Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

(TIỂU LUẬN) vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.92 KB, 17 trang )

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học kinh tế Quốc dân

BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN
ĐỀ BÀI : Vận dụng lý luận về mâu thuẫn để phân tích mâu thuẫn
giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam.

Họ và Tên : Phạm Hải Anh
Lớp: Quản trị khách sạn Quốc tế
Mã sinh viên : 11190464
Gỉảng viên hướng dẫn : TS Nguyễn Văn Hậu

HÀ NỘI – 10/2021

1


MỤC LỤC
Chương 1: Lời mở đầu ……………………………………

trang 3 -4

Chương 2: Nội dung đề tài
I.

Lý luận về mâu thuẫn

1. Khái niệm ……………………………………………………. trang 4
2. Nội dung ……………………………………………………


trang 5 - 6
3. Ý nghĩa ………………………………………………………. trang 6
II.

Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam

1. Giải thích khái niệm …………………………………………. trang 7
2. Bản chất, nội hàm của mối liên hệ ………………………….
trang 7 - 8
3. Vấn đề độc lập, tự chủ trong xây dựng nền kinh tế tại Việt Nam
……………………………………………………………….
trang 8 - 9
4. Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
……………………………………………………….
trang 9
4.1.
4.2.

Thành tựu ……………………………………………….
Hạn chế ………………………………………………….

trang 9 - 11
trang 11

5. Giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập

…………………………………………………………….
5.1.
5.2.


Nhận thức ………………………………………………..
Thực tiễn ……………………………………………….

III.

Một số kiến nghị nhằm giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng xã
hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế

……………………………………………………

Chương 3: Kết luận …………………………………

2

trang 12
trang 12 - 13

trang 13
trang 14


CHƯƠNG 1
LỜI MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề cho đề tài
I.

Sự cần thiết của đề tài

Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế khách quan và tất

yếu của tất cả các nước trên thế giới. Để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài đặc biệt là
nguồn vốn, tiến bộ khoa học cơng nghệ...địi hỏi các nước phải có sự giao lưu, hợp tác
với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi song song
với việc hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế thì chúng ta phải cần phải có sự thống
nhất nhận thức về việc giữ độc lập tự chủ. Đây là một mối lo ngại lớn với các nước trên
thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển bởi hầu hết các nước đang phát triển đều
có xuất phát điểm từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, khoa học cơng nghệ cịn thấp
kém, năng suất lao động chưa cao, sức cạnh tranh về các loại hàng hóa trên thị trường
thế giới thấp, việc mở rộng quan hệ với các nước đó sẽ dẫn đến tình trạng các nước
kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế có
thể bị sư lệ thuộc về chính trị dẫn tới khơng giữ vững được chủ quyền.
Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội trên thế giới.
Nước ta cũng là một nước kém phát triển hơn rất nhiều so với các nước tư bản trên thế
giới vì vậy chúng ta phải chủ động tham gia hội nhập quốc tế gắn liền với việc xây
dựng một nhà nước với nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Việc xây dựng một nhà nước với nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với hội nhập quốc
tế hiện nay đang là một vấn đề cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế
giới. Vì vậy đề tài này có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng không chỉ với Việt
Nam mà còn với nhiều nước khác trên thế giới trong việc đề ra các đường lối, chính
3


sách trong quan hệ giao lưu, buôn bán với nước ngồi.
II.

Mục đích của đề tài

Như các nhà lãnh đạo của chúng ta đã khẳng định: “Việt Nam ln muốn hịa nhập thật
tốt vào hội nhập thế giới, nhưng làm sao vừa hội nhập cho thật tốt lại vừa đảm bảo
được độc lập chủ quyền”. Trên thực tế đã có rất nhiều bài học cay đắng của các nước đi

trước, do hội nhập không đúng đã dẫn đến mất chủ quyền và phụ thuộc vào bên ngồi.
Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu rõ thêm về “Tồn
cầu hóa”, đồng thời biết được những bước đi của Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Nhiệm vụ của đề tài

-

Làm rõ tất cả khái niệm, cơ sở lý thuyết có liên quan về mối quan hệ biện
chứng.

