Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận văn hóa tộc người, tìm hiểu một số yếu tố tác động đến sự biến đổi văn hóa tộc người thiểu số việt nam, thực tại biến đổi hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.95 KB, 23 trang )

TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI VĂN
HÓA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ VIỆT NAM, THỰC TẠI BIẾN ĐỔI HIỆN
NAY
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
Khái niệm tộc người.
Tộc người theo nghĩa rộng là một loại hình cộng đồng người.
Tộc người theo nghĩa hẹp là tổng hợp những con người được hình thành
về mặt lịch sử trên một lãnh thổ nhất định, dưới một cái tên tự gọi (tộc danh), có
những đặc điểm chung tương đối bền vững về văn hóa và tâm lí (trong đó nổi
trội là ngơn ngữ); có ý thức về sự thống nhất của họ cũng như sự khác nhau
giữa họ với các tộc người khác (ý thức tộc người).
GS.TS. Phan Hữu Dật xác định: thuật ngữ dân tộc trong Dân tộc học
cần được hiểu, đó là tộc người, tiếng Hy Lạp là ethnos, ethnie. Và đưa ra khái
niệm: tộc người là cộng đồng người hình thành trong lịch sử, trên một lãnh thổ
nhất định, cùng có chung những đặc điểm tương đối bền vững về ngơn ngữ, văn
hóa, tâm lý, ý thức sự thống nhất của mình và làm cho mình khác với các tộc
người khác, thông qua tên tự gọi.
Vậy dân tộc học là gì? GS.TS. Phan Hữu Dật nêu định nghĩa ngắn gọn.
Dân tộc học là một ngành khoa học, nghiên cứu sự giống nhau và khác nhau
của tất cả các dân tộc trên thế giới, qua đó nói lên quá trình biến đổi của các
dân tộc trong trường kỳ lịch sử của nhân loại, từ thời xa xưa cho đến tận hơm
nay.
Lê Sĩ Giáo giải thích: khái niệm dân tộc thực chất phải được hiểu là tộc
người (ethnie). Tộc người là hình thái đặc biệt của một tập đồn xã hội xuất
hiện không phải do ý nguyện của con người mà là trong kết quả của quá trình
tự nhiên- lịch sử.
GS. Đặng Nghiêm Vạn phân biệt nation (dân tộc) và ethnie (tộc người),
ngoài sự đồng nhất hai thuật ngữ ethnos, ethnie chỉ định khái niệm chung tộc
1



người, GS. Đặng Nghiêm Vạn đưa ra luận điểm dân tộc (nation) theo nghĩa
được Liên hợp Quốc công nhận: thuật ngữ nation có nghĩa là một cộng đồng
nhân dân (people) ổn định được phát triển trong lịch sử, với một lãnh thổ, một
sinh hoạt kinh tế, một đặc trưng văn hóa, một tiếng nói chung, chỉ đạo bởi một
nhà nước.
Mở rộng thuật ngữ dân tộc (nation), GS. Phan Huy Lê dẫn giải: riêng từ
"dân tộc" theo hiểu biết của tôi cho đến nay thì người Việt Nam đầu tiên sử
dụng là nhà yêu nước Phan Bội Châu trong bài "Lưu Cầu huyết lệ tân thư"
khoảng trước năm 1905. Từ "dân tộc" do các trí thức cấp tiến Nhật Bản sáng
tạo trên cơ sở chữ Hán để dịch từ "Nation" trong tiếng Anh. Nhưng ở Việt Nam,
trong quá trình sử dụng, từ "dân tộc" mang nhiều nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, là một đơn vị tộc người nói chung, khơng phân biệt cấp độ
loại hình cộng đồng như trường hợp nói: dân tộc Việt, dân tộc Tày, dân tộc
Thái, Việt Nam có 54 dân tộc...
Thứ hai, là cộng đồng quốc gia bao gồm nhiều cộng đồng cư dân, tộc
người sống trên một lãnh thổ do một nhà nước quản lí, như trường hợp nói dân
tộc Việt Nam, dân tộc Lào, dân tộc Cămpuchia...
Thứ ba, là một cộng đồng mang tiêu chí của "Nation" như phương Tây.
PGS.TS. Bùi Xuân Đính nêu rõ: Tộc người (ethnos, ethnie) là hình thái
đặc thù của một tập đoàn người, một tập đoàn xã hội, xuất hiện trong quá trình
phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi ba đặc trưng cơ bản,
mang tính ổn định và tương đối bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử là: ngơn
ngữ, văn hóa, ý thức tự giác về cộng đồng.
Về dân tộc (nation), PGS.TS. Bùi Xuân Đính đưa ra hai nghĩa:
Một hình thái phát triển cao của tộc người, thường xuất hiện vào giai
đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản (dân tộc Pháp, Đức…).
Một cộng đồng chính trị của nhiều tộc người có nguồn gốc lịch sử khác
nhau, có trình độ phát triển kinh tế- xã hội khác nhau cùng chung sống trong

2



một quốc gia, được quản lý bởi một nhà nước chung, tạo lập nên một nền văn
hóa chung.
Những luận điểm trên đều thống nhất xác định thuật ngữ ethnos,
ethnie là khái niệm chỉ tộc người, cịn nation có ngữ nghĩa rộng theo cách hiểu
toàn thể mọi tầng lớp nhân dân, các tộc người cùng chung sống. Dân tộc là điều
kiện, cơ sở hình thành quốc gia độc lập, có chủ quyền dưới sự quản lý của một
nhà nước. Tiêu chí dân tộc gắn liền với chủ quyền đất nước được chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Những
thuật ngữ duy danh dân tộc, tộc người được nêu nhất quán bởi quá trình hình
thành từ truyền thống lịch sử tạo chiều sâu văn hóa, dựng nên bản sắc độc đáo
riêng từng tộc người, từ đó hịa nhập trong khối đại đồn kết dân tộc/nhân dân
Việt Nam. Bên cạnh đó, thuật ngữ ethnographie đang sử dụng chính thống trong
tiếng Việt hiện đại với nghĩa chung là ngành Dân tộc học như tên gọi từ trước
đến nay.
Qua các định nghĩa, dẫn giải của một số nhà nghiên cứu nêu trên, có thể
đưa ra khái niệm tổng quát dân tộc, tộc người như sau:
Dân tộc (nation) là cộng đồng người cùng chung sống trong một vùng
lãnh thổ nhất định, có một nhà nước độc lập, có chủ quyền quốc gia, có ngơn
ngữ (chữ viết, tiếng nói) chung, có bản sắc văn hóa và sinh hoạt kinh tế.
Tộc người (ethnie/ethnos) là một tập đoàn người có tiếng nói chung, có
nguồn gốc lịch sử, văn hóa và ý thức tự giác cộng đồng.
Văn hóa tộc người.
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động tồn bộ cuộc sống
con người trong suốt q trình lịch sử. Văn hóa tạo nên một hệ thống các giá trị
truyền thống bao gồm thẩm mĩ và lối sống, từ đó từng dân tộc xây dựng nên bản
sắc riêng của mình. Văn hóa là tất cả những gì con người đã bỏ cơng sức để tạo
ra; nó khác với những gì tồn tại trong tự nhiên ngồi con người. “Văn hoá là hệ
thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo và tích luỹ


