao động có chun
mơn và tay nghề cao để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài.
Hai là, ưu tiên đầu tư FDI thay vì FPI. FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn
đầu tư nước ngồi tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư. FDI không đơn thuần
chỉ là vốn, mà kèm theo đó là cơng nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho
phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới… cho nước tiếp nhận đầu tư .
Đây là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển có
trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật mới xuất phát
chủ yếu từ các nước cơng nghiệp phát triển, do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp
các nước công nghiệp phát triển, các nước này rất cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ
thuật mới. Thực tế đã cho thấy FDI là 1 kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công
nghệ cho các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngồi có tác động mạnh đến
q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên
nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các
thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động…. Thông qua
tiếp nhận FDI, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để gắn kết nền kinh tế trong
nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của nước này, các nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập
thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thích nghi nhanh hơn với các thay đổi
trên thị trường thế giới… FDI có vai trị làm cầu nối và thúc đẩy q trình hội nhập kinh
tế quốc tế, một nhân tố đẩy nhanh quá trình tồn cầu hóa kinh tế thế giới. Với những ưu
thế quan trọng như trên ngày càng có nhiều nước coi trọng FDI hoặc ưu tiên, khuyến
khích tiếp nhận FDI hơn là FPI. Để tận dụng được tốt xu hướng chuyển dịch dòng vốn
ngày càng mạnh mẽ vào khu vực châu Á, các nước cần phải quan tâm đến chất lượng
dự án đầu tư nước ngoài, đồng thời tăng cường khả năng kết nối của doanh nghiệp trong
nước vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo ra cơ
hội phát triển toàn diện và bền vững cũng như thúc đẩy hội nhập, mậu dịch tại khu vực
châu Á và thế giới để lựa chọn kế hoạch đầu tư mới, mở rộng hợp tác và phát triển lâu
dài. Ngoài ra, cần phải bảo đảm những điều kiện có chất lượng cao (như thể chế, mơi
trường kinh doanh, con người, vật chất, cơ sở hạ tầng), khơng ngừng cải thiện thủ tục
hành chính, hồn thiện khung pháp lý, có chính sách ưu đãi có chọn lọc phù hợp, đầu tư
vào giáo dục và đào tạo nhân lực chất lượng cao, tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng của
các khu công nghiệp, khu chế xuất và các khu kinh tế, gia tăng sự kết nối giao thông
giữa các vùng địa lý, tạo mọi điều kiện đầu tư kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các
nhà đầu tư.
Ba là, có những chính sách miễn giảm thuế phù hợp để tăng thêm tính hấp
dẫn về lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư. Tuy nhiên, những chính sách này vừa phải
đáp ứng nguồn thu cho ngân sách, lại vừa khuyến khích phát triển kinh tế ở các vùng,
18
khu vực mà điều kiện phát triển kinh tế còn hạn chế. Cùng với đó, có chính sách thuế
nhập khẩu các mặt hàng công nghệ ở mức hợp lý, để khuyến khích nhập khẩu sản phẩm,
thiết bị cơng nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước và góp phần cải
thiện cơng nghệ của nước ta.
Bốn là, mở rộng đa dạng hố các hình thức đầu tư, phải có chính sách chủ
động phát triển doanh nghiệp trong nước lớn mạnh để có thể liên doanh, liên kết với
các nhà đầu tư nước ngoài, cùng phát triển và tận dụng thế mạnh của từng loại hình
đầu tư, từng chủ đầu tư. Từ đó, kết hợp những chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế
TNDN, thuế nhập khẩu, thuế sử dụng đất… Bên cạnh đó cũng cần phải quan tâm đến
chất lượng của dự án FDI. Cụ thể, chúng ta cần thu hút những dự án FDI lớn thuộc các
lĩnh vực như: Công nghệ thông tin, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, Big Data, thành phố
thơng minh, nghiên cứu phát triển…Muốn thay đổi được chất lượng dự án FDI theo
Nghị quyết 50 của Bộ Chính trị, phải đổi mới cơ bản toàn bộ hoạt động, từ xúc tiến đầu
tư, xây dựng, hồn thiện thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài phù hợp xu hướng
phát triển, tiếp cận chuẩn mực tiên tiến quốc tế và hài hòa với các cam kết quốc tế, bảo
đảm sự đồng bộ, nhất qn, cơng khai, minh bạch và tính cạnh tranh cao. Ngồi ra, cần
đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác, hình thức đầu tư, đan xen lợi ích trong hợp tác đầu
tư nước ngoài, kết nối hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước, phù hợp với định hướng
cơ cấu lại nền kinh tế và mục tiêu phát triển bền vững.
