Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

TIỂU LUẬN: Phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong lĩnh vực hải quan doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.12 KB, 24 trang )



1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ……………………







TIỂU LUẬN

Phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
trong lĩnh vực hải quan




















2
LỜI NÓI ĐẦU

Hoạt động phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Hải quan là
một khâu công tác nghiệp vụ của quy trình thủ tục hải quan, tiến hành kiểm tra mẫu
hang hóa bằng nghiệp vụ kỹ thuật trong Phòng thí nghiệm hải quan, nhằm xác định
chính xác tên hang, mã số của hang hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo Biểu thuế xuất
khẩu, Biểu thuế nhập khẩu và theo Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa ( gọi
tắt là Danh mục HS ).
Việc xác định đúng mã số thuế hàng hóa trong quá trình làm thủ tục hải quan đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu luôn có một vai trò quan trọng đặc biệt. Nó giúp
cho cơ quan hải quan ( kết hợp với các yếu tố về giá, về số lượng, trọng lượng, xuất xứ
của hàng hóa ) xác định đúng số thuế phải nộp, xác định hàng hóa đó có vi phạm chính
sách quản lý nhà nước hay không; kết hợp với kết luận kiểm tra của cơ quan quản lý
nhà nước về chất lượng chuyên ngành khác xác định được hàng hóa đó có đáp ứng
được các yêu cầu về chất lượng không, đảm bảo chính xác hơn số liệu thống kê hải
quan theo cơ cấu mặt hàng.
Tuy nhiên việc xác định đúng tên hàng, mã số thuế trong biểu thuế xuất khẩu,
nhập khẩu của hàng hóa xuất nhập khẩu luôn là vấn đề khó khăn nhất đối với những
mặt hàng có tính chất phức tạp như hóa chất, thực phẩm, các mặt hàng công nghệ cao
mới xuất hiện trên thị trường. Đối với những mặt hàng như vậy thì việc nắm vững các
qui tắc phân loại hàng hóa theo công ước HS hoặc của pháp luật về thuế chưa đủ mà
phải biết được tính chất hóa lý, thành phần cấu tạo… của hàng hóa thì mới có thể xác
định được đúng mã số hàng hóa theo HS cũng như theo Biểu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu. Những phân tích như vậy chỉ có thể thực hiện được thông qua công tác phân tích
hàng hóa bằng các phương tiện máy móc chuyên dùng. Các Trung tâm phân tích phân

loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu miền Bắc, miền Trung, miền Nam được thành lập
theo Quyết định 32/2003/QĐ/BTC, ngày 17/3/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính đã
giải quyết được một phần lớn khó khăn trong công tác này.


3
Với thực trạng hiện nay, kim ngạch XNK của Việt Nam tăng bình quân từ 13%
đến 16% năm. Tổng kim ngạch XK hàng hóa và dịch vụ tới năm 2010 sẽ đạt khoảng
58 tỷ USD. Tổng kim ngạch nhập khẩu và dịch vụ tới năm 2010 là 57,14 tỷ USD, các
hoạt động XNK và xuất nhập cảnh tăng lên phong phú và đa dạng. Theo đó, các thủ
đoạn buôn lậu gian lận thương mại cũng tinh vi và phát triển lên rất nhiều.
Một trong các công cụ rất có hiệu lực, hiệu quả của ngành Hải quan sử dụng
nhằm phát hiện, ngăn chặn và góp phần giảm bớt các hiện tượng gian lận thương mại,
tránh thất thu thuế cho nhà nước là hoạt động phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu trong ngành Hải quan.
Các Trung tâm phân tích phân loại đã hỗ trợ đắc lực, thực sự trở thành một địa chỉ
đáng tin cậy cho Hải quan địa phương trong công tác kiểm tra thực tế hàng hóa và đã
tham mưu trách nhiệm, tích cực, có chất lượng trong việc phân loại mã số hàng hóa
xuất khẩu. nhập khẩu. Các Trung tâm còn góp phần chấn chỉnh lại một số kết quả giám
định không chính xác và trở thành đối trọng với các đơn vị giám định khác.

















4
A- TÌNH HUỐNG
Xử lý tình huống Công ty TNHH Thương mại Việt Thắng khiếu nại Chi cục Hải
quan AH áp mã thuế nhập khẩu Gạch lát nền bằng bột đá ép.
I.Hoàn cảnh ra đời
Tình huống xảy ra năm 2008 liên quan tới vấn đề áp mã số thuế nhập khẩu vật liệu
xây dựng của Công ty TNHH Thương mại Việt Thắng.
II. Diễn biến tình huống
Ngày 12/04/2008 Trung tâm phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Miền Bắc nhận được yêu cầu phân tích phân loại 01 mặt hàng nhập khẩu theo khai
báo là Gạch lát nền bằng bột đá ép của chi cục Hải quan AH miền Bắc thuộc tờ khai
204/NK/KD/AH ngày 2/3/2008 do công ty TNHH thương mại Việt Thắng nhập khẩu
với mã số thuế hàng hóa tự khai báo là 6810.19.10 với thuế suất 30%.
Trung tâm đã tiến hành phân tích xác định các thông số kỹ thuật của mẫu gạch
trên, so sánh đối chiếu với các mẫu gạch thực tế sản xuất được trong nước kết luận
mẫu phân tích là Gạch lát nền bằng gốm Granit. Do có sự sai khác giữa khai báo của
chủ hàng với kết quả phân tích phân loại nên Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc
đã gửi mẫu trên đến Viện khoa học Công nghệ vật liệu xây dựng – Bộ Xây dựng để
trưng cầu giám định thêm. Ngày 04/05/2008 Viện KHCN Vật liệu xây dựng đã kết
luận :
1. Các chỉ tiêu cơ lý
STT

Tên ch

ỉ ti
êu

Đơn v


K
ết luận

Ghi chú

1

Đ
ộ cứng

Mohs

7


2

Đ
ộ hút n
ư
ớc

%


3,2


3

Nhi
ệt độ nung

o
C

1000


2.Nhận xét
- Mẫu gạch đã được nung đến nhiệt độ 100
o
C song không bị phá hủy, chứng tỏ
gạch không có liên kết bằng xi măng pooclăng hay chất hữu cơ.