3


qua quá quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội”.
Văn hóa với tính cách là yếu tố cấu thành tộc người bao gồm tri thức,
tín ngưỡng, đạo đức, nghệ thuật, luật pháp, tập quán, sinh hoạt … là sự thể hiện
bản chất năng lực con người với tính cách là thành viên của cộng đồng xã hội.
“Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi
của sự sinh tồn”
Nghiên cứu văn hóa với tính cách là yếu tố cấu thành tộc người cần
phải xem xét trên cả trục đồng đại và lịch đại. Với sự liệt kê đầy đủ danh mục
các hiện tượng văn hóa của một tộc người cho phép chúng ta có những nhận
định sơ bộ về văn hóa tộc người cũng như bản sắc văn hố tộc người. “Khi nói
đến văn hóa tộc người là nói đến những khía cạnh tiêu biểu của tộc người đó tạo
nên những nét khác biệt với văn hóa các tộc người khác”
Cũng cần thấy rằng văn hoá tộc người là một thực thể đa dạng và
thống nhất. “Nếu coi thống nhất của văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự
thống nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa dạng của văn hóa, mà
ở đây thể hiện rõ nhất là đa dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương (văn
hóa vùng). Sẽ khơng có sự thống nhất văn hóa nào vững chắc và lành mạnh lại
dựa trên cơ sở thuần nhất hóa hay đơn nhất hóa văn hóa”.
Đời sống vật chất và đời sống tinh thần là hiện tượng phổ quát của
các tộc người. Mặt khác, sự vận động về mặt tinh thần và vật chất của chủ thể
văn hố ln gắn với khơng gian thời gian cụ thể. Nhờ có quan hệ với tự nhiên
và xã hội mà chủ thể văn hoá sáng tạo ra những sản phẩm có giá trị, đồng thời
nhờ đó mà chủ thể có thể thể hiện mình trước tự nhiên và xã hội. Văn hố là sự
thể hiện mình theo một cách riêng, trong điều kiện lịch sử cụ thể của một chủ

thể văn hố. Văn hố theo hướng này có nghĩa là nét đặc thù về phong cách
sống của tộc người. Nét đặc thù về phong cách sống của mỗi tộc người như là
phương thức tái hiện những tập hợp tình cảm và lí trí nhằm khẳng định các giá
4


trị chung của cộng đồng tộc người. Nói chung, nét đặc thù về phong cách sống
là một biểu hiện của bản sắc văn hố tộc người.
Văn hóa tộc người là tổng thể sống động các giá trị văn hoá vật thể và phi
vật thể do các cộng đồng tộc người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, thể hiện
bản sắc tộc người, là bộ phận hữu cơ của văn hóa quốc gia.
Văn hóa tộc người là tồn bộ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
do các cộng đồng tộc người sáng tạo ra trong quá trình sinh tồn và phát triển, gắn
với mơi trường tự nhiên và xã hội, nó phản ánh những đặc điểm trong tư duy và
lao động sáng tạo của các tộc người trong các giai đoạn phát triển với các thông
tin về nội hàm và ngoại diên phản ánh sự vận động nội tại và trong mối quan hệ
văn hóa ở cấp độ tộc người và quốc gia
Dù cách thức diễn đạt khác nhau, nhưng nói đến văn hóa tộc người là nói
đến giá trị; các giá trị do cộng đồng tộc người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử;
là căn cứ quan trọng để phân biệt tộc người; là bộ phận cấu thành văn hóa quốc
gia.
*Các dạng thức của văn hóa tộc người
Cũng có thể phân chia các dạng thức văn hóa tộc người dựa trên căn cứ
về nhu cầu và hình thức tồn tại của các sản phẩm sáng tạo. Văn hóa tộc người sẽ
được phân chia dưới hai dạng thức: Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể của
tộc người. Đây là những giá trị cơ bản của văn hóa tộc người, kết quả tư duy và
lao động sáng tạo của các cộng đồng tộc người trong quá trình lịch sử tồn tại và
phát triển.
Về dạng thức văn hóa vật thể của tộc người, có thể đồng tình với quan
niệm:

Văn hóa vật thể được là những giá trị văn hóa do các cộng đồng tộc
người sáng tạo nhằm thỏa mãn các nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại, lao động, sinh
hoạt gia đình và cộng đồng..., có kết cấu vật chất khơng gian ba chiều mà
chúng ta có thể cầm nắm, cân, đong, đo đếm...được.

5


Theo định nghĩa này, biểu hiện của dạng thức văn hóa vật thể trong đời
sống của các cộng đồng tộc người rất đa dạng và phong phú, bao gồm các sáng
tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của con người và cộng đồng. Về cơ bản, các
giá trị sáng tạo là tương đồng, song có sự phân biệt bản sắc cá tính tộc người
biểu hiện trong tư duy kỹ thuật canh tác, loại hình kinh tế-văn hóa, tư duy thẩm
mỹ....
Dạng thức văn hóa phi vật thể được quan niệm:
Văn hóa phi vật thể là một dạng tồn tại (hay thể hiện) của văn hóa
khơng phải dưới dạng vật thể có hình khối tồn tại trong khơng gian và thời
gian, mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, tập tính, hành vi, ứng xử của con người và
thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội
trong hoạt động tư tưởng và văn hóa-nghệ thuật mà thể hiện ra khiến người ta
nhận biết được sự tồn tại của nó. Văn hóa phi vật thể của tộc người theo quan
niệm này, bao gồm các giá trị về cơ cấu, tổ chức xã hội (gia đình, dịng họ, cộng
đồng...); những giá trị tín ngưỡng, tơn giáo đáp ứng nhu cầu tâm linh; những giá
trị văn học, nghệ thuật; giá trị về tri thức dân gian...
Sự phân chia các dạng thức văn hóa tộc người có ý nghĩa quan trọng
trong nghiên cứu giá trị, bản sắc văn hóa tộc người, đặc biệt nghiên cứu mối
quan hệ giữa văn hóa tộc người trong q trình hình thành và phát triển nền văn
hóa quốc gia dân tộc.