Năm là, cần có những chính sách, luật pháp có những quy định hạn chế nhất
định đối với các dự án đầu tư nước ngoài liên quan đến chính trị - an ninh quốc gia,
mơi trường sinh thái…, tăng cường khâu thực thi pháp luật, đưa pháp luật đi vào
cuộc sống; gắn chặt trách nhiệm thực thi công vụ ở tất cả các ngành, các cấp; đồng
thời nâng cao năng lực khâu kiểm tra, giám sát ( cả đối với cơ quan nhà nước, cũng
như doanh nghiệp FDI); chống đầu tư chui, chuyển giá, vi phạm luật về môi
trường…. Nếu chỉ tập trung vào số vốn, thu hút FDI "bằng mọi giá", sẽ đưa đến nhiều
hệ lụy. Ðó là hủy hoại môi trường, suy kiệt tài nguyên, nguồn lực đất nước hay thậm chí
kìm hãm sự phát triển của DN trong nước. Trước những thách thức nêu trên, theo các
chuyên gia, khi chúng ta đã có đủ điều kiện thực thi một cách nghiêm túc hơn quyền
được lựa chọn của nước nhận đầu tư như hiện nay, đã đến lúc cần hình thành định hướng
và chính sách mới về thu hút FDI. Ðặc biệt, trong bối cảnh đất nước cũng cần nhanh
chóng bắt nhịp với những thay đổi ngày càng mạnh mẽ do cuộc CMCN 4.0 mang lại.
Trước hết, ngành nghề ưu tiên trong chiến lược thu hút FDI mới cần được thay đổi để
ưu tiên nhiều hơn cho công nghệ xanh, hiện đại và càng tiếp cận với cơng nghệ CMCN
4.0. Bên cạnh đó, chúng ta cần cân nhắc kỹ khi ra quyết định đầu tư đối với những ngành
nghề giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế, trong trường hợp cần thiết có thể đóng cửa
đầu tư để đảm bảo lợi ích quốc gia.
Sáu là, Việt Nam cần nghiên cứu kỹ những bất cập, mặt trái trong thu hút đầu
tư nước ngoài, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng
và chịu ảnh hưởng nhiều từ những biến động của kinh tế thế giới. Bên cạnh những
mặt tích cực mà FDI mang lại cũng có rất nhiều mặt tiêu cực ảnh hưởng đáng kể đến
nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, mơi trường… của nước ta. Có thể nói rằng sự
tấn cơng của các thế lực thù địch nhằm phá hoại ổn định về chính trị của nước nhận đầu
tư ln diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và xảo quyệt. Mục đích của các nhà đầu tư là
19
kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào những nơi có lợi nhất sẽ làm tăng thêm sự mất cân đối
giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây ra mất ổn
định về chính trị, hoặc FDI cũng có thể gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Các nước tiếp
nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như là giảm thuế, miễn thuế
trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Việc làm này
mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư, chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được
một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được. Từ đó, hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu
tư khác xâm nhập vào thị trường. Từ đó mới có thể tận dụng hiệu quả những cơ hội do
đầu tư nước ngoài mang lại, giảm thiểu những tiêu cực trong thu hút đầu tư nước ngoài,
tạo thế chủ động trong việc thu hút dòng vốn FDI nhằm đạt hiệu quả cao, phục vụ cho
sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, chúng ta cần chọn lọc các lĩnh vực cho
phép đầu tư và ưu tiên chọn các nhà đầu tư có cơng nghệ cao, hiện đại thân thiện với
mơi trường; Xây dựng và hồn thiện các chính sách đầu tư, chính sách thuế để bảo vệ
kinh tế đất nước. Đồng thời, trách sự lợi dụng trong việc ưu đãi khuyến khích thu hút
đầu tư, hiện tượng chuyển giá của các nhà đầu tư nước ngồi; Tăng cường hơn nữa cơng
tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường tại các KCN, xử lý nghiêm các doanh nghiệp
vi phạm, đình chỉ hoạt động theo quy định của pháp luật.
Bảy là, thu hút FDI phải bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Nền
kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng kể song chưa thật vững chắc, nhất là
còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài, từ vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý đến
thị trường tiêu thụ. Hiện FDI được xem là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế,
trong tăng trưởng và nhất là trong xuất khẩu. Nhưng cần phải thấy FDI không phải là
nhân tố "bám rễ" và tạo ra nội lực thật sự. Cũng vì vậy, tăng trưởng GDP lúc này chưa
phải là thực chất sức mạnh kinh tế của chính Việt Nam. Đó là chưa kể tình huống FDI
giảm hoặc rút đi khi tình hình có thay đổi. Cần nhận thức rằng chính sách thu hút nguồn
lực từ bên ngồi, đặc biệt là FDI phải quán triệt tư tưởng độc lập, tự chủ kinh tế trong
điều kiện mới, vừa theo kịp xu thế chung, vừa bảo đảm kinh tế nội địa phát triển vững
chắc, phục vụ tốt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khơng thể vì phát triển mà
thực hiện các dự án hợp tác đầu tư với nước ngoài với bất cứ giá nào làm ảnh hưởng tới
an ninh và chủ quyền quốc gia. Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ về kinh tế trong hội
nhập quốc tế, chúng ta cần khắc phục tư tưởng ỷ lại, trơng chờ vào bên ngồi. Để làm
được điều này, một mặt, tiếp tục khẳng định rõ vị trí, vai trò của khu vực FDI là bộ phận
cấu thành nền kinh tế Việt Nam. Từ đó, quan điểm, nhận thức và hành động đều phải
nhất quán, đồng bộ trong toàn xã hội để phát huy hết những lợi thế của FDI mang lại
cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tám là, thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI gắn chặt với việc phải bảo đảm sử
dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực quốc gia theo nguyên tắc tiếp cận và phân bổ
các nguồn lực quốc gia phải cơng khai, minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế và trên cơ sở hiệu quả sử dụng các nguồn lực quốc gia. Việc thực hiện tái cơ
cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công địi hỏi nguồn vốn FDI phải có chất lượng cao hơn
cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn. Ðể thu hút vốn FDI đúng mục tiêu và
định hướng nêu trên, trước hết, hoạt động xúc tiến đầu tư cần tiếp tục được đổi mới theo
hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các đối tác tiềm năng. Khơng xúc tiến
đầu tư theo địa giới hành chính để bảo đảm tính khu vực, liên vùng, liên ngành cao, tận
20
dụng cao nhất các tiềm năng, thế mạnh của vùng, miền và giảm đầu tư theo phong trào,
theo thành tích...