5
- Độ cứng bề mặt tốt ( 7Mohs ) tương đương độ cứng đá thạch anh.
- Độ hút nước còn khá lớn ( 3,2% ) tuy nhiên với độ hút nước này gạch đã kết
khối.
 Kết luận : Qua các chỉ tiêu kỹ thuật đã xác định cho thấy mẫu gạch là loại gạch
gốm Granit đã nung tới nhiệt độ kết khối, bề mặt gạch được mài và đánh bóng. Mẫu
gạch không phải là gạch bột đá ép không nung.
Căn cứ vào các kết quả phân tích trên ngày 20/05/2008 Trung tâm phân tích phân
loại miền Bắc đã ra Thông báo kết quả phân tích phân loại hàng hóa số

3264/TCHQ/PTPLMB gửi chi cục Hải quan AH miền Bắc với nội dung như sau : Mẫu
phân tích phân loại là gạch lát nền bằng gốm Granit, đã nung tới nhiệt độ kết khối, bề
mặt gạch được mài và đánh bóng, mã số thuế 6907.90.10 với thuế suất 50%.Chi cục
Hải quan AH miền Bắc đã ra quyết định truy thu thuế với lô hàng nhập khẩu trên.
Doanh nghiệp không đồng ý với quyết định trên nên đã gửi đơn khiếu nại lên Cục Hải
quan AH miền Bắc, lên Tổng cục Hải quan, lên Bộ Tài chính về việc áp mã tính thuế
lô hàng Gạch lát nền bằng bột đá. Trong đơn khiếu nại doanh nghiệp có gửi kèm các
chứng thư giám định của các cơ quan giám định khác do doanh nghiệp tự đi trưng cầu
như sau :
a.Chứng thư giám định về chủng loại số 245/NĐ/2008E ngày 21/04/2008 của
HAVICONTROL :
Theo yêu cầu của công ty TNHH Thương mại Việt Thắng, chúng tôi
HAVICONTROL đã tiến hành xác định chủng loại của 01 viên gạch lát nền kích thức
(20x10) cm có dán niêm phong bằng giấy của chi cục Hải quan AH miền Bắc ký ngày
08/04/2008 ( do khách hàng đem đến ). Căn cứ kết quả kiểm tra thực tế và quy trình
sản xuất gạch Granit, chúng tôi xác định rằng :
- Viên gạch ốp lát (20x10)cm nêu trên được làm từ bột đá ép có nhuộm màu và
được qua công đoạn mài bóng bề mặt.
- Mã số thuế theo Quyết định số 110/2003/QĐ/BTC của Bộ Tài chính ban hành
ngày 25/07/2007 : 6810.19.10


6
b. Chứng thư của Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật số 132/KT2/K4-TBKQ , ngày
04/06/2008 :
 Kết quả thử nghiệm
TT

Tên ch
ỉ ti

êu

Đơn v
ị tính

Phương pháp

K
ết luận

1

Kích thư
ớc





+ Chi
ều d
ài

mm

TCVN 6074 : 1995

600



+ Chi
ều rộng

mm


600


+ Chi
ều d
ày

mm


9,4

2

Đ
ộ hút n
ư
ớc

%

TCVN6355
-
3: 1995


0,078

3

Đ
ộ cứng

Mohs

TCVN 6415 : 1998

7

4

Đ
ộ bền hóa với dung
dịch axit HCl 5%

TCVN 6415 : 1998

K
hông b
ị phá hủy

5

Kh
ả năng chịu nhiệt

nung ở t
o
= 1000
o
C


Không b
ị biến dạng

6

Thành ph
ần hóa





+ SiO
2

%


65,92


+ Al
2

O
3

%


20,87

7

Đ
ộ m
ài mòn

g/cm
2

TCVN 6065 : 1995

0,30


 Sau khi tiến hành thử nghiệm các chỉ tiêu kỹ thuật của mẫu gạch nói trên, Trung
tâm Dịch vụ kỹ thuật xin thông báo như sau :
- Qua quan sát bằng trực quan cho thấy mẫu gạch được kiểm tra là loại đá ốp lát
nhân tạo qua ép tạo hình và qua nung.
- Kết quả các chỉ tiêu đã kiểm tra cho thấy mẫu được nung kết khối rắn chắc và
không phải là đá bột ép chưa qua nung.