-

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với
hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế

-

Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phân tích tình hình thực tế

-

Đưa ra một số kiến nghị về việc giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I.

Lý luận về mâu thuẫn


1. Khái niệm

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu
thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là quy luật quan
trọng nhất của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, là hạt nhân của
phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát
triển, theo đó nguồn gốc của sự phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu
thuẫn nội tại trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng.
4


Quy luật mâu thuẫn khằng định về: mọi sự vật hay hiện tượng ở trong tự nhiên đều có
sự tồn tại và mâu thuẫn bên trong. Quy luật mâu thuẫn còn được gọi là quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
2. Nội dung

Mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đụng những khuynh hướng, mặt đối lập, từ đó tạo
thành những mâu thuẫn trong bản thân chúng. Sự thống nhất và đấu tranh từ các mặt
đối lập tạo ra xung lực nội của sự vận động, phát triển, và dẫn tới mất đi cái cũ thay thế
bởi cái mới.
– Các khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, thống nhất, đấu
tranh

+ Mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt mà có những thuộc tính, đặc điểm, những tính
quy định mà có khuynh hướng biến đổi trái ngược, tồn tại theo khách quan ở trong tự
nhiên, tư suy và xã hội.
Ví dụ, trong mỗi con người đều có mặt đối lập theo tự nhiên như hoạt động ăn và hoạt
động bài tiết hay đối với sinh vật sẽ có mặt đồng hóa và dị hóa, đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn biện chứng: Mâu thuẫn biện chứng là một trạng thái mà mặt đối lập liên
hệ, chúng có tác động qua lại với nhau, theo đó mâu thuẫn biện chứng được tồn tại một

cách khách quan, phổ biến ở trong xã hội, tư duy và tự nhiên. Trong mâu thuẫn biện
chứng tư duy có sự phản ánh mâu thuẫn đối với hiện thực, nguồn gốc phát triển nhận
thức.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa với nhau, tồn tại nhưng không tách
rời với nhau của các mạt đối lập, tự tồn tại đó phải lấy sự tồn tại của mặt khác để làm
tiền đề.
Sự thống nhất đó tạo lên những nhân tố “đồng nhất” của các mặt đối lập. Khi ở một
mức độ nào đó chúng sẽ có thể chuyển hóa cho nhau.
5


Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng có biểu hiện tác động ngang nhau, đó chỉ là
trạng thái vận động khi có sự diễn ra căn bằng.
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lợi với nhau theo xu hướng là bài trừ,
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh các mặt đối lập vô cùng phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào mối
quan hệ qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh và các mặt đối lập, tính chất.
– Mâu thuẫn là nguồn gốc sự vận động, sự phát triển

+ Sự thống nhất, đấu tranh các mặt đối lập chính là hai xu hướng tác động khác nhau
mặt đối lập
Trong đó, hai xu hướng này tạo ra loại mâu thuẫn đặc biệt, từ đó mâu thuẫn biện chứng
bao gồm sự thống nhất và sự đấu tranh của mặt đối lập.
Trong quá trình phát triền và vận động thì sự thống nhất, đấu tranh của mặt đối lập
không tách rời nhau.
+ Đấu tranh của mặt đối lập được quy định tất yếu về sự thay đổi các mặt đang tác
động, làm mâu thuẫn phát triển.
Khi bắt đầu xuất hiện thì mâu thuẫn chỉ là một sự khác nhau cơ bản. Tuy nhiên theo

khuynh hướng trái ngược nhau thì sự khác nhau này càng lớn lên và rộng dẫn ra đến
khi nào trở thành đối lập.
Khi hai mặt đối lập có sự xung đột gay gắt, đủ điều kiện thì sẽ tự chuyển hóa lẫn nhau
và từ đó mâu thuận được giải quyết. Nhờ sự giải quyết theo hướng này mà thể thống
nhất mới sẽ thay thế thể thống nhất cũ hay sự vật mới thay cho sự vật cũ bị mất đi.
+ Sự phát triển là cuộc đấu tranh các mặt đối lập.
Ta đã thấy rằng khi có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ có đấu tranh, đấu tranh và
thống nhất các mặt đối lập thì khơng thể tách rời khỏi nhau đối với mâu thuẫn biện
6


