Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

(TIỂU LUẬN) vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.77 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


TIỂU LUẬN
Môn: Triết học Mác – Lênin

Đề bài: Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.

Người hướng dẫn: TS. Nghiêm Thị
Châu Giang
Họ và tên: Phạm Ngọc Minh
Lớp:
Mã sinh viên: ********


HÀ NỘI - 2021
MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU......................................................................2
I.

LÍ LUẬN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI.......................3
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã
hội3
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất..........4
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã
hội7
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên..................................................................................... 9



II.

VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

VÀO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.............................................11
1. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có
nhiều thành phần......................................................................... 11
2. Vận động nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa................................13
3. Thực hiện đa dạng hình thức phân phối thu nhập...................13
III. KẾT LUẬN CHUNG......................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................15

1


LỜI NĨI ĐẦU
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Học thuyết này vạch ra những quy
luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội, là phương pháp khoa
học để nhận thức và cải tạo xã hội. Tuy xuất hiện từ lâu nhưng trong
thế giới hiện đại ngày nay với vô vàn sự biến đổi lớn nhỏ, giá trị
khoa học và giá trị thời đại của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
vẫn cịn vẹn ngun.
Bài tiểu luận sẽ trình bày, phân tích cụ thể về lí luận học
thuyết hình thái kinh tế, hệ thống các quan điểm, những quy luật cơ
bản về sản xuất vật chất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
nằm trong học thuyết này. Song song với đó là ý nghĩa, giá trị cũng

như vai trị của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong thực tiễn
đời sống và nhận thức.
Từ những kiến thức, nhận thức về học thuyết hình thái kinh tế xã hội, bài tiểu luận sẽ phân tích sự vận dụng học thuyết này của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội Việt Nam
vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay, hay chính là sự đổi mới về quan hệ sản xuất – một bộ
phận trong các quy luật nằm trong học thuyết này. Từ đó thấy được
nhận thức đầy đủ và đường lối đúng đắn, vận dụng sáng tạo của
Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa
mà cụ thể là sự đổi mới trước tiên ở nền kinh tế nước nhà, một lần
nữa chứng minh cho giá trị vẹn nguyên của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội.

2


I. LÍ LUẬN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. S n xuấất

v t chấất

là c ơs ởc aủ s ựtồồn t ại và phát triển c ủa xã hội
Sản xuất từ lâu đã là hoạt động riêng, đặc trưng của con người
và xã hội loài người. Để tồn tại và phát triển, con người buộc phải
thực hiện sản xuất. Sản xuất chính là hoạt động khơng ngừng sáng
tạo của con người để tạo ra các giá trị về cả vật chất và tinh thần,
từ đó thỏa mãn chính các nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân
và xã hội lồi người. Q trình này cũng chính là sự sản xuất xã hội,
là sản xuất và tái sản xuất ra chính đời sống hiện thực.
Sản xuất xã hội, theo định nghĩa như đã nêu ở đoạn trên, gồm

có ba phương diện khơng thể tách rời đó là sản xuất vật chất, sản
xuất tinh thần và sản xuất bản thân con người. Sản xuất tinh thần là
quá trình con người sáng tạo ra các giá trị về tinh thần nhằm thỏa
mãn nhu cầu bản thân. Sản xuất ra bản thân con người, xét theo
phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ và ni dạy con cái nhằm
duy trì nịi giống; xét theo phạm vi xã hội là sự tăng trưởng dân số,
phát triển con người với tính cách là thực thể sinh học – xã hội.
Trong ba phương diện này, sản xuất vật chất giữ vai trò quan trọng
nhất đối với con người và xã hội loài người. Sở dĩ như vậy là do sản
xuất vật chất đóng vai trị là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động
và phát triển của đời sống xã hội. Cụ thể như sau:
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao
động để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên tự nhiên, cải biến các
dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm mục
đích thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.