7
- Kết quả phân tích thành phần khoáng cho thấy thành phần chủ yếu của gạch là
SiO
2
và khoáng ( 3Al
2
O
3
.SiO
2
) đã hình thành trong quá trình nung tạo ra liên
kết bền vững và có độ cứng bề mặt cũng như độ bền cơ học cao.
 Kết luận : Mẫu gạch đá lát nền đã được kiểm tra có kích thước (600x600)mm
không phải là đá Granit tự nhiên. Đây là mẫu đá Granit nhân tạo. Thuộc nhóm mã
hàng 6810.19.10 theo Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ban hành ngày 25 tháng 7
năm 2003.
Đơn khiếu nại cùng các chứng thư trên đã được Lãnh đạo Bộ Tài chính và Lãnh
đạo Tổng cục Hải quan chuyển cho Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc kiểm tra,
nghiên cứu, báo cáo và đề xuất Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục Hải quan hướng giải
quyết.
B. PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
I/ Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Hiện nay, có 3 loại hình hoạt động cơ bản liên quan trực tiếp đến việc phân tích
xác định bản chất hàng hóa XNK, đó là hoạt động giám định thương mại, hoạt động
kiểm tra chất lượng nhà nước đối với hàng hóa NK, hoạt động phân tích phân loại
hàng hóa của Hải quan. Ở đây có một số điểm đáng lưu ý như sau :
- Các tổ chức giám định thương mại chủ yếu phục vụ cho mục đích thương mại,
các đơn vị sự nghiệp kỹ thuật chủ yếu phục vụ cho mục đích quản lý chuyên
ngành của các Bộ, ngành. Các tổ chức giám định, đơn vị kiểm tra hàng hóa
chuyên ngành đều không có chức năng phân loại áp mã số hàng hóa XK, NK

theo Danh mục HS và Biểu thuế XK, NK.
- Một số chứng thư giám định không đáp ứng được yêu cầu phục vụ việc phân
loại, áp mã số hàng hóa của cơ quan hải quan, thậm chí có cả những chứng thư
không bảo đảm tính khách quan, trung thực hoặc hàng hóa bị từ chối giám định
với nhiều lý do khác nhau.Chức năng của hoạt động phân tích phân loại của Hải
quan là xác định tên và mã số hàng hóa theo hệ thống HS và Biểu thuế trên cơ
sở kết quả phân tích hàng hóa trong phòng thí nghiệm hải quan.


8
Tuy nhiên, trước kia các cơ quan Hải quan thường căn cứ vào chứng thư giám
định về thành phần, bản chất, tính năng, thông số kỹ thuật của các cơ quan bên ngoài
để tiến hành phân loại áp mã hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu. Hiện nay, tuy đã có các
Trung tâm phân tích phân loại hải quan nhưng trong thực tế các Trung tâm phân tích
phân loại cũng không thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu giám định phục vụ cho công
tác quản lý nhà nước của ngành Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cho
nên trong Luật Hải quan sửa tại khoản 4 điều 27 quy định : Lấy mẫu hàng hóa với sự
có mặt của người khai hải quan để cơ quan hải quan phân tích hoặc trưng cầu giám
định phục vụ kiểm tra hàng hóa; sử dụng kết quả phân tích, kết quả giám định để xác
định mã số và chất lượng hàng hóa. Như vậy theo Luật Hải quan cơ quan Hải quan các
địa phương sẽ là người quyết định kết quả phân loại áp mã đối với hàng hóa XNK và
tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình sau khi tham khảo kết quả giám định.
Chính vì vậy, những bất đồng trong hoạt động phân loại áp mã đối với hàng xuất
nhập khẩu giữa cơ quan Hải quan với các doanh nghiệp hoặc giữa các cơ quan hải
quan trong ngành là lẽ đương nhiên, đây cung là nguồn gốc phát sinh những vụ việc
khiếu kiện về phân loại áp mã hàng hóa giữa doanh nghiệp và các cơ quan Hải quan.
Đối với vụ việc Gạch lát nền bằng bột đá ép trên do có các kết luận khác nhau về
mã số thuế giữa các cơ quan giám định cho nên chúng ta phải xem xét đánh giá một
cách khách quan trên cơ sở các căn cứ khoa học và các văn bản qui phạm pháp luật
hiện hành đảm bảo tính công khai, công bằng, đúng pháp luật.

II. Cơ sở lý luận
Thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế
khác nhau, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, Việt nam đã có quan hệ
thương mại với nhiều nước trên Thế giới thông qua các Hiệp định song phương, đa
phương. Có thể nói, hiện nay tại các cửa khẩu hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam
từ nhiều nước, nhiều vùng khác nhau trên Thế giới, rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã,
đa tính năng sử dụng trên một sản phẩm. Vì vậy, phân tích phân loại hàng hóa nhập
khẩu trở nên phức tạp, khó khăn hơn nếu việc kiểm tra thực tế hàng hóa chỉ bằng


9
phương pháp trực quan. Là lực lượng “Gác cửa nền kinh tế” với nhiệm vụ thực hiện
kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải, phòng chống buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu ( Điều 11 – Luật Hải quan ) đòi hỏi nghành Hải quan phải lỗ lực
phấn đấu nâng cao năng lực, hiệu quả về phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu để thu đúng, thu đủ các loại thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, đảm bảo nguồn thu
cho ngân sách, chống gian lận thương mại qua áp mã; ngăn chặn, phát hiện kịp thời
hàng hóa cấm nhập khẩu, đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Từ yêu cầu thực tiện khách quan, chủ quan, công tác phân tích phân loại hàng hóa
xuất nhập khẩu đã được coi là công cụ nghiệp vụ quan trọng, có tính đột phá trong xây
dựng lực lượng Hải quan hiện đại, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của ngành và góp
phần thực hiện những cam kết mà Việt Nam đã ký kết về Công ước HS của Tổ chức
Hải quan Thế giới ( WCO ). Chính vì vậy, Quốc hội Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng
cục Hải quan thực sự quan tâm, tạo điều kiện cho hoạt động phân tích phân loại hàng
hóa xuất khẩu với những hệ thống quy định pháp luật có tính pháp lý cao như :
- Điều 27, 72 Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29/06/2001.
- Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001.
- Nghị định 06 /2003/NĐ-CP ngày 22/12//01/2003 của Chính phủ.