6



2. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HĨA
TỘC NGƯỜI
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phát triển trong bối cảnh của
phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường đã khơi
dậy mọi tiềm năng sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội,
tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc,
nhưng đồng thời cũng nảy sinh những mặt tiêu cực, có nguy cơ hủy hoại bản
sắc văn hóa dân tộc quốc gia cũng như bản sắc văn hóa tộc người. Có nhiều yếu
tố tác động đến sự biến đổi của văn hóa tộc người.
Tác động của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Xu thế tồn cầu hóa là điều kiện thuận lợi cho các nước phát triển xuất
khẩu (nhiều lý do) cũng như các nước kém phát triển, đang phát triển phải nhập
khẩu, tiếp cận, sử dụng những thành tựu của khoa học công nghệ, thành quả trên
các lĩnh vực khác… để hiện đại hóa. Trong q trình này, cũng có những ảnh
hưởng dẫn đến những nguy cơ bị áp đặt bởi các cường quốc với những điều
kiện có thể gây tổn hại đến sự phát triển của các quốc gia nhỏ, yếu. Việt Nam
khơng ngoại lệ.
Xu thế và q trình tồn cầu hóa là mơi trường rộng mở, cơ hội để văn
hóa giữa các quốc gia được giao lưu bằng nhiều hình thức, phương cách đa
dạng. Giá trị và di sản của các quốc gia được giới thiệu, quảng bá rộng rãi đến
mọi người. Các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau hơn, từ đó có thể chia sẻ,
hợp tác, mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nghệ thuật làm
phong phú kho tàng văn hóa dân tộc mình, thụ hưởng tốt hơn thành quả văn hóa
của nhân loại . Thế nhưng, trong xu thế tồn cầu hóa, văn hóa là một lĩnh vực dễ
bị “tổn thương”, trong đó văn hóa truyền thống dễ bị tổn thương hơn cả, bản sắc
văn hóa dân tộc trở thành vấn đề trọng đại của mỗi quốc gia .
Ba nguy cơ chính đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt
Nam được Đinh Ngọc Thạch nêu ra: Sự xáo trộn tự phát trong sáng tạo và

hưởng thụ văn hóa, chủ nghĩa lãng mạn ngây thơ dẫn đến hiện tượng tha hóa
7


bản sắc, nghịch lý giữa tính mở của khơng gian giao tiếp và sự biệt hóa ngày
càng sâu sắc giữa các cá nhân, các nhóm xã hội, các dân tộc và các khu vực.
Tồn cầu hóa có thể tạo nên những biến thái mới, làm thay đổi các chuẩn mực,
các giá trị…và nuốt chửng cả một nền văn hóa, nếu nền văn hóa ấy khơng đủ
sức vượt qua thách thức . Trong đó, hệ quả nặng nề nhất là nền văn hóa của một
dân tộc bị đồng hóa bởi các nền văn hóa khác lớn mạnh hơn.
Q trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo ra một
sân chơi chung, trong đó sự phát triển của các các quốc gia về kinh tế, xã hội và
văn hóa có sự gắn kết với sự phát triển của khu vực và thế giới. Dù muốn hay
hay khơng, dù nhìn từ góc độ nào, thì văn hóa quốc gia cũng như văn hóa tộc
người đều bị ảnh hưởng, chi phối của q trình đó.
Có thể thấy một mặt, sự tác động của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế
đang mở ra cho mỗi quốc gia dân tơc cơ hội để khai thác những gì tốt nhất cho
sự phát triển. Đây cũng là cơ hội để văn hóa mỗi dân tộc tự khẳng định mình.
Khơng thể phủ nhận được sự làm giàu văn hóa nhân loại từ những bản sắc văn
hóa của từng dân tộc và từng tộc người, khi những di sản văn hóa riêng đó được
UNESCO cơng nhận di sản văn hóa thế giới. Q trình đó cũng đang tạo điều
kiện cho mỗi quốc gia, dân tộc cơ hội tiếp nhận chuyển giao về khoa học công
nghệ phục vụ cho sáng tạo, bảo quản, quảng bá văn hóa, phát triển cơng nghiệp
văn hóa… Nhưng mặt khác cũng cho thấy, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế cũng đưa đến nguy cơ làm xói mịn, thậm chí triệt tiêu sự khác biệt văn
hóa dân tộc. Sự cảnh báo hãy coi “xâm lăng về văn hóa là sự xâm lăng cuối
cùng và triệt để nhất” không là ngoại lệ đối với dân tộc quốc gia nào.
Trong bối cảnh đó, văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng đang
diễn ra một quá trình hội nhập giữa văn hóa truyền thống và hiện đại, giữa văn
hóa tộc người và văn hóa quốc gia, văn hóa quốc tế rất mạnh mẽ và rộng khắp.

Dù chậm so với vùng xuôi, vùng đô thị, nhưng đời sống kinh tế của đồng
bào dân tộc thiểu số đang ngày một được cải thiện. Điều đó tạo cơ sở cho sự
biến đổi trong đời sống văn hóa. Về mặt tích cực, đồng bào dân tộc đã có điều
8


kiện để tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại, loại bỏ những hủ tục, lạc hậu, thay
vào đó các yếu tố văn hóa mới, hiện đại.
Có thể thấy văn hóa các dân tộc thiểu số nước ta đang vận động, biến
đổi theo các xu hướng:
- Xu hướng giao lưu văn hóa giữa các tộc người. Trước hết, đó là sự
biến đổi trong phân bố dân cư giữa các tộc người thiểu số. Nhiều vùng đồng bào
dân tộc trên cả nước ta hiện nay, rất ít có làng thuần nhất chỉ có một tộc người
cư trú, mà thường là cộng cư, xen kẽ. Điều đó đã và đang tạo ra những biến đổi
về văn hóa tộc người sâu sắc.
- Xu hướng chịu ảnh hưởng của hội nhập và văn hóa hiện đại. Sự giao
lưu văn hóa này diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các mặt, từ văn hóa sản xuất, khoa
học công nghệ, kiến trúc nhà cửa, sinh hoạt, ẩm thực, trang phục… đến việc đón
nhận các giá trị văn hóa hiện đại.
- Xu hướng đồng hóa về văn hóa. Thực ra, đồng hóa văn hóa cũng là vấn
đề có tính quy luật trong tiến trình của các tộc người, có cả đồng hóa tự nhiên
và đồng hóa cưỡng bức. Trái với sự áp đặt của đồng hóa cưỡng bức, đồng hóa
tự nhiên là q trình tiếp nhận văn hóa một cách tự nguyện giữa các tộc người
có trình độ phát triển cao hơn, để hoàn thiện, nâng cao văn hóa của tộc người
mình.
- Xu hướng mai một, đứt gãy văn hóa. Đây là xu hướng biến đổi văn hóa
truyền thống của các tộc người theo hướng suy thối, nghèo nàn đi. Nhiều giá
trị văn hóa tộc người bị mai một, đứt gãy, tạo nên sự hẫng hụt mai một văn hóa.
- Xu hướng phục hồi văn hóa truyền thống. Xu hướng này cũng diễn ra
tất yếu, do nhu cầu của chủ thể sáng tạo, do tác động của các yếu tố khách quan.