3


Sản xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt
của con người” nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người
nói chung và từng cá thể người nói riêng.
Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con
người. Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên mối
quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người, từ đó mà phát sinh
ra các mối quan hệ xã hội khác giữa người với người trên mọi mặt
của đời sống thực tế. Nhờ có việc sản xuất ra của cải vật chất nhằm
mục đích tồn tại và phát triển mà từ đó, con người mới sáng tạo nên
một đời sống vật chất và tinh thần đầy phong phú và phức tạp như

ngày nay của xã hội loài người.
Sản xuất vật chất cũng là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản
thân con người. Nhờ có hoạt động sản xuất mà con người mới hình
thành nên các bản chất xã hội của con người. Ăngghen đã khẳng
định, trên một ý nghĩa cao nhất, “lao động đã sáng tạo ra bản thân
con người”.
Sản xuất vật chất chính là nền tảng và cơ sở cuối cùng để giải
thích mọi sự vận động và biến đổi của lịch sử - sự thay thế của các
phương thức sản xuất từ thấp đến cao. Xét đến cùng thì để phát
triển xã hội, bắt buộc phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế xã hội.
2. Bi n ệch ng
ứ gi aữl cựl ượ
ng s nảxuấất và quan h ệs n
ả xuấất
a) Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá
trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã
hội lồi người. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực
lượng sản xuất với một quan hệ sản xuất nhất định. Đây chính là hai
quan hệ “song trùng” trong nền sản xuất vật chất xã hội. Mỗi
4


phương thức sẽ đều có hai phương diện hay chính là hai quan hệ
“song trùng” này. Trong đó, lực lượng sản xuất đóng vai trị là
phương diện kĩ thuật của phương thức sản xuất. cịn quan hệ sản
xuất đóng vai trị là phương diện kinh tế. Trình độ kinh tế - xã hội
nào thì sẽ có cách thức tổ chức riêng của nó.
Lực lượng sản xuất là quan hệ giữa người lao động với tư liệu
sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các

đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con
người và xã hội. Cấu trúc của lực lượng sản xuất bao gồm hai mặt
đó là mặt kinh tế - kĩ thuật hay chính là tư liệu sản xuất và mặt kinh
tế - xã hội hay chính là người lao động.
Người lao động là người có tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng lao
động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của
xã hội, là chủ thể sáng tạo cũng như tiêu dùng của cải vật chất xã
hội. Đây chính là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất,
bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động
là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu lao
động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp nhu cầu, mục
đích sử dụng của con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật
chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối
tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm
đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người.
Tư liệu lao động lại bao gồm các công cụ lao động và phương
tiện lao động. Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của
sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để tác
động lên đối tượng lao động trong q trình sản xuất vật chất. Cơng
cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp
sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, làm biến đổi chúng
5


nhằm tạo ra của cải vật chất, phục vụ cho nhu cầu của bản thân
con người và xã hội loài người. Cơng cụ lao động đóng vai trị quyết
định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Đây cũng
chính là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất.
Cơng cụ lao động chính là thước đo trình độ tác động, cải biến tự

nhiên của con người và là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh
tế khác nhau.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất
giữa người với người trong q trình sản xuất vật chất. Đây chính là
mối quan hệ quan trọng nhất – quan hệ kinh tế trong các mối quan
hệ vật chất giữa người với người. Quan hệ sản xuất là sự thống nhất
của ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về
phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là
quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, ln có
vai trị quyết định các quan hệ khác. Quan hệ về tổ chức quản lý
sản xuất có vai trị quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu
quả của nền sản xuất. Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động có
vai trị đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người. Các
mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, có mối quan hệ
qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó quan hệ về sở hữu
tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất và tính chất của
quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách
quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ
xã hội.
b) Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một
phương thức sản xuất có tác động biện chứng. Trong đó, lực lượng
6


sản xuất có vai trị quyết định lên quan hệ sản xuất và ngược lại,
quan hệ sản xuất cũng có tác động to lớn trở lại lên lực lượng sản
xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất sẽ có tác động làm thúc đẩy lực
lượng sản xuất. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì
sẽ gây ra tác động ngược chiều, làm kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Đây chính là quy luật cơ bản nhất của sự vận động
và phát triển xã hội.
Thứ nhất, xét về vai trò quyết định của lực lượng sản xuất lên
quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản
xuất, có tính năng động, cách mạng, thường xun vận động và
phát triển; trong khi đó, quan hệ sản xuất là mặt hình thức của q
trình sản xuất, mang tính ổn định tương đối. Sự vận động và phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất gây ra mâu thuẫn với tính ổn
định tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ phù hợp,
do sự “ổn định tương đối” mà không thể phát triển kịp theo lực
lượng sản xuất, dần dần sẽ trở nên lỗi thời, trở thành trở ngại, kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, địi hỏi tất yếu của
nền sản xuất bấy giờ chính là xóa bỏ đi quan hệ sản xuất cũ, thiết
lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với trình độ của lực
lượng sản xuất đã phát triển. Chính vì những điều trên, ta khẳng
định được lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu
quan hệ sản xuất mới trong lịch sử, quyết định đến nội dung và tính
chất của quan hệ sản xuất.
Thứ hai, xét về sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất khơng hồn tồn phụ thuộc
vào lực lượng sản xuất một cách thụ động mà cịn có tác động trở
lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những tác động này
được thể hiện qua sự phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất và
7


trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ

sản xuất đối với lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan
hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất, “tạo
địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự tác động trở
lại của quan hệ sản xuất lên lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
chiều hướng. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, nó sẽ mở ra một khuynh hướng phù hợp,
một động lực mạnh mẽ đẻ từ đó thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi
cho lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất khơng phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì tức là lỗi thời,
lạc hậu và trở thành xiềng xích, làm kìm hãm hoặc lệch lạc khuynh
hướng phát triển, thậm chí là làm triệt tiêu động lực của lực lượng
sản xuất. Tác động theo chiều hướng này sẽ gây ra sự kìm hãm, khó
khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tác động mạnh mẽ là
vậy nhưng quan hệ sản xuất chỉ có thể tác động lên lực lượng sản
xuất trong phạm vi nhất định. Nó chỉ tác động, tạo điều kiện thuận
lợi hay khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất chứ không
thể sinh ra hay tiêu diệt được sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tóm lại, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất cho ta hiểu rằng trong thực tế, muốn phát triển kinh tế thì cần
bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất mà trước hết là từ lực lượng
lao động và cơng cụ lao động. Muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ,
thiết lập quan hệ sản xuất mới thì cần phải căn cứ vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Nhận thức đúng đắn quy luật này có
vai trị quan trọng vào việc vận dụng để “đổi mới” tư duy kinh tế,
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
Việt Nam ta.
3. Bi n ch
ệ ngứgi a cữ s ơh ởtấồng
ạ và kiếấn trúc th ượ
ng tấồng của xã hội


8


a) Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của
xã hội
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã
hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội đó. Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: Quan hệ sản
xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm
mống. Trong ba quan hệ sản xuất này, mỗi quan hệ sản xuất có một
vị trí và vai trị khác nhau, trong đó, quan hệ sản xuất thống trị
chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định
hướng sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và là đặc trưng cho
chế độ kinh tế của một xã hội nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã
hội với những thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội
tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm những quan điểm, tư
tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết
học,… và các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác… cùng các quan hệ xã
hội nội tại trong các lĩnh vực đó. Các yếu tố trong cấu trúc của kiến
trúc thượng tầng nêu trên đều là do cơ sở hạ tầng quy định. Trong
xã hội có đối kháng giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng mang
tính đối kháng giai cấp và trong đó, bộ phận có tác động mạnh nhất
chính là Nhà nước – cơng cụ quyền lực chính trị đặc biệt của giai
cấp thống trị.
b) Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của xa hội

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng là một quy luật cơ bản của sự vận động phát triển của lịch sử
9


xã hội. Theo quan điểm duy vật lịch sử đã khẳng định, giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng, trong đó
có hai chiều hướng chính: cơ sở hạ tầng, mà trước hết là quan hệ
sản xuất thống trị, có vai trị quyết định đối với mọi quan hệ chính
trị, pháp quyền, đạo đức,… hay chính là kiến trúc thượng tầng;
ngược lại, kiến trúc thượng tầng cũng có tác động tích cực trở lại đối
với cơ sở hạ tầng.
Thứ nhất, về vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng lên kiến trúc
thượng tầng. Khẳng định được điều đó sở dĩ là do quan hệ vật chất
quyết định quan hệ tinh thần. Xét đến cùng thì cơ sở hạ tầng quyết
định đến nội dung của kiến trúc thượng tầng mà trước hết là nội
dung của những tư tưởng xã hội, từ đó mà quyết định đến nội dung
của những thiết chế xã hội tương ứng và các quan hệ nội tại của
kiến trúc thượng tầng. Không chỉ quyết định nguồn gốc mà cơ sở hạ
tầng cịn quyết định đến cơ cấu, tính chất, sự vận động và phát
triển của kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ
cấu, tính chất của kiến trúc thượng tầng như thế ấy. Cơ sở hạ tầng
thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng sẽ thay đổi
theo về nội dung, kết cấu hay vai trị của mỗi bộ phận của nó. Cácmác đã khẳng định: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến trúc
thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Cơ sở hạ
tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, thế nhưng với mỗi yếu tố,
hình thái của kiến trúc thượng tầng, nó sẽ có sự tác động gần, xa;
trực tiếp, gián tiếp,… khác nhau và phức tạp.
Thứ hai, về tác động tích cực trở lại của kiến trúc thượng tầng
đối với cơ sở hạ tầng. Tuy bị phụ thuộc vào sự quyết định của cơ sở