- Thông tư số 85/2003/TT-BTC ngày 29/08/2003 của Bộ Tài chính.
- Quyết định số 32/2003/QĐ-BTC ngày 17/03/2003 của Bộ Tài chính quy địn về
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Trung tâm PTPL
hàng hóa XNK.
- Quyết định số 710/2003/QĐ-TCHQ/PTPL ngày 03/06/2003 ban hành quy chế
PTPL hàng hóa XNK trong ngành Hải quan.
- Quyết định số 1711/2003/QĐ-TCHQ ngày 18/12/2003 ban hành quy chế phối
hợp giữa các đơn vị trong ngành Hải quan về việc thực hiện phân loại hàng hóa
XK, NK.


10
- Luật Hải quan đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005.
- Các văn bản hướng dẫn PTPL hàng hóa XNK của Tổng cục Hải quan.
III. Phân tích tình huống
Sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ trên thế giới đã tạo ra nhiều chủng loại
hàng hóa mới với nhiều tính năng, trong khi trình độ của cán bộ hải quan cũng như cơ
sở vật chất phục vụ cho việc giám định hàng hóa chưa theo kịp cùng nhiều nguyên
nhân khách quan, chủ quan khác khiến cho công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất
nhập khẩu còn nhiều bất cập. Những bất cập chính trong công tác phân tích phân loại
hàng hóa hiện nay như sau :
- Tình trạng một mặt hàng được phân loại vào các mã số khác nhau ở các chi cục
hải quan khác nhau hoặc ở các hải quan địa phương khác nhau vẫn còn tồn tại và
rơi vào nhiều mặt hàng ( chẳng hạn mặt hàng biến điện áp loại cao thế, màn hình
dẹt, chất tạo hương cho thực phẩm … ).
- Cùng một mặt hàng nhưng kết quả giám định của các cơ quan giám định hàng
hóa không thống nhất dẫn đến kết quả phân loại khác nhau, gây khiếu kiện kéo
dài từ phía doanh nghiệp. Một số cơ quan giám định hàng hóa chưa làm tốt chức
năng giám định, cá biệt có trường hợp có biểu hiện giám định theo “đặt hàng”
của doanh nghiệp.

- Đối với mặt hàng khó phân biệt giữa dược phẩm và mỹ phẩm, giữa dược phẩm
và chất bổ dưỡng thường phát sinh tranh chấp giữa cơ quan hải quan và đối
tượng nộp thuế. Tình trạng này cũng diễn ra phổ biến đối với các mặt hàng hóa
chất, giấy, sắt thép… Đối với, các mặt hàng dược phẩm, tình trạng áp mã chưa
thống nhất một phần cũng do việc xác nhận của Bộ Y tế chưa nhất quán. Chẳng
hạn, như trường hợp viên sủi HASS và viên PLUS có thành phần tương tự
nhưng viên sủi PLUS được Cục Dược – Bộ Y tế xác nhận là dược phẩm, còn
viên sủi HASS lại được Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm xác nhận là thực phẩm.


11
Có rất nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khiến cho công tác phân tích
phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập. Chúng ta có thể đề cập
đến một số nguyên nhân cơ bản sau :
- Trong Biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam hiện nay còn có nhiều mức thuế suất
khác nhau trong một nhóm hàng do nhu cầu bảo hộ khác nhau, chênh lệch giữa
các mức thuế trong biểu thuế còn rất lớn làm cho các doanh nghiệp luôn tìm
cách gian lận trong khai báo. Một số mặt hàng vẫn được phân theo mục đích sử
dụng ( chẳng hạn loại sử dụng trong gia đình hay không sử dụng trong gia đình
…. ), đây cũng là một khó khăn cho công tác phân tích phân loại.
Trong vụ việc Gạch lát nền bằng bột đát ép trên nguyên nhân của việc khiếu kiện
cũng là do chênh lệch mức thuế của nhóm hàng gạch lát nền qua lớn như mã số thuế
681019.10 có thuế suất 30%, còn mã số thuế 6907.90.10 có thuế suất 50% ( so sánh
Thái Lan là nước trong nhóm các nước ASEAN trong biểu thuế XNK chỉ còn chủ yếu
2 mức thuế là 0% và 5% ).
- Việc biên dịch, phát hành các tài liệu, chú giải giải thích của Danh mục HS còn
chưa chính xác, đầy đủ, kịp thời gây khó khăn cho công tác phân tích phân loại
hàng hóa XNK.
- Hệ thống thông tin nối mạng trong toàn ngành Hải quan còn chưa có dẫn đến
các thông tin về kết quả phân tích phân loại chưa được trao đổi, cập nhật giữa

các chi cục Hải quan các điạ phương.
- Việc phối hợp giữa các Bộ, ngành, giữa các Trung tâm phân tích phân loại Hải
quan với các đơn vị giám định thương mại, các đơn vị sự nghiệp kỹ thuật
chuyên ngành còn chưa tốt trong hoạt động phân tích phân loại hàng hóa XNK.
- Chưa xây dựng được phương pháp chuẩn thống nhất toàn quốc để làm cơ sở so
sánh đối chiếu kết quả phân tích mẫu hàng khi có khác nhau về kết quả giám
định hàng hóa XNK. Việc này cần có sự chủ trì của Bộ Khoa học công nghệ
nòng cốt là Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường Chất lượng.