Quan điểm quốc tế về đa dạng văn hóa
Năm 2001, UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa thế giới
đã đã đưa ra những quan điểm quan trọng về Đa dạng văn hóa, Văn hóa và phát
triển, Văn hóa và bản sắc. Bản chất của đa dạng văn hố là khẳng định tơn trọng
bản sắc văn hoá dân tộc thống nhất trong văn hoá chung của nhân loại. Đa dạng
9


văn hố là chấp nhận có các nền văn hố khác nhau trên thế giới, tức là đề cập
đến vấn đề bản sắc từ cấp độ quốc gia, dân tộc, nhóm tộc người, nhóm xã hội
đến cấp độ cá thể (nhân cách). Quan điểm khẳng định: ‘‘Văn hóa tồn tại dưới
nhiều dạng khác nhau theo thời gian và không gian. Sự đa dạng này tồn tại ở
những nét riêng và điểm chung trong bản sắc của các nhóm người, các xã hội
hình thành nên cộng đồng nhân loại. Là khởi nguồn cho giao lưu, đổi mới, và
sáng tạo, đa dạng văn hóa cũng cần thiết đối với nhân loại như đa dạng sinh
học đối với tự nhiên. Với ý nghĩa này, đa dạng văn hóa chính là tài sản chung
của nhân loại và nó cần được cơng nhận, khẳng định vì quyền lợi của các thế
hệ hiện tại và tương lai”.
Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, F.Mayor đã nhấn mạnh: “Kinh
nghiệm của hai thập kỷ qua cho thấy rằng trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở
trình độ phát triển kinh tế nào hoặc theo xu hướng chính trị nào, văn hóa và phát
triển là hai mặt gắn liền với nhau. Hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu phát
triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất
cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của
nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Một sự phát triển chân chính địi hỏi phải sử
dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy phân tích
đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được
tìm trong văn hóa . Từ nay trở đi văn hóa cần coi mình là một nguồn bổ sung
trực tiếp cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị
trí trung tâm, một vai trị điều tiết xã hội...”.

Đảm bảo đa dạng văn hóa là phát huy vai trị văn hóa có vai trị trong
phát triển (chất lượng cuộc sống, tạo thu nhập); khuyến khích phát triển văn hóa
cơng nghiệp (industrial culture) để giữ gìn các giá trị văn hóa và tạo thu nhập.
Văn hóa là phải cho con người, vì con người.
Quan điểm trên đây cho thấy văn hóa là đối thoại, là sự xâm nhập, đan
xen, trao đổi, tác động qua lại và có chút pha trộn giữa các yếu tố nội sinh và
ngoại sinh. Khơng có nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối đơn lẻ, thuần
10


khiết và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Sự vận động,
biến đổi của văn hóa tộc người là quy luật khách quan. Khơng vận động, biến
đổi cũng là đồng nghĩa với sự suy thoái. Phải nhận thức đúng để hạn chế những
mặt tiêu cực.
Việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các dân
tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong xu thế hội nhập
là vấn đề lớn, phù hợp với định hướng bảo vệ di sản văn hóa của Đảng và Nhà
nước ta. Làm thế nào để vừa bảo tồn nhưng vẫn phải duy trì được sự phát triển
theo xu hướng tiến bộ của xã hội, bảo vệ văn hóa truyền thống trong nền văn
minh công nghiệp. Bảo vệ, bảo tồn nhưng vẫn phải bảo đảm cho những chủ thể
ở đây được hòa nhập, được hưởng thụ những thành quả mà xã hội đem lại.
Đa dạng văn hóa chính là bảo tồn những giá trị văn hóa mang bản sắc
riêng của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, được xem như là một cách thức để phát
triển và bảo vệ các nền văn hóa, bảo vệ di sản văn hóa chung của nhân loại.
Đa dạng văn hóa đã trở thành điều kiện tồn tại và phát triển khơng chỉ
của văn hóa mà cịn của cả kinh tế, xã hội, của mỗi dân tộc, là động lực quan
trọng của sự phát triển. Đa dạng văn hóa là điều kiện tiên quyết để từng nhóm
người, từng dân tộc bộc lộ và phát huy hết năng lực sáng tạo độc đáo của mình
trong quá trình sản xuất các giá trị mới về vật chất cũng như tinh thần. Đối thoại
giữa các nền văn hóa, văn minh đang là yêu cầu quan trọng bậc nhất nhằm

hướng tới sự phát triển bền vững. Nhất thể hóa, đồng dạng hóa các giá trị văn
hóa theo một khn mẫu cố định là triệt tiêu động lực phát triển, triệt tiêu năng
lực sáng tạo, sự tương tác giữa các nền văn hóa là tiền đề cho sự phát triển. Biết
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình cũng có nghĩa là biết tơn
trọng khoan dung với sự khác biệt văn hóa của các dân tộc khác. Điều này có ý
nghĩa ngày càng quan trọng trong một thế giới đang bị chia rẽ bởi những xung
đột sắc tộc, xung đột tín ngưỡng, tơn giáo mang đậm màu sắc văn hóa.
Đa dạng văn hóa cũng đồng thời củng cố tính thống nhất của mỗi nền
văn hóa. Đa dạng văn hóa trong tồn cầu hóa văn hóa một mặt duy trì, củng cố,
11


hiện đại hóa văn hóa dân tộc, phát huy bản sắc của văn hóa dân tộc, mặt khác,
tiếp thu tất cả những gì tiên tiến, hiện đại của các dân tộc khác để làm giàu cho
nền văn hóa của dân tộc mình. Vì thế, có thể nói, đa dạng văn hóa là phương
thức hữu hiệu để bảo tồn và phát triển văn hóa.
Khơng phải đến bây giờ chúng ta mới đặt ra vấn đề đa dạng văn hóa.
Lịch sử Việt Nam, qua tiếp xúc, giao lưu với các nền văn minh khác, đã cho
thấy sức sống mãnh liệt của văn hóa truyền thống, khơng những khơng bị đồng
hóa mà cịn ngày càng thống nhất. Một dấu mốc quan trọng là việc nước ta từ
năm 2005 đã tham gia ký kết Cơng ước về đa dạng văn hóa. Đối với một nước
mới gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) như Việt Nam, điều cần hết
sức lưu ý là, khác với việc dần dần từ bỏ sự bảo hộ đối với các sản phẩm công,
nông nghiệp, mở cửa các thị trường, riêng trong lĩnh vực văn hóa, cần kiên trì
ngun tắc bảo hộ đối với các sản phẩm của nền cơng nghiệp văn hóa. Bởi sản
phẩm văn hóa khơng phải là một hàng hóa thơng thường mà trước hết là một
sản phẩm mang giá trị tinh thần đặc trưng cho mỗi nhóm người, mỗi dân tộc.
Nhà nước cần đóng vai trò xác lập và định hướng phát triển cho các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc mình. Điều cần thiết là phải phân biệt được những
gì cần gìn giữ, phát huy; những gì đã lạc hậu, lỗi thời cần loại bỏ dần để đầu tư