hạ tầng nhưng kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối
và tác động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng
tầng có vai trị củng cố, hồn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh
10


ra nó; đồng thời đấu tranh xóa bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ và ngăn
chặn cơ sở hạ tầng mới. Nếu giai cấp thống trị không thiết lập được
sự thống trị về chính trị và tư tưởng thì cơ sở kinh tế của nó cũng
khơng thể đứng vững. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng
được diễn ra theo hai chiều hướng. Thứ nhất là cùng chiều, tức là
kiến trúc thượng tầng tiên tiến, phản ánh đúng, tác động phù hợp
với tính tất yếu kinh tế, quy luật kinh tế khách quan thì sẽ thúc đẩy
cơ sở hạ tầng phát triển, từ đó thúc đẩy tiến bộ trong xã hội. Chiều
hướng thứ hai có tác động ngược chiều, tức là kiến trúc thượng tầng
lạc hậu, phản động, có tác động khơng phù hợp thì sẽ kìm hãm sự
phát triển của kinh tế và xã hội.
Tóm lại, quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng
đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế quyết
định đến chính trị cịn chính trị thì có tác động mạnh trở lại kính tế.
Nhận thức rõ điều này, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã chủ trương
đổi mới về cả kinh tế và chính trị, trong đó lấy kinh tế làm trung
tâm, cụ thể là xây dựng nề kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
4. S ựphát tri nể các hình thái kinh tếấ - xã h ội là một quá trình lịch sử tự nhiến
a) Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù trung tâm của quan
điểm duy vật về lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ xã hội đặc trưng cho nó, được xây

dựng trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một
kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ xã hội ấy.
Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm ba yếu tố cơ
bản có mối quan hệ biện chứng với nhau: Lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản
11


xuất là nền tằng vật chất của xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau và là yếu tố xét đến cùng
quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Lực
lượng sản xuất có vai trị quyết định lên quan hệ sản xuất. Quan hệ
sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định trực
tiếp mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các xã hội khác nhau trong lịch sử. Quan hệ xã hội lại
quyết định đến kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng là sự
thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh
thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội. Kiến trúc
thượng tầng lại có tác động ảnh hưởng ngược lại với quan hệ sản
xuất và cũng tương tự với quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
b) Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người
Sự vận động của các yếu tố trong hình thái kinh tế - xã hội do
các quy luật khách quan chi phối, tức là chịu tác động của quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và
quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự
thống nhất giữa lơgic và lịch sử. Trong đó, theo lơgic, quy luật chung
của lịch sử nhân loại là phát triển đi lên từ thấp đến cao. Đồng thời,
sự vận động này cũng chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện lịch sử cụ
thể của từng quốc gia, dân tộc, khu vực,… tạo nên sự khác biệt,

phong phú và đa dạng. Chính vì vậy mà quy luật phát triển khơng
đồng đều, từ đó dẫn đến hệ quả là nó bao hàm cả sự phát triển
tuần tự và sự phát triển “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã
hội.
c) Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng

12


Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời đem lại một cuộc cách
mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội, bác bỏ quan niệm
trừu tượng, duy vật tầm thường, duy tâm, phi lịch sử về xã hội.
Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thì cần
phải tác động vào cà ba yếu tố: lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng, trong đó cần phải bắt đầu từ phát
triển lực lượng sản xuất. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội chính là
cơ sở khoa học cho việc xác định con đường phát triển của Việt Nam
đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
và bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái, phiến diện về xã hội.
II. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Vận dụng học thuyết kinh tế - xã hội vào tình hình kinh tế nước
nhà hiện nay, Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xét theo học thuyết
kinh tế xã hội, đây chính là sự đổi mới về quan hệ sản xuất. Để thực
hiện được việc này, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nền kinh tế
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, vận động nền kinh tế
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và thực hiện đa dạng hình thức phân phối thu