12
- Cần nâng cao trình độ về thương phẩm học, về kiến thức phân loại hàng hóa
theo HS, về các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân tích
phân loại hàng hóa cho các công chức hải quan làm nhiệm vụ kiểm tra thực tế
hàng hóa XNK.
IV. Phương án giải quyết
Sau khi nhận được đơn khiếu nại và chứng thư giám định liên quan đến vụ Gạch
lát nền bằng bột đá ép Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc đã xem xét kiểm tra lại
các kết quả phân tích mẫu, tiến hành thu nhập các mẫu gạch lát nền bằng bột đá ép sản
xuất trong nước cùng các tài liệu kỹ thuật, so sánh mẫu phân tích với các mẫu thu thập
được, đã kết luận kết quả phân tích phân loại của Trung tâm hoàn toàn chính xác.
Thực hiện sự chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tài chính và Lãnh đạo Tổng cục Hải quan
về việc trả lời đơn khiếu nại số 56/KN/BĐ ngày 26/12/2008 đối với mặt hàng Gạch lát
nền bằng bột đát ép thuộc tờ khai hải quan số 204/NK/KH/AH của công ty TNHH
Thương mại Việt Thắng, trong nội dung đơn có đề cập đến việc lấy mẫu và giám định
mẫu của cơ quan Hải quan và nguyên tắc áp mã hàng hóa để tính thuế. Trung tâm phân
tích miền Bắc đã tiến hành các bước giải quyết như sau :
Bước 1 : Về vấn đề phân tích, phân loại cho mẫu hàng theo khai báo Gạch lát nền
bằng bột đá ép thuộc tờ khai hải quan số 204/NK/KH/AH của công ty TNHH Thương
mại Việt Thắng và một số sự khác biệt giữa các thông báo kết quả phân tích phân loại

của các tổ chức giám định với thông báo kết quả của Trung tâm phân tích phân loại
miền Bắc, Trung tâm đã có công văn số 3986/TCHQ/PTPLMB ngày 25/08/2008 trình
Lãnh đạo Tổng cục Hải quan và gửi Vụ GSQL, cục Hải quan AH miền Bắc, chi cục
Hải quan Ah miền Bắc, Tổng cục Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng, Havicontrrol
và Viện Khoa học Vật liệu Xây dựng biết để phối hợp.
Nội dung Công văn như sau :
1.Về kết quả phân tích và phân loại áp mã hàng hóa
- Qua phân tích mẫu hàng nêu trên, kết quả của Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật, của Viện
Vật liệu Bộ Xây dựng và của Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc đều thống nhất


13
kết luận : mẫu hàng là loại sản phẩm đã được nung kết khối rắn chắc và không phải là
đá bột ép chưa qua nung. Tuy nhiên tịa chứng thư 245 nêu trên ; HVICONTROL lại
chỉ kết luận gạch này “được làm từ bột đá ép có nhuộm màu và được qua công đoạn
mài bón bề mặt” xin đề nghị Havicontrol xem xét lại kết luận này.
- Về phân loại áp mã số hàng hóa, cả Havicontrol và cả Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật
tuy có kết quả phân tích khác nhau; nhưng lại kết luận giống nhau về mã số hàng là
6810.19.10; Trong khi đó, Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc lại phân lọai mặt
hàng này vào mã số 6907.90.10.
Việc phân loại hàng hóa phải căn cứ vào Biểu thuế xuất nhập khẩu ban hành theo
Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC của Bộ Tài chính và chú giải HS. Trong trường hợp
cụ thể này, Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc đã dựa vào các căn cứ sau :
+ Mẫu gạch này đã được qua nung kết khối rắn chắc và khi giám định, mẫu đã được
nung tới 1000
o
C mà không bị phá hủy và không biến dạng. Về mặt lý thuyết, quá trình
nung là quá trình gia nhiệt phải đạt tới nhiệt độ bằng hoặc lớn hơn 800
o
C; sau khi

nung, các hạt bao lấy nhau do kết quả của quá trình khuyếch tán, biến đổi hóa học hoặc
chảy lỏng một phần, tạo ra liên kết bền vững và có độ cứng, độ bền cơ học cho mẫu.
+ Chú giải chương 68 của HS ( bản Tiếng Anh, phiên bản 2002, trang 1112 ) và của
Biểu thuế quy định : loại trừ ra khỏi chương 68 các sản phẩm từ đất đá đã qua quá
trình nung sau khi tạo hình ( ví dụ như các mặt hàng gốm sứ), những sản phẩm đó
phải xếp vào chương 69 ( trừ các sản phẩm được làm từ gốm dùng cho mục đích mài
mòn, cắt, đánh bóng…thuộc nhóm 68.04).
+ Chú giải chương 69 của HS ( bản Tiếng Anh, phiên bản 2002, trang 1112 ) và của
Biểu thuế quy định : chương này áp dụng đối với các sản phẩm gốm sứ đã qua quá
trình nung sau khi tạo hình dạng( trừ sản phẩm thuộc nhóm 68.04). Như vậy, quá trình
nung sau khi tạo hình sản phẩm là đặc trưng cơ bản để phân biệt hàng hóa thuộc
chương 69 với hàng hóa thuộc chương 68.
+ Nhóm 69.07 là những sản phẩm được làm từ gốm sứ ( tức là các sản phẩm đã qua
quá trình nung sau khi tạo hình dáng).