phát triển văn hóa của quốc gia. “Khuyến cáo của UNESCO đã nêu rõ Chính
phủ các nước cần có sự đầu tư cho văn hóa khơng dưới 2% tổng thu nhập quốc
dân. Đây là một yêu cầu rất cao mà không phải quốc gia nào cũng thực hiện
được”. Đầu tư của nhà nước cần tập trung vào các lĩnh vực đào tạo nhân lực,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc (vật thể và
phi vật thể), tạo điều kiện thuận lợi cho các nghệ sĩ sáng tạo các giá trị văn hóa
mới, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân ở mọi vùng miền của đất
nước, xây dựng và phát triển nền công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, tiến hành các biện pháp nhằm
xóa mù cơng nghệ thơng tin để mọi người dân có thể dễ dàng tiếp cận với các
nền văn hóa khác. Nhà nước cần xác lập định hướng đúng đắn cho sự phát triển
12


văn hóa, hoạch định các chính sách văn hóa trên từng lĩnh vực hoạt động cụ thể,
đảm bảo phát triển kinh tế và văn hóa ln song hành, tạo hành lang pháp lý cho
các hoạt động văn hóa nằm trong tầm kiểm sốt nhằm phục vụ lợi ích chung của
tồn xã hội, tồn dân tộc và của mỗi nhóm người. Đó cũng chính là các biện
pháp nâng cao năng lực nội sinh của nền văn hóa nhằm chủ động hội nhập và
phát triển
Sự giao lưu, hội nhập văn hóa
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng đồng vốn là quy luật
chung của sự phát triển văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, hơn bất cứ thời kỳ nào
trong lịch sử, ngày nay thế giới đang bước vào kỷ nguyên mới với sự giao lưu
và hội nhập vô cùng sống động. Nó là một động lực thúc đẩy sự phát triển văn
hóa và rộng hơn nữa là sự phát triển xã hội. Mọi sự đóng kín, đoạn tuyệt hay
cản trở giao lưu, sự biệt lập giữa các cộng đồng đều làm mất đi sinh lực, sức
sống và thậm chí dẫn tới sự thối hóa về mọi mặt của cộng đồng. Thực tế các
tộc người như Chứt, Thổ, các nhóm thiểu số quen gọi là “Xá lá vàng” sinh sống
ở vùng núi giáp giới giữa nước ta và Lào,... đã chứng minh điều đó.

Tuy nhiên, để giao lưu và hội nhập thực sự trở thành động lực thúc đẩy
sự phát triển văn hóa và xã hội của một cộng đồng, thì bản thân văn hóa của mỗi
cộng đồng ấy phải bảo tồn và phát huy bản sắc, sắc thái văn hóa của mình. Bởi
vì, một cộng đồng với bản sắc riêng như vậy, một mặt, sẽ là cơ sở, “vốn liếng”
để giao lưu, khiến cộng đồng người đó khơng những khơng bị “hịa tan”, đồng
hóa, mà cịn làm phong phú thêm nền văn hóa của chính mình; mặt khác, trong
sự giao lưu ấy, mỗi nền văn hóa sẽ đóng góp những tinh hoa, sắc thái riêng của
mình vào kho tàng chung của văn hóa nhân loại. Chúng ta đã từng chứng kiến
trong quá trình hình thành và phát triển văn hóa của mình, người Việt đã chủ
động tiếp thu những ảnh hưởng văn hóa của các tộc người láng giềng như: Môn
- Khmer, Tày - Thái cổ, Nam Đảo, sau này cả văn hóa Hán và văn hóa phương
Tây nữa. Cho nên có thể nói, văn hóa tộc Việt là một thí dụ điển hình chứng
13


minh vai trò của giao lưu, hội nhập với sự hình thành và phát triển của một nền
văn hóa là như thế nào.
Nói sự hội nhập ở đây là sự hội nhập giữa các tộc người trong một quốc
gia, hội nhập quốc gia với quốc tế. Đó cũng là biểu hiện của mối quan hệ giữa
bộ phận và toàn thể trong một hệ thống. Một cộng đồng nào tách mình ra khỏi
hệ thống tức là sẽ tự làm mất đi những khả năng, động lực của xu hướng phát
triển chung. Tất cả các dân tộc trong quốc gia Việt Nam, dân tộc thiểu số hay đa
số, không tự phát triển riêng rẽ, mà hòa vào một xu hướng phát triển chung của
cả quốc gia. Đó là bài học rút ra từ sự nghiệp giải phóng dân tộc trước kia, cũng
như sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa
sống cịn, đặc biệt là với nước ta, một quốc gia nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu
vừa thoát ra từ cuộc chiến tranh kéo dài, nay còn đang “ngỡ ngàng” và chậm
bước so với sự phát triển nhanh chóng của các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới.
Tính đặc thù và khả năng phát triển

Mỗi cộng đồng người dù lớn hay nhỏ, đã phát triển hay cịn ở tình trạng
lạc hậu, chậm phát triển đều có một lịch sử truyền thống lâu đời, tích lũy vốn tri
thức và thể hiện qua nền văn hóa của mình. Đó là một nhân tố rất quan trọng,
nếu khơng muốn nói là quan trọng nhất, cần phải tính đến trong việc tìm kiếm
con đường và khả năng phát triển của cộng đồng đó. Bởi vì, khơng thể có một
cộng đồng nào từ số “khơng”, từ “ hư vơ” mà phát triển, nó đều xuất phát từ
một truyền thống cụ thể nào đó.
Đã có một thời, chúng ta quá nhấn mạnh đến cái chung, quy luật chung
của sự phát triển cho mọi cộng đồng, ít chú ý tới truyền thống, tính đặc thù, bản
sắc riêng của mỗi cộng đồng trong phát triển. Từ đó dẫn đến tình trạng rập
khn, áp đặt, duy ý chí trong chủ trương, chính sách, trong hoạch định kế
hoạch phát triển, cuối cùng là hiệu quả đạt được không như ý muốn.