chứng.
Sự vận động, phát triển là sự thống nhất trong tính ổn định và tính thay đổi, đấu tranh
và thống nhất các mặt đối lập quy định về tính thay đổi và tính ổn định sự vật. Do đó,
mâu thuẫn là nguồn gốc của phát triển và vận động.
3. Ý nghĩa phương pháp luận quy luật của mâu thuẫn

– Để nhận thức được ban chất của sự vật hoặc tìm ra phương hướng, giải pháp cho hoạt
động thực tiễn cần phải nghiên cứu mâu thuẫn sự vật.
– Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay quy luật
mâu thuẫn có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thức, hoạt động thực tiễn.
Bởi mâu thuẫn là động lực và cũng là nguồn gốc của sự vận động, phát triển, có tính
khách quan phổ biến.
II.

Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam

1. Giải thích khái niệm
-


Độc lập để chỉ khả năng của mỗi quốc gia về việc tự mình quyết định mọi cơng
việc đối nội đối ngoại của quốc gia đó, lựa chọn thể chế chính trị mà khơng bị lệ
thuộc vào bất cứ quốc gia nào, không bị can thiệp hoặc chi phối bởi quốc gia
nào, cũng không chịu ảnh hưởng hoặc theo đuổi một quốc gia nào.

-

Tự chủ là: việc không phân chia, không ngăn trở quyền lực để hình thành và
củng cố luật pháp của một quốc gia.

-

Về nội dung, hội nhập quốc tế là thúc đẩy phát triển quan hệ song phương và đa
phương với các nước trên thế giới, tham gia các tổ chức khu vực và thế giới
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, khoa học - kỹ thuật, các phong trào
chính trị-xã hội... nhằm đáp ứng lợi ích phát triển và nâng cao vị thế quốc tế của
nước ta.

2. Bản chất, nội hàm của mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
7


tế
Đây là mối quan hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu đậm trong quá trình đổi
mới, phát triển đất nước và hội nhập với thế giới. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác
động qua lại lẫn nhau. Bản chất và nội hàm của nó được thể hiện trên những điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế. Điều đó thể hiện: Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập với thế giới,

đứng ngoài hội nhập quốc tế. Độc lập là quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc. Tự chủ
là năng lực thực hiện quyền tự quyết ấy trên thực tế. Độc lập, tự chủ được thể hiện trên
tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại,... Song,
trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, thì hầu hết các quốc
gia, dân tộc đều tích cực tham gia vào quá trình này, nhằm thu hút, tạo nguồn lực để
xây dựng, phát triển đất nước. Tuy nhiên, tác động tiêu cực của nó là gia tăng sự phụ
thuộc, thậm chí khơng giữ được độc lập, tự chủ, nhất là đối với các nước nhỏ, tiềm lực
yếu so với các nước lớn. Do đó, giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc
phục sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, chi phối, mà đòi hỏi phải nêu cao và chủ động trong
hội nhập quốc tế. Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối
quan hệ với hội nhập quốc tế. Thực tiễn đổi mới cho thấy, nhờ giữ vững độc lập, tự chủ
mà chúng ta đã tự quyết định được lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp,
đối tác, lĩnh vực phát triển; phát huy được những lợi thế, hạn chế những thách thức, tác
động tiêu cực trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế. Ba là, có độc lập, tự chủ thì
mới phân tích, xử lý thơng tin một cách đúng đắn để có những giải pháp thiết thực,
đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực,... Từ
những cơ sở đó, để tham gia hội nhập quốc tế, trước hết mỗi quốc gia, dân tộc phải là
một “chủ thể” - đó chính là quyền độc lập, tự chủ của mình. Vì vậy, độc lập, tự chủ là
cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của
đất nước. Điều đó được thể hiện: Một là, thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là trong
hơn 30 năm đổi mới vừa qua cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản
8


lý của Nhà nước, thông qua chủ động hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại,
chúng ta đã phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế Việt
Nam. Hai là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra tiền đề cho phát triển kinh tế– yếu tố có ý nghĩa
quyết định đến sức mạnh tổng hợp của đất nước. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho
huy động các nguồn lực bên ngoài, như: vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản lý, ...