14
+ Nhóm 68.10 quy định đối với những mặt hàng được làm từ đá nhân tạo, giả đá tự
nhiên được tạo ra bằng cách kết khối các phần đá tự nhiên dạng khối, cục hay bột đá tự
nhiên ( như đá vôi, đá cẩm thạch…) bằng vôi, xi măng hoặc các chất kết dính khác như
plastic; sản phẩm thuộc nhóm này được tạo ra bằng phương pháp nung, tuy nhiên
nhóm này cũng bao gồm các sản phẩm gạch lát được làm từ hỗn hợp dạng vữa bao
gồm cát, vôi tôi và nước, qua quá trình ép thành khuôn, sau đó được đưa qua lò sấy ở
nhiệt độ khoảng 140
o
C việc sử dụng quá trình gia nhiệt chỉ ở nhiệt độ 140
o
C đối với
các sản phẩm ở nhóm mặt hàng 68.10 chỉ nhằm mục đích làm bay hơi các chất lỏng,
thoát các chất khí hoặc làm tăng nhanh quá trình đóng rắn, không phải là quá trình

nung như đã nêu trên đây.
Với những căn cứ đó, Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc xác định mã hàng là
6907.90.10. Việc Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật, HAVICONTROL phân loại mặt hàng
nêu trên vào chương 68 ( mã 6810.19.10 ) là không phù hợp với quy định HS, của
Biểu thuế về phân loại đối với mặt hàng này và không đúng với bản chất của mặt hàng.
2.Về chức năng phân loại áp mã số hàng hóa :
Tại Công văn số 109 /TĐC-THPC ngày 12/02/2006 của Tổng cụ Tiêu chuẩn Đo
lường Chất lượng về việc áp mã HS cho hàng hóa đã nêu rõ : “ Việc áp mã HS để tính
thuế đối với hàng hóa nhập khẩu không thuộc chức năng của các Trung tâm kỹ thuật
và các chi cục TCĐLCL” và “Khi cấp kết quả kiểm tra hàng hóa, các đơn vị không xác
định mã số HS hàng hóa, kể cả đề xuất ý kiến có tính chất tham khảo “ ( trích nguyên
văn ). Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật đưa ra mã số nêu trên đây của mặt hàng này là
không phù hợp với qui định của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng.
Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc gửi kèm theo đây các văn bản liên quan,
xin đề nghị Quý cơ quan xem xét lại các vấn đề trên đây và mong tiếp tục nhận được
sự công tác.
Bước II : Ngày 05/01/2009 Trung tâm đã viết tờ trình xin làm rõ thêm những vấn
đề được nêu tại đơn khiếu nại số 56/KN/BĐ ngày 26/12/2008 của Công ty TNHH


15
Thương mại Việt Thắng và trình bảy quan điểm của mình xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh
đạo Bộ và Lãnh đạo Tổng cục Hải quan như sau :
a. Trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi năm 2003 ban hành theo Quyết định
110/QĐ/BTC có chi tiết như sau :
69
07.10

-


G
ạch lát, khối v
à các s
ản phẩm t
ương t
ự dạng chữ nhật hoặc dạng khác,
mà diện tích bề mặt lớn nhất của nó có thể nằm gọn trong hình vuông có
cạnh dưới 7cm
6907.90

-

Lo
ại khác

Căn cứ vào nội dung chi tiết của nhóm 69.07 thì phân nhóm 6907.90 là các mặt hàng
tương tự nhưng có diện tích bề mặt lớn nhất của nó không thể nằm gọn trong hình
vuông có cạnh dưới 7cm (70mm). Như vậy, “ Gạch công ty TNHH Thương mại Việt
Thắng nhập khẩu có kích cỡ 600x600mm” không thể là mặt hàng nằm gọn trong hình
vuông có cạnh dưới 70mm và do đó thuộc mã số thuế 6907.90.10 ( Gạch ốp, lát tường,
sàn nhà, lò sưởi ).
Việc công ty cho rằng mã 6907.90.10 “là gạch mà có diện tích bề mặt lớn nhất của
nó có thể nằm gọn trong hình vuông có cạnh dưới 7cm” là hiểu sai qui định của Biểu
thuế nhập khẩu.
b. Tên hàng “ Gạch lát nền 600x600 mm bằng đá Granit nhân tạo” do các cơ quan
giám định kết luận, mà công ty TNHH Thương mại Việt Thắng dẫn trong đơn khiếu
nại chưa đủ cơ sở để phân loại áp mã theo biểu thuế vì các lý do sau đây :
- Các khối đá lớn được xẻ thành các tấm, lát, sau đó mài đánh bóng sử dụng để ốp lát
được gọi là Gạch lát nền bằng đá Granit tự nhiên, loại này được xếp vào nhóm
6802.23

Các mảnh vụn, bột đá Granit thu được từ quá trình khai thác và chế biến được đem
xay, nghiền thành bột dùng để sản xuất 2 loại sản phẩm sau :
- Gạch lát nền bằng bột ép từ Granit không nung : Sản phẩm này thu được bằng
cách trộn bột đá Granit với một số chất kết dính như vôi, xi măng…đem đúc
khuôn, ép hoặc phương pháp ly tâm. Loại gạch này được xếp vào nhóm 6810.


16
- Gạch lát nền bằng bột ép từ Granit đã nung đến nhiệt độ kết khối ( khoảng
100
o
C ) – Loại gạch này còn được gọi là Gạch lát nền bằng gốm Granit và được
xếp vào nhóm 69.07
Như vậy, tên hàng “Gạch lát nền 600x600 mm bằng đá Granit nhân tạo” mà công ty
viện dẫn chưa đủ thông tin để xác định mặt hàng này thuộc loại nào trong ba loại trên
và rất khác với tên hàng do chính chủ hàng tự khai báo : “ Gạch lát nền 600x600 mm(
bằng bột đá ép )”.
c. Chức năng, tư cách của Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc được qui định
tại khoản 2.2, điều 2, mục III, phần B, của Thông tư số 85/2003/TT-BTC ngày
29/08/2003 Hướng dẫn thực hiện việc phân loại hàng hóa theo Biểu thuế nhập
khẩu ưu đãi, Biểu thuế xuất khẩu như sau :
- Trường hợp có căn cứ cho rằng việc phân loại của người khai hải quan không chính
xác nhưng Chi cục Hải quan cũng không có khả năng phân loại thì đề nghị Trung tâm
phân tích phân loại hàng hóa trực thuộc Tổng cục Hải quan thực hiện việc phân loại
hàng hóa. Thủ tục trưng cầu Trung tâm phân tích phân loại thực hiện theo Quy chế
phân tích, phân loại hàng hóa do Tổng cục Hải quan ban hành”.
Điểm b, c điều 9, nghị định 101/2001/NĐ-CP qui địn chi tiết thi hành một số điều
của Luật Hải quan qui định quyền của người khai hải quan như sau :
- Trường hợp người khai hải quan không nhất trí kết quả kiểm tra, phân tích hoặc
giám định do cơ quan hải quan kết luận thì được lựa chọn một cơ quan, tổ chức