nhập.
1. Xấy d ngựnếồn kinh tếấ th tr
ị ườ
ng đ nh
ị h ướ
ng xã h iộch ủnghĩa có nhiếồu
thành phấồn
Theo Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm 4 thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh
tế có vốn đầu tư nước ngồi. Bốn thành phần kinh tế đều có các vai
trị và nhiệm vụ riêng đối với nền kinh tế chung của đất nước. Nhà
13


nước khơng thiên vị hay nghiêng về bất kì một thành phần kinh tế
nào. Trước pháp luật, thành phần kinh tế nào cũng bình đẳng như
nhau.
Thứ nhất, về thành phần kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế
nhà nước được xác định nắm vai trị chủ đạo, là cơng cụ, lực lượng
vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định, định hướng, điều tiết nền
kinh tế - xã hội của đất nước, hạn chế và khắc phục các khuyết
điểm của cơ chế kinh tế thị trường. Trên con đường đổi mới để xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nước đã xác định các nguồn lực kinh tế của Nhà nước về cơ bản
được phân bố theo cơ chế thị trường. Đồng thời, doanh nghiệp nhà
nước cũng tập trung vào một số lĩnh vực then chốt; hoạt động theo
cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu. Tuy gọi tên là nền kinh tế nhà nước nhưng qua những chủ
trương nêu trên thì ta thấy Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào

các hoạt động sản xuất mà chỉ có vai trị quản lí vĩ mơ. Từ đó đảm
bảo nền kinh tế vẫn đi theo cơ chế thị trường mà vẫn đảm bảo mục
tiêu chung, định hướng xã hội chủ nghĩa, không bị sa đà vào chủ
nghĩa tư bản.
Thứ hai, về thành phần kinh tế tập thể. Đây là thành phần kinh
tế có phạm vi hoạt động rộng lớn, bao gồm các hợp tác xã, tổ hợp
tác,… Cũng như thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cũng
lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ đạo. Đồng thời, kinh
tế tập thể có vai trò liên kết, phối hợp hoạt động với các thành viên
nhằm nâng cao năng suất, phát triển bền vững.
Thứ ba, về thành phần kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế này
được Đảng và Nhà nước đánh giá là động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước nhà. Thành
phần này sẽ mang nhiều tính chất “thị trường”, thúc đẩy sự phát
14


triển mạnh mẽ về kinh tế nước nhà. Theo Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nhà nước ta chủ trương khuyến khích kinh tế
tư nhân phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khơng cấm. Đồng thời, doanh
nghiệp tư nhân cũng được khuyến khích hợp tác, liên kết với doanh
nghiệp Nhà nước. Có thể nói với chủ trương đổi mới này, sự liên kết
giữa tư nhân và Nhà nước ngày được một thắt chặt, từng bước xây
dựng bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thu được nhiều lợi ích về cả kinh tế và xã hội.
Cuối cùng, về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta xác định đây cũng là thành
phần kinh tế rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Thành
phần kinh tế này có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc huy động

vốn đầu tư, cơng nghệ, phương thức quản lí hiện đại từ nước ngồi,
từ đó mở rộng thị trường ra trên thế giới, đem lại lợi ích về kinh tế
và chính trị, ngoại giao.
Tóm lại, qua phân tích các đổi mới về các thành phần kinh tế
của nước ta hiện nay, hay chính là đổi mới về một phần của quan
hệ sản xuất, ta có thể thấy Nhà nước ta đã nhận thức và đang vận
dụng ngày một đầy đủ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội để xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
2. V n đậ ng ộnếồn kinh tếấ theo c ơchếấ th ị tr ường có sự qu ản lí của Nhà nước
theo đ ịnh h ướng xã hội chủ nghĩa
Theo như những phân tích ở trên về thành phần kinh tế nhà
nước, có thể khẳng định một lần nữa Nhà nước có vai trị chủ đạo
trong quản lí nền kinh tế thị trường và định hướng nó theo xã hội
chủ nghĩa. Cụ thể, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các thể chế,
bảo vệ các quyền của doanh nghiệp, tổ hợp tác,…; giữ ổn định cho
15