KẾT LUẬN
Hãy nhìn lại thế giới của chúng ta hiện nay, một thế giới đang ngày càng phát
triển bởi sự đi lên vượt bậc của nền kinh tế. Mác đã từng nói rằng kinh tế là cơ sở, là
nền móngcho mọi sự phát triển của xã hội loài người. Đi theo con đường mà Mác đã
định hướng, conngười chúng ta đang ra sức xây dựng một mơ hình kinh tế hiện đại,
nhằm đạt được mục đích đề ra. Song điều đó khơng phải là đơn giản, tùy vào tình hình
thực tế và điều kiện của mỗi nước mà áp dụng mô hình kinh tế cho phù hợp.
Trên lý thuyết là như vậy nhưng thực tế thì có một số nước đã đi đúng hướng
nhưng có một số nước lại đi chệch hướng do nhiều yếu tố trong đó có khách quan lẫn
chủ quan. Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á năm 1997 - cuộc
khủng hoảng lớn nhất trong khu vực kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II – đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng đối với các nước trong khu vực và sự tăng trưởng của thế
giới. Tuy cuộc khủng hoảng đã qua đi một thời gian nhưng dư âm của nó vẫn còn tồn
tại như một bài học đắt giá cho cả thế giới.
Chính vì vậy nên đã có rất nhiều người nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc khủng hoảng
này trên nhiều phương diện, lĩnh vực. Song thật khó để có cái nhìn bao qt, cụ thể về
vấn đề này. Nhóm chúng tơi cũng muốn tìm hiểu để góp phần phác thảo nên bức tranh
toàn cảnh về cuộc khủng hoảng và nêu ra một đánh giá và ý kiến đóng góp của mình
dựa trên cơ sơ những nghiên cứu được tiến hành trong đề tài và để mở rộng thêm kiến
thức về nền kinh tế vĩ mô của các nước qua từng giai đoạn phát triển.
Bài nghiên cứu của chúng tôi được xây dựng dựa trên phương pháp nghiên cứu
khoa học thực chứng, chuẩn tắc và có sự phân tích về mặt định tính, định lượng dựa trên
những số liệu cụ thể để rút ra nhận xét, kết luận. Vì thời gian có hạn nên chúng tơi chỉ
tập trung phân tích trong phạm vi nhỏ hẹp đó là nghiên cứu cuộc khủng hoảng diễn ra ở
Thái Lan và một số nước trong khu vực Đơng Nam Á, Đơng Á. Qua đó thấy được
nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của cuộc khủng hoảng.
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hồn thành, nhóm chúng tơi đã cố gắng
trình bày những hiểu biết của mình về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á ở
mức độ hiểu là chính. Chính vì vậy nên với lượng kiến thức nhỏ bé của mình và thời
gian có hạn nên trong q trình thực hiện đề tài có nhiều thiếu sót. Rất mong được sự
đóng góp của cơ giáo và các bạn để bài nghiên cứu của chúng tơi được hồn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Trân trọng!
21
Tài liệu tham khảo
[1] World Bank
/>2. Bùi Ngọc Diễm (2009), “Phân Tích Những Ảnh Hưởng Của Khủng Hoảng Tài Chính
Tồn Cầu Đến Nền Kinh Tế Việt Nam”, Luận văn tốt nghiệp Cử nhân ngành kinh tế
nông lâm, Đại Học Nông Lâm TP.HCM.
3. Nguyễn Đức Lệnh (2013), “Tác động của khủng hoảng kinh tế tồn cầu đối với thị
trường tài chính, năm vấn đề đặt ra cần quan tâm”, Tham khảo tại website
/>4. Nguyễn Minh Hà (2008), Tóm Tắt Nguyên Nhân Khủng Hoảng Tài Chính Và Tác
Động Của Khủng Hoảng Đối Với Nền Kinh Tế Châu Âu, Kỷ yếu tọa đàm "Khủng hoảng
tài chính và giải pháp phát triển bền vững thị trường tài chính Việt Nam"- Vụ Kinh Tế
- Văn phòng Trung Ương Đảng.
-HẾT-
22