giám định chuyên ngành khác giám định lại và phải trả phí giám định.
- Khi chưa có kết quả giám định lại, kết luận lần đầu là cơ sở để cơ quan Hải quan
căn cứ, làm thủ tục hải quan, khi có kết quả giám định lại, cơ quan Hải quan căn
cứ kết quả giám định lại để làm thủ tục hải quan hàng hóa.
Do không đồng ý với kết quả phân tích phân loại của Trung tâm phân tích phân loại
miền Bắc, theo điểm b, điều 9 nghị định 101/2001/NĐ-CP doanh nghiệp đã đi trưng
cầu tái giám định ở 2 cơ quan khác nhau và 2 kết quả tái giám định này không giống
nhau thậm chí còn mâu thuẫn.


17
+ Chứng thư giám định số 245/NĐ/2008E ngày 21/04/2008 của Havicontrol kết luận :
Viên gạch ốp lát (20x10)cm nêu trên được làm từ bột đá ép có nhuộm màu và được
qua công đoạn mài đánh bóng bề mặt. Mã số thuế 6810.18.10
+ Phiếu thông báo kết quả giám định mẫu gạch lát nền số 132/KT2/K4, TBKQ ngày
04/06/2008 của Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật kết luận : Mẫu gạch kiểm tra là loại đá ốp
lát nhân tạo qua ép tạo hình và qua nung. Mẫu được nung kết khối rắn chắc và không
phải là đá bột ép chưa qua nung. Thành phần chủ yếu của gạch là SiO
2
và khoáng
Mullite ( 3Al
2
O
3
2SiO
2
) đã hình thành trong quá trình nung tạo ra liên kết bền vững và
có độ cứng bề mặt cũng như độ bền cơ học cao. Mã số thuế : 6810.19.10.
Như vậy, cùng một mẫu gạch nhưng 2 kết quả phân tích khác nhau hoàn toàn
nhưng lại cố ý xếp vào một mã như nhau 6810.19.10- Gạch làm từ bột đá ép chưa

nung.
Với kết quả tái giám định như thế cơ quan hải quan không thể sử dụng làm căn cứ
để áp mã được.
d. Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc không phải là cơ quan giám định mà là
đơn vị sự nghiệp vụ của ngành Hải quan tiến hành phân tích phân loại hàng hóa
xuất nhập khẩu phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về hải quan.
Theo điều 27 luật Hải quan : “Khi làm thủ tục Hải quan công chức hải quan có
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Lấy mẫu hàng hóa với sự có mặt của người khai hải
quan để cơ quan hải quan phân tích hoặc trưng cầu giám định phục vụ kiểm tra hàng
hóa, sử dụng kết quả phân tích, kết quả giám định để xác định đúng mã số và chất
lượng hàng hóa…”.
Như vậy, việc phân tích phân loại hàng hóa là quyền đương nhiên của mọi công
chức hải quan chứ không phải của riêng Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc. Việc
Trung tâm ra thông báo 2960/TCHQ/PTPLMB tạm thời dừng chưa tiếp nhận một số
loại mẫu do kinh phí cấp phát và biên chế chưa đủ để tiếp nhận giải quyết một số loại
mẫu.


18
e. Chứng thư giám định số 245/NĐ/2008E ngày 21/04/2004 của Havicontrol kết
luận : Viên gạch ốp lát (20x10)cm nêu trên được làm từ bột đá ép có nhuộm màu và
được qua công đoạn màu đánh bóng bề mặt. Mã số thuế 6810.18.10
Kết quả giám định trên của Havicontrol là không đúng với bản chất của hàng hóa vì
đây là loại gạch làm từ bột đá ép được nung đến nhiệt độ tạo kết khối và trái với kết
quả phân tích của Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật do chính Doanh nghiệp trưng cầu lần2.
g. Việc phân loại hàng hóa căn cứ vào bản chất hàng hóa, Biểu thuế nhập khẩu,
chú giải HS và các qui định khác nếu có. Chương 69 qui định cho các mặt hàng đồ
gốm, sứ nên chỉ có các loại gạch được tạo hình và nung đến nhiệt độ kết khối ( còn gọi
là những sản phẩm đồ gốm, sứ ). Tên hàng “ Đá Granit nhân tạo mà công ty viện dẫn
trong công văn thực chất là tên gọi thương mại ( không nói lên được bản chất của hàng