Đồng thời, tận dụng cơ hội của q trình tồn cầu hóa, chúng ta có thể mở rộng thị
trường, với nhiều hình thức đầu tư, hợp tác sản xuất; phát huy mặt mạnh và lợi thế so
sánh các sản phẩm trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động, tăng thu nhập cho người
lao động,.... Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra sự phối hợp chặt chẽ,
xác định cơ chế thống nhất, hiệu quả, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề lớn, mang
tính tồn cầu, đã, đang đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của từng quốc gia,
khu vực và cả thế giới, như: khủng bố, biến đổi khí hậu, thiên tai,... Điều đó cho thấy,
tất cả những thuận lợi này cũng như các nguồn lực từ bên ngoài chỉ có được thơng qua
hội nhập, hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao tiềm lực của đất nước để giữ vững độc
lập, tự chủ. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, chúng ta phải nâng cao nội lực, có đủ khả
năng tiếp nhận, biến cơ hội thành hiện thực; đồng thời, có chủ trương, giải pháp phù
hợp để khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình mở cửa, hội nhập, nhằm vừa
giữ vững độc lập, tự chủ, vừa bảo đảm cho đất nước phát triển.

3. Vấn đề Độc lập, tự chủ trong xây dựng nền kinh tế tại Việt Nam
Trên phương diện kinh tế, độc lập tự chủ của quốc gia địi hỏi phải có một nền kinh tế
độc lập tự chủ: cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết; nền
kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất nhập khẩu cân
đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng cơng nghệ và có giá trị
gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ
tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một số
ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi
9


phối nền kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành
nhạy cảm. Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong cán
cân thanh tốn và có nguồn dự trữ quốc gia đầy đủ. Một nền kinh tế độc lập tự chủ
trong bối cảnh tồn cầu hố là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến
động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội xác định một trong 5 quan điểm phát triển là:
“Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng
thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh,
bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm
lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng và có hiệu quả”. Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ trước hết là độc lập tự chủ
về đường lối phát triển theo định hướng XHCN; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có
cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển mạnh một số ngành,
lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu có vai trị quan trọng hàng đầu, có hiệu quả như
cơng nghệ thơng tin, cơng nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, luyện kim, hóa dầu,
than, khống sản, cơ khí chế tạo... Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, an toàn năng
lượng, an tồn tài chính - tiền tệ, an tồn mơi trường; bảo đảm cho đất nước phát triển
nhanh, hiệu quả, bền vững trong bất cứ tình huống nào, lúc thuận lợi cũng như lúc khó
khăn, gặp rủi ro.
4. Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Hội nhập quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là u cầu phát triển kinh tế, chính
trị, văn hóa - xã hội...của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới khơng
thể tự mình xây dựng được một đất nước phát triển trên nhiều phương diện bất kể nước
giàu hay nghèo, đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Việt
Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của nước ta là một nước
10


nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở rộng quan hệ với các nước khác
nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh
tế. Trong Đại hội Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra "Chủ động hội nhập quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh

quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố và bảo vệ môi trường".
4.1 Thành tựu

Triển khai đường lối, chính sách của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
quốc tế trong thời kỳ đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp
phần phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Trong quan
hệ song phương, nước ta đã củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện
với các nước láng giềng. Hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng thực chất hơn, phát
huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu
đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông
Dương.
Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN,
các nước ASEAN hiện có hơn một nghìn dự án đầu tư triển khai ở Việt Nam, với số
vốn đầu tư trên 13 tỉ USD, Việt Nam cũng có trên 120 dự án đang triển khai ở các nước
thành viên ASEAN với tổng vốn gần 1 tỷ USD.
Bên cạnh sự phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam năng
động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Nga... và các tổ chức quốc tế trong quá trình hội nhập như: Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), ký Hiệp định khung với EU
(1995); tham gia Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn APEC năm
1998; ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (2000) dựa trên những nguyên tắc cơ bản
của WTO và cuối năm 2006 đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO,
11


Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) của nước ta đã xúc tiến
với bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Trước hết,
Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở thành
thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn.

Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư
quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn
lực về vốn, khoa học - cơng nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa
thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương.
Theo Tổng cục Thống kê, tới năm 2018, đầu tư vào Việt Nam đã đăng ký gần 400 tỷ
USD. Việt Nam đã được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới.
Hiện nay Cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới hơn
50 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và hơn 20 nhà tài trợ đa phương.
Ngồi ra, nước ta cịn nhận được vốn ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế.
Thành cơng của hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện
vật chất – kỹ thuật thuận lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, tạo nền tảng
để hội nhập về chính trị và hội nhập các lĩnh vực khác. Kinh tế đất nước phát triển, sức
mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên là nhân tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ
của đất nước.
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế, trước hết trên lĩnh
vực kinh tế, là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách
đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với chủ trương chủ động và tích cực
hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hố tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta tham gia nhanh
và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ
mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có cơ hội đẩy nhanh quá trình điều chỉnh, tái cơ
cấu cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian vật chất của công
12


cuộc cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước.
4.2 hạn chế

Trong công tác hội nhập quốc tế, tiến độ của công việc chuẩn bị về pháp lý và thể chế
vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu hội nhập, với những chuyển biến mới của tình

hình thế giới và khu vực. Nền tảng để phát triển nền kinh tế bền vững chưa vững chắc,
môi trường thu hút đầu tư, năng lực giải ngân các dự án đầu tư nước ngoài và khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế còn hạn chế...
Việc xử lý một vài vấn đề trong nước chưa tính tốn thật đầy đủ đến phản ứng và tác
động quốc tế nhằm hạn chế việc bị các thế lực thù địch bên ngồi lợi dụng gây khó
khăn về ngoại giao. Cơng tác thơng tin, tun truyền đối ngoại cịn biểu hiện chưa nhạy
bén, hình thức chưa sinh động, hấp dẫn; cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa
đồng bộ, hiệu quả chưa như mong muốn.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội
nhập quốc tế nhìn chung cịn khơng ít bất cập, chưa thật sự ngang tầm chiến lược của
thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Công tác
nghiên cứu cơ bản, dự báo chiến lược trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế còn
hạn chế.
5. Giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế
5.1 Nhận thức

Đảng và Nhà nước đã xác định việc xử lý mối quan hệ này theo 4 nội dung chủ
yếu. Thứ nhất, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và tích cực với
việc ký kết chính thức và thực hiện có hiệu quả các hiệp định hợp tác kinh tế quốc tế;
xây dựng các thể chế kinh tế hướng tới hội nhập quốc tế trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự
chủ. Thứ hai, luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị
trường. Thứ ba, bảo đảm nền kinh tế đất nước khơng bị lệ thuộc vào bên ngồi. Thứ
tư, điều cốt lõi nhất để giữ vững độc lập, tự chủ là quốc gia phải có thực lực, cụ thể là
13


có một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả
và đảm bảo độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh
tranh cao; cơ cấu xuất nhập khẩu cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ
lệ các mặt hàng cơng nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường

quốc tế và đối tác đa dạng, tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu, một vài
đối tác.
5.2 thực tiễn