nền kinh tế vĩ mô; phân phối các nguồn lực theo cơ chế thị trường
để từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác
trên thị trường hoạt động tự do, thuận lợi. Nhà nước cũng điều tiết,
định hướng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nhưng phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. Ngồi ra,
Nhà nước khơng can thiệp trực tiếp hay cản trở, ngăn cấm các
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và trao đổi theo những quy
định mà pháp luật không cấm. Dưới sự quản lí của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp
tác,… hoàn toàn được tự do sản xuất, bn bán, tạo lợi ích về kinh
tế, vận động theo các quy luật của kinh tế thị trường một cách bình

thường.
3. Th ự
c hi n
ệ đa d ng
ạ hình th ứ
c phấn phồấi thu nhập
Trong quá trình vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện rất nhiều hình thức phân phối thu
nhập khác nhau: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và tài
sản, phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội.
Trước hết, về hình thức phân phối theo lao động. Đây là hình
thức phân phối chính được sử dụng, là hình thức phân phối cơ bản
dưới chủ nghĩa xã hội, đảm bảo không mất đi định hướng chủ nghĩa
xã hội. Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh
tế dựa trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà
nước) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn của các thành
viên bằng nhau (kinh tế hợp tác). Người lao động làm chủ tư liệu
sản xuất, chính vì vậy mà cũng làm chủ phân phối thu nhập. Cụ thể
hơn theo hình thức này, thu nhập được phân phối cho người lao
động theo hiệu quả mà lao động đã cống hiến, ai làm nhiều thì
hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, khơng làm thì khơng hưởng.
16


Tiếp theo là về hình thức phân phối theo vốn và tài sản. Do
Đảng và Nhà nước xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa có nhiều thành phần nên ngồi hình thức phân
phối theo lao động ở trên thì đối với các thành phần kinh tế khác
nhau sẽ có hình thức phân phối khác nhau. Hình thức phân phối

theo vốn và tài sản là phù hợp với điều kiện hiện nay của nước ta
khi mà tình trạng thiếu vốn, phân tán vốn là phổ biến và một phần
tương đối vốn nằm trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ,

Cuối cùng là hình thức phân phối qua phúc lợi tập thể, phúc lợi
xã hội. Hình thức phân phối này được thực hiện nhằm nâng cao mức
sống về vật chất và văn hóa của nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp
lao động. Với hình thức này, Nhà nước cũng mong muốn làm giảm
đi sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập – một trong những
mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
III.

KẾT LUẬN CHUNG
Qua việc phân tích các lí luận chung về học thuyết hình thái

kinh tế - xã hội cũng như vận dụng của Đảng và Nhà nước ta vào
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ta
nhận thấy học thuyết này dù ra đời đã lâu nhưng giá trị của nó vẫn
cịn được giữ vẹn ngun, vẫn là cơ sở lí luận có ý nghĩa quan trọng
đối với đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Để đổi mới trong thời kì
quá độ, với nhận thức đầy đủ từ học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội, Đảng và Nhà nước đã xác định nhiệm vụ tiên quyết chính là đổi
mới về nền kinh tế, cụ thể là thực hiện xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do điều kiện lịch sử khó khăn,
để tránh lạc hậu và bắt kịp với sự phát triển chung của thế giới, Việt
Nam ta đã phải thực hiện sự phát triển khơng tuần tự khi bỏ qua
hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vận dụng học thuyết hình thái
17



kinh tế - xã hội, đồng thời sáng tạo và linh động trong các chính
sách đổi mới kinh tế đang dần đem lại cho nước ta những thành tựu
trong công cuộc này, từng bước đưa Việt Nam sánh vai với bạn bè
quốc tế, nâng tầm đất nước ta trên trường quốc tế.
Tóm lại, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lí luận có
ý nghĩa quan trọng đối với đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa mà bắt đầu là từ xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo

điện

tử

Đảng

Cộng

sản

Việt

Nam:

/>2. TS. Nghiêm Thị Châu Giang, Slides bài giảng Teams Chương 3.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
3. GS.TS. Phạm Văn Đức (2019), Giáo trình Triết học Mác – Lênin,
NXB Chính trị quốc gia.
4. Tạp chí điện tử đầu tư tài chính: />5. TS. Phạm Văn Sinh và GS.TS. Phạm Quang Phan (2017), Giáo

trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB
Chính trị quốc gia.
6. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính
trị quốc gia.

18



×