14


Thực tế đó cho thấy, việc hoạch định kế hoạch và tìm kiếm các giải phát
phát triển mỗi cộng đồng đòi hỏi, một mặt, chú trong hệ thống chung quy định
xu hướng của phát triển phù hợp với quốc gia và quốc tế; mặt khác, quan trọng
hơn là từ thực tế mỗi tộc người và địa phương, từ tính đặc thù, từ truyền thống
riêng, tìm kiếm cách thức và các giải pháp cụ thể cho sự phát triển của dân tộc
hay địa phương ấy.
Nhìn ra thế giới, chẳng hạn như Nhật Bản, Hàn Quốc đã nêu tấm gương
thành công cho việc phát triển đất nước từ truyền thống riêng, từ tính đặc thù và
bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Việt Nam là một đất nước có nhiều tộc người với sự khác biệt về quy
mơ dân số, hồn cảnh sống, điều kiện lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa.
Do vậy, chiến lược chung của Đảng và Nhà nước là phát triển toàn diện ở mỗi
dân tộc, nhưng chúng ta cần đặc biệt lưu ý với tính đặc thù và bản sắc dân tộc
ấy trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phải nghiên cứu, tìm hiểu một cách

kỹ lưỡng những mặt riêng có ấy, để từ đó định ra những hình thức, bước đi, biện
pháp phù hợp với mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi dân tộc.
Xuất phát từ quan điểm đó thì khơng chỉ đối với nghiên cứu khoa học,
mà trước nhất là đối với thực tiễn phát triển hiện nay, vấn đề nghiên cứu, tìm
hiểu, phát hiện tính đặc thù và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi địa phương
có vai trị rất quan trọng, góp phần khơng nhỏ vào việc hoạch định các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tộc người, các địa phương, nhất là với các
tộc người, địa phương cịn ở trình độ phát triển chậm, mang nhiều nét đặc thù.
Đối với những hoạt động ở tầm vĩ mô, như tổ chức triển lãm các mặt hàng tiêu
dùng toàn quốc, triển lãm ngành nghề truyền thống, mang tính cạnh tranh, thì tài
“đọ sức” giữa các vùng, miền, những cuộc thi thời trang, giọng hát, nhạc cụ hay
giữa các dân tộc đủ thể hiện sự chuyển biến bước đầu trong nhận thức về phát
huy sức mạnh tính đa dạng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong quá
trình chuyển đổi cơ chế ở nước ta.
15


Thực trạng biến đổi giá trị văn hóa tộc người
Sự biến đổi văn hóa tộc người ở nước ta mới được xét ở ba phương diện
chủ yếu: ngôn ngữ tộc người, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Sự biến đổi của ngôn ngữ tộc người
Trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tồn diện hiện nay, sự
biến đổi văn hóa các dân tộc trước hết là biến đổi về ngôn ngữ tộc người. Nhiều
công trình nghiên cứu cho rằng, có ba phương thức chủ yếu tác động đến sự
thay đổi này, đó là: chính sách, truyền thông và thị trường.
Tiếng Kinh được xác định là tiếng phổ thông và được sử dụng làm ngôn
ngữ hành chính. Sự biến đổi về ngơn ngữ tộc người như hiện nay sẽ ảnh hưởng
lớn đến quá trình sáng tạo, trao truyền và hưởng thụ văn hóa của đồng bào.
Học sinh không những học tiếng phổ thông, mà đội ngũ giáo viên
là người dân tộc cũng có số lượng rất ít. Tuy Nhà nước ta đã có chủ trương bổ

sung đội ngũ trợ lý ngôn ngữ cho các trường tiểu học, nhưng kết quả vẫn hạn
chế và thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có chương
trình xây dựng chữ viết cho các tộc người, chữ viết này được đưa vào giảng dạy
từ tiểu học. Trên thực tế, chương trình này đã hạn chế phần nào hiện tượng phổ
thơng hóa về ngơn ngữ, và cũng tạo điều kiện cho người dân sáng tạo văn hóa
nghệ thuật, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
mình… Điều đáng nói đây chỉ mới là chương trình thử nghiệm, chưa phổ biến.
Cùng với chính sách ngơn ngữ của Nhà nước như đã nêu trên đây,
truyền thơng cũng có tác động không nhỏ. Trên các hệ thống thông tin đại
chúng ở nước ta, tiếng phổ thông được dùng để chuyển tải các thông tin vẫn là
ngôn ngữ chủ yếu. Tiếng các dân tộc thiểu số mới chỉ được sử dụng còn, rất hạn
chế trong các chương trình phát thanh, truyền hình của Trung ương và địa
phương. Hơn nữa, chỉ có một số tiếng các dân tộc là được lựa chọn và sử dụng
trong các chương trình truyền thơng. Thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước việc phủ sóng hầu khắp của phát thanh và truyền hình đã
tăng cường tính tiếp cận thơng tin của người dân, nhưng vì ngôn ngữ truyền
16


thơng bằng tiếng các dân tộc cịn q ít, nên cũng hạn chế đến bảo tồn giá trị
văn hóa các dân tộc.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường của đất nước cũng tạo điều kiện
cho người dân của các dân tộc thiểu số tiếp cận với những thông tin, dịch
vụ kinh tế và văn hóa, nhưng việc giao dịch chủ yếu trên thị trường vẫn bằng
tiếng phổ thông. Khi trao đổi hàng hóa, hầu hết người dân tộc thiểu số, đặc biệt
là bà con nông dân vẫn phải sử dụng tiếng Kinh.
Mặt hạn chế của thực tế này cũng ảnh hưởng lớn đến việc bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa các dân tộc.
Biến đổi về văn hóa vật thể
Cùng với biến đổi về ngôn ngữ, sự biến đổi văn hóa vật chất của các dân

tộc thiểu số dễ nhận thấy nhất là về kiến trúc nhà ở, trang phục và tập quán ăn
uống…
Về nhà ở: Trong vài chục năm trở lại đây, xuất hiện xu hướng trong đời
sống các dân tộc, đó là bỏ nhà sàn, làm nhà đất, nhà ngói, nhà tầng... như nhà
của người Kinh. Hoặc vẫn làm nhà sàn, nhưng có cải tiến. Hoặc trong một gia
đình, làm cả nhà đất và nhà sàn. Nhiều nơi, ngói hố nhà ở đã trên 50%. Nhiều
dân tộc thiểu số có tập qn làm nhà Rơng, nhà Gươi (nơi sinh hoạt văn hoá và
dạy nghề truyền thống của cộng đồng), nhưng giờ đây, tập quán đó đang bị thay
đổi.
Về trang phục: Việc chối bỏ trang phục truyền thống của dân tộc mình
từ lâu đã trở thành hiện tượng phổ biến của các dân tộc thiểu số, nhất là các dân
tộc sinh sống ở vùng thấp. Một số dân tộc và những người già vẫn sử dụng trang
phục truyền thống hàng ngày, một số khác, chỉ dùng trong những ngày lễ hội,
tết. Có nơi, trong ngày cưới, cả cơ dâu và chú rể đem theo một bộ trang phục
truyền thống, để trước lúc bước qua cửa nhà chồng (hoặc vợ) thì mặc vào khi
đứng trước bàn thờ tổ tiên (theo phong tục). Sau khi làm lễ trình diện trước bàn
thờ tổ tiên xong, họ lại thay âu phục. Nhiều đám cưới, cả cô dâu và chú rể đều
không sử dụng trang phục dân tộc, mà ăn mặc hoàn toàn theo lối “tây hóa”.
17