Vẫn còn những lúng túng, bị động trong xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế. Chưa có những giải pháp đồng bộ và hữu hiệu để phát huy những mặt
tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực trong khi hội nhập.
Việc triển khai thực hiện các thỏa thuận quốc tế chưa thật nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả
chưa cao, chưa phát huy được thế mạnh tổng hợp của đất nước.
Hạn chế rõ nét nhất trong thực tiễn chính là sự yếu kém trong việc cụ thể hóa các chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, những yêu cầu đặt ra để bảo đảm độc lập,
tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Cơ chế điều hành, giám sát và phối hợp trong
quá trình hội nhập giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ban, ngành còn nhiều
bất cập. Quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng chưa ổn định, lâu dài và
gặp nhiều trở ngại. Hội nhập quốc tế đã được triển khai mạnh mẽ nhưng vẫn chưa gắn
kết chặt chẽ giữa hiệu quả của hợp tác với phát triển bền vững, bảo vệ an ninh chính trị
và trật tự, an tồn xã hội, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nguyên nhân của những thành tựu trong nhận thức cũng như trong thực tiễn của việc
xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là sự lãnh đạo của Đảng
dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời
kế thừa, phát huy truyền thống ngoại giao của cha ông để lại, những kinh nghiệm quý
báu của Đảng và Nhà nước ta đã được tích lũy qua q trình cách mạng. Bên cạnh đó,
cơng tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình, sự phối hợp giữa các bộ, ban ngành,
địa phương chưa thật tốt dẫn tới việc hoạch định chính sách và triển khai các giải pháp
14


chưa kịp thời, thiếu hiệu quả.
III.


Một số kiến nghị nhằm giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế

Đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự thống nhất rộng rãi
trong nhận thức xã hội về những nội dung mới, những biểu hiện mới của độc lập dân
tộc và việc bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững định hướng XHCN trong bối cảnh tồn
cầu hố và hội nhập quốc tế.
Tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, tăng cường đổi mới xây dựng, củng cố và hồn
thiện hệ thống chính trị, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Tháo gỡ kịp thời những khó khăn, hạn chế, vướng mắc về cơ chế và chính sách, tạo
mơi trường pháp lý thuận lợi cho đổi mới, phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là tái cấu
trúc kinh tế và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng - an ninh với
kinh tế và đối ngoại.
Đề cao cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng chính sách mở cửa,
hội nhập quốc tế của Việt Nam để "Diễn biến hồ bình".
Xử đúng đắn, lý linh hoạt các vấn đề quốc tế có liên quan trực tiếp đến an ninh và phát
triển của đất nước.
CHƯƠNG III
KẾT LUẬN

Phân tích mẫu thuẫn, mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,
chúng ta có thể khẳng định một lần nữa giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ và chủ
động hội nhập quốc tế có mối quan hệ biện chứng. Chỉ có thể xây dựng được một nhà
15


nước độc lập tự chủ thì chúng ta mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội
nhập quốc tế đúng hướng và hiệu quả. Và ngược lại, chỉ có chủ động hội nhập quốc tế
chúng ta mới có thể nhanh chóng bổ sung sức mạnh cho nội lực còn khiếm khuyết,

thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm khơng ngừng tự hồn thiện mình để phát
triển nền kinh tế dân tộc.
Do đó, việc vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phân tích chủ trương,
đường lối của Đảng về việc xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ trên lĩnh vực kinh tế là
việc làm hết sức đúng đắn, giúp chúng ta khơng những hiểu rõ mà cịn giúp cho chúng
ta có thêm sự tự tin, ý chí quyết tâm để thực hiện chủ trương, đường lối đó. Ngồi ra,
việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế còn
giúp làm sáng tỏ quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong việc lãnh đạo xây dựng đất
nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Tạp chí Quốc phịng toàn dân: “Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế” - GS, TS. VŨ VĂN HIỀN, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung
ương
2. Trang thông tin điện tử - Hội đồng lý luận TW
3. Trang thơng tin điện tử - Đảng bộ tỉnh Bình Định: “Nhận thức và giải quyết mối
quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” - thứ Hai, ngày 14/09/2020
4. Giáo trình triết học Mác – Lênin ( Bộ Giáo dục và Đào tạo)
5. Báo Điện Tử - Đảng Cộng sản Việt Nam
6. Quan điểm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng – PGS.TS Ngơ Tuấn Nghĩa (Viện trưởng Viện Kinh
tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)

16


17




×