Cũng có trường hợp, do trao đổi hàng hố, nên trong trang phục có hiện
tượng ảnh hưởng giữa các dân tộc. Ví dụ, ở vùng Tây Bắc Việt Nam, trang phục
của nhiều dân tộc chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Thái. Biến đổi trong trang
phục có nhiều nguyên nhân. Chưa kể đến nguyên nhân tâm lý, kinh tế thị trường
đã đáp ứng nhu cầu trang phục truyền thống may sẵn bằng vải màu thay cho
may bằng vải dệt và thêu hoa văn truyền thống, giá cả rẻ hơn nhiều. Hơn nữa
trang phục như người Kinh cũng giản tiện, dễ mua bán.
Về ăn uống: Những năm gần đây, lĩnh vực này đã có sự thay đổi cơ bản.
Điều này được thể hiện qua các loại thực phẩm được chọn để tạo đồ ăn, thức

uống và cách chế biến cũng như tập tục ăn uống. Các cư dân Tày, Thái, trước
đây chủ yếu ăn xôi nếp, nay chuyển sang ăn cơm tẻ. Các loại gia vị và thực
phẩm công nghiệp, như mì chính, bột canh, mì ăn liền… ngày càng được dùng
phổ biến. Trong khi đó nhiều món ăn và một số loại bánh đã khơng cịn nữa,
hoặc chỉ xuất hiện trong những dịp lễ, tết.
Sự biến đổi này cũng có nguyên nhân do kinh tế phát triển, đời sống
đồng bào được nâng cao, nhất là về nhu cầu lương thực, thực phẩm. Kinh tế thị
trường đã tạo điều kiện cho sự trao đổi hàng hóa đa dạng hơn. Mặt khác, cũng
có sự tác động do mở rộng giao lưu giữa các dân tộc về mọi phương diện, dẫn
đến ảnh hưởng qua lại cả hai bên đối với nhiều lĩnh vực văn hóa trong đó có tập
quán ăn uống.
Biến đổi về văn hoá phi vật thể
So với văn hoá vật thể, sự biến đổi trong văn hoá phi vật thể diễn ra
tương đối chậm hơn. Tuy vậy, trước sự tác động của kinh tế thị trường và truyền
thơng tồn cầu, trong phong tục tập quán, lễ hội, văn học dân gian… đã có thay
đổi khá rõ nét.
Về phong tục tập quán: Nhiều hủ tục lạc hậu, có ảnh hưởng đến sản xuất
và sức khoẻ cộng đồng đã bị bãi bỏ dần dần . Nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp
được coi trọng và khuyến khích (ví dụ: tổ chức mừng thọ, cầu sức khoẻ cho

18


người già, mừng trẻ sơ sinh tròn ngày, đầy tháng… trở thành mối quan tâm
chung của cộng đồng làng bản.
Về văn hoá dân gian: Trước hết là các lễ hội dân gian. Các lễ hội này có
vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần các dân tộc thiểu số. Tổ chức
lễ hội là dịp sinh hoạt cộng đồng, có tác dụng giải toả tinh thần, gắn kết các
thành viên, đoàn kết trong họ, trong bản. Các dân tộc Việt Nam có rất nhiều lễ
hội. Ví dụ: hội hạn khuống của người Thái, hội pồn pôông (chơi hoa) của người

Mường, hội sản sán (còn gọi là gàu tào) của người Hmông, hội cầu mưa của
người Pà Thẻn, hội trở về cội nguồn của người Lơ Lơ, hội rng poọc của
người Giáy...
Gần đây, các lễ hội được khôi phục và tổ chức hàng năm, thu hút khá
nhiều dân tộc các bản làng đến tham dự. Nhưng đáng tiếc, có khá nhiều lễ hội
đã bị mất đi, hoặc khơng cịn nguyên ý nghĩa ban đầu của nó. Phần lớn các lễ
hội ngày càng bị đơn giản hoá và hiện đại hố, thậm chí là hội nào cũng na ná
giống nhau, ít hấp dẫn. Người trẻ biết rất ít về các lễ hội.
Có hiện tượng thâm nhập những yếu tố văn hố ngoại lai tiêu cực
ngồi ý muốn của cộng đồng đang làm xói mịn đi yếu tố truyền thống. Trước
1945, ở Việt Nam, chỉ một vài dân tộc thiểu số có chữ viết riêng, như: Thái,
Dao, Tày, Ê đê, Ba na... Còn hơn một nửa dân tộc thiểu số chưa có chữ viết. Vì
thế nền văn hố của các dân tộc chủ yếu là truyền miệng. Người già kể truyện
cổ tích, đọc thơ, kể sử thi cho con cháu nghe. Các tác phẩm văn học dân gian
được giữ gìn và lưu truyền theo con đường này.
Trong những thập kỷ gần đây, nhờ có sự phát triển của các phương tiện
thơng tin đại chúng, nhiều hình thức sinh hoạt văn hố mới, như: nghe đài, xem
phim, xem các chương trình truyền hình... đã trở thành nhu cầu phổ biến của đại
đa số cư dân. Việc sinh hoạt và trao truyền các giá trị văn hố như trước đây
khơng cịn hấp dẫn nữa. Lớp trẻ đã dần quen với những hình ảnh “chú mèo
máy Đô rê môn”, với “thuỷ thủ mặt trăng”, “chuột Mickey”... mà không thể biết

19


đến nàng Slao cải, chàng Báo luông và những nhân vật khác trong truyện cổ
tích của dân tộc mình.
Về các làn điệu dân ca: Mỗi dân tộc đều có những làn điệu dân ca riêng
của mình với nhiều bài hát khác nhau. Phần lớn là những bài ca trữ tình, ca ngợi
tình yêu quê hương đất nước, tình yêu nam nữ. Người Tày có then, lượn (lượn

slương, lượn cọi, lượn nàng ới), phong slư, phuối pác, phuối rọi, cò lẩu, vén
eng. Người Mường có thường rang. Người Hmơng có gầu phềnh. Người Dao
có páo dung. Người Sán Chay có slình ca. Người Sán Dìu có soọng cơ... Xưa
kia, hát dân ca, nhất là hát giao duyên và hát ru là khá phổ biến trong đời sống
hàng ngày. Nhưng ngày nay, các bài hát cổ truyền đã dần dần mai một, thậm chí
nhiều nơi, các chị khơng cịn biết hát ru nữa.
Ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên Việt Nam, trường ca (còn gọi sử
thi) là nét độc đáo trong văn học dân gian. Những trường ca được lưu truyền
bằng hình thức sinh hoạt đặc sắc là kể khan, thì giờ đây sinh hoạt kể sử thi hầu
như khơng cịn tồn tại trong đời sống thường ngày của cộng đồng dân tộc.
Nhiều người thường xuyên nghe hát dân ca qua máy thu thanh, hay xem ở các
chương trình truyền hình. Các cô gái, chàng trai người dân tộc thiểu số đến chợ
tình thường mang theo cassette (phiên âm là cát-xét) phát ra tiếng khèn, hay
những làn điệu dân ca tỏ tình, thay cho chính mình hát.
Về các loại nhạc cụ: Nhiều dân tộc có hàng chục loại nhạc cụ khác
nhau. Ví dụ người Khơ Mú có mbring, rbang, thằm đao đao, đàn mơi, pi
tơm, phi tot, tịn mu, tót mạ boi, ho rơ, sừng cum, brưng tnếch... Người Tây
Nguyên có dàn cồng chiêng - đã được công nhận di sản văn hoá thế giới. Các
loại nhạc cụ được phục vụ chủ yếu cho các hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng và cả
trong đời sống hàng ngày. Hiện nay, nhiều loại nhạc cụ dân tộc đã bị mai một,
người biết sử dụng nhạc cụ dân gian cũng ngày càng ít hơn. Sự tác động của
kinh tế thị trường cũng đã biến nhiều nhạc cụ dân tộc trở thành hàng hoá được
bày bán tại các quầy hàng phục vụ khách du lịch. Cịn những nhạc cụ hiện đại,
như ghi- ta, c-gan... đang dần thay thế các nhạc cụ dân gian.
20


Thực tế trên cho thấy q trình tồn cầu hóa và hội nhập đã và đang
tác động sâu sắc đến sự phát triển bền vững văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Về mặt tích cực, q trình đó đã tạo nên sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ chưa

từng có trong lịch sử đất nước nói chung. Kết quả khơng thể phủ nhận là văn
hóa của các dân tộc phong phú hơn. Trong văn hóa mỗi dân tộc đều in dấu ảnh
hưởng của văn hóa dân tộc khác. Điều đáng nói là sự biến đổi này hồn tồn tự
nguyện, khơng xảy ra xung đột văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực, sự xói mịn thậm chí nguy cơ mất đi giá trị và bản sắc văn hóa của các dân
tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số. Chính điều này đang làm giảm đa dạng
trong nền văn hóa quốc gia, văn hóa vùng, và sự phát triển bền vững văn hóa
các dân tộc.

21


3. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG QUAN TRỌNG TRONG BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ HIỆN NAY
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc người trong điều kiện hiện nay là
tạo điều kiện, khai thác những nhân tố nội lực của sự phát triển. Việt Nam cũng
như nhiều quốc gia, trong tiến trình đổi mới, hội nhập và phát triển của mình,
khơng thể khơng quan tâm đến phát triển văn hoá trong mối quan hệ với các
nước trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á. Có thể nói, chính ý chí chính
trị và sự thống nhất trong đa dạng văn hoá đang là điều kiện quan trọng, để một
nhóm nước có thể cùng nhau xây dựng một cộng đồng ổn định, hoà hợp, trong
quá trình hội nhập phát triển hiện nay.
Cần quán triệt những định hướng bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số trong giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất, vấn đề bảo tồn, phát triển văn hóa tộc người cần phải xuất
phát từ nhận thức về vai trò của văn hóa trong q trình phát triển. Văn hóa phải
được xác định là trụ cột quan trọng sau kinh tế, môi trường và xã hội. Mọi sự
phát triển phải vì con người, cho nên phát triển phải được định hướng bằng giá
trị. Điều đó cũng đồng nghĩa với vai trị của văn hóa là hệ điều tiết đối với phát
triển xã hội.

Nghiên cứu bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số để phát huy
vai trò giá trị văn hóa các tộc người là hệ điều tiết, mục tiêu, động lực của sự
phát triển các tộc người, phát triển quốc gia.
Thứ hai, bảo tồn, phát triển văn hóa các tộc người là nhiệm vụ quan
trọng trong quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
bản sắc. Các dân tộc cùng chung sống trên đất nước ta đều có những giá trị và
sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong
phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ
vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em
(Nghị quyết Trung ương 5 - khóa VIII). Đây cũng là định hướng quan trọng của
thế giới về thực hiện thống nhất trong đa dạng của phát triển văn hóa.
22


Thứ ba, Phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải trên cơ sở quan
điểm lý luận về phát triển bền vững văn hóa, phát triển bền vững văn hóa tộc
người. Tức phát triển có thể đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không ảnh
hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Những nghiên cứu gần đây của Việt Nam đã đưa ra 5 chỉ báo cho phát triển bền
vững về văn hóa tộc người:
- Chấp nhận đa dạng văn hóa;
- Giữ gìn ngơn ngữ tộc người;
- Giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người;
- Ý thức tự giác tộc người;
- Văn hóa góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Những tiêu chí này được xem là bộ công cụ để đánh giá mức độ phát
triển bền vững của văn hóa tộc người gắn với một khơng gian, mơi trường cụ
thể.
Thứ tư, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải gắn với môi trường
tự nhiên và xã hội. Văn hóa mỗi tộc người được hình thành và phát triển trong

những môi trường tự nhiên và xã hội nhất định, nếu mơi trường đó bị hủy hoại
thì văn hóa khó có thể phát triển lành mạnh. Quá trình hiện đại hóa đất nước đã
làm thay đổi mơi trường tự nhiên và xã hội của các dân tộc một cách cơ bản mà
chiều hướng tiêu cực đang lấn át. Vấn đề là phải tạo dựng môi trường cho phù
hợp, nhân dân phải thực sự là người làm chủ trong q trình phát triển. Phải có
sự đồng bộ trong xây dựng và thực thi hệ thống chính sách phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội phù hợp đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững văn hóa tộc người.

23



×