hóa ) dùng để chỉ loại đá Granit làm giả đá tự nhiên chứ không phải tên gọi của sản
phẩm hàng hóa ở từng chương và phân chương để áp dụng theo nguyên tắc 1, phụ lục
1 trong Thông tư 85/2003/NĐ-CP ngày 22/01/2003 quy định.
h. Trong Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 của Bộ Tài chính về việc
ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi không hề có điểu khoản nào quy định về nung và
không nung đối với gạch Granit nhân tạo.
k. Thông báo kết quả phân tích phân loại số 3264/TCHQ/PTPLMB ngày 20/5/2008
của Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc chỉ có giá trị với mẫu yêu cầu phân tích
phân loại đối với lô hàng thuộc tờ khai số 204/NK/KD/AH ngày 02/03/2008 việc sử
dụng kết quả thông báo này đối với lô hàng thuộc tờ khai 80/NK/KD/AH là thuộc
thẩm quyền của chi cục Hải quan AH miền Bắc dựa trên kết quả kiểm tra hàng hóa
thực nhập.
Trung tâm trình bày quan điểm về loại mặt hàng nêu trên và xin ý kiến chỉ đạo của
Lãnh đạo Bộ và Lãnh đạo Tổng cục.
Bước III : Tổng cục Hải quan đã có Công văn số 790/TCHQ-GSQL ngày 03/03/2009
hướng dẫn về việc phân loại mặt hàng gạch lát nền bằng bột đá ép như sau :
Kính gửi : CỤC HẢI QUAN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ


19
Tổng cục Hải quan nhận được Công văn số 939/HQĐNg-Ttra ngày 15/09/2008 của
Cục Hải quan AH miền Bắc phản ánh vướng mắc liên quan đến việc phân loại mặt
hàng gạch lát nền bằng gốm Granit. Về việc này, Tổng cục Hải quan có ý kiến như
sau:
Căn cứ Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi được ban hành kèm theo Quyết định số
110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003; Thông tư 85/2003/TT-BTC ngày 29/8/2003 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc phân loại hàng hóa theo Danh mục hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu và biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, biểu thuế xuất khẩu. Tham khảo
chú giải chi tiết chương 68, chương 69 của Tổ chức Hải quan thế giới thì :
Mặt hàng gạch gốm Granit đã qua nung, không tráng men, kích thước 60x60cm,

bề mặt đã được mài và đánh bóng thuộc nhóm 6970, mã số 6907.90.10.
Mặt hàng gạch lát nền bằng đá Granit nhân tạo ( gạch làm bằng phương pháp ép
bột đá granit ), đã hoặc chưa mài hoặc đánh bóng thuộc nhóm 6810, mã số 6810.19.10
Tổng cục Hải quan yêu cầu Cục hải quan các tỉnh, thành phố kiểm tra lại việc phân
loại mặt hàng nên trên nhập khẩu tại đơn vị. Nếu đã thu thuế nhập khẩu khác với
hướng dẫn trên thì tổng hợp báo cáo về Tổng cục để Tổng cục nghiên cứu hướng dẫn
xử lý.
KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC HẢI QUAN
Phó tổng cục trưởng

C. KIẾN NGHỊ
Công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu là một lĩnh vực rất quan
trọng nó liên quan trực tiếp đến Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam
và Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
phân tích phân loại hàng hóa XNK chính là làm cho Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò quản lý vĩ mô toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu,
huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho việc
thực hiện các cam kết quốc tế. Việc xây dựng, hoàn thiện Danh mục và Biểu thuế


20
CNK Việt nam, việc ban hành các văn bản, quy phạm pháp luật hướng dẫn việc phân
loại áp mã hàng hóa XNK là các yếu tố quyết định đảm bảo cho công tác phân tích
phân loại đạt hiệu quả cao trong thực tế.
Những giải pháp nhằm hỗ trợ cho công tác phân tích phân loại ở giác độ chính
sách là :
Thứ nhất : Biểu thuế nhập khẩu
- Rà soát toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu, giảm thiểu việc quy định mức thuế chênh
lệch lớn giữa những mặt hàng có tính chất gần giống nhau để hạn chế tình trạng
cố tình khai báo vào dòng thuế có mức thuế suất thấp hơn…Phát hiện những bất

hợp lý về mặt Danh mục để kiến nghị với Ban thư ký ASEAN sửa lại Danh mục
AHTN.
- Vụ Chính sách thuế phối hợp với Tổng cục Hải quan và các cơ quan quản lý
chuyên ngành xây dựng tiêu chuẩn để phân biệt một số chủng loại hàng trong
quá trình phân loại ( chẳng hạn giữa dây điện và cáp điện, máy lọc nước dùng
trong gia đình và máy lọc nước không dùng trong gia đình … )
Thứ hai: Việc biên dịch và phát hành các tài liệu của Tổ chức Hải quan thế giới
WCO phục vụ cho phân loại hàng hóa :
Hiện nay Tổng cục Hải quan đã biên dịch và phát hành bản dịch chú giải HS,
phiên bản 1996. Tuy nhiên bản dịch này còn nhiều sai sót, hơn nữa Biểu thuế hiện
hành được xây dựng trên cơ sở Danh mục HS, phiên bản 2001 (HS2K), do vậy cần
phải biên dịch, hiệu đính phát hành rộng rãi chú giải HS2K.
Ngoài chú giải HS2K, WCO còn ban hành cơ sở dữ liệu hàng hóa, liệt kê chi tiết
các mặt hàng trong từng nhóm HS. Đây là một tài liệu rất hữu ích trong việc phân loại
hàng hóa vì nhiều mặt hàng nếu chỉ tra Danh mục và chú giải thì chưa rõ rang nhưng
nếu sử dụng tài liệu này thì có thể xác định được ngay mặt hàng. Vì vậy, về lâu dài nên
tổ chức dịch và phát hành cơ sở dữ liệu này.
Thứ ba : Hệ thống thông tin


21
Trong quá trình thực hiện Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cũng như Hải quan các
địa phương xử lý rất nhiều kiến nghị về phân loại áp mã. Vì vậy nên lập một trang
Wed riêng về phân tích phân loại và đưa ra các nội dung các văn bản trả lời về phân
tích phân loại hàng hóa lên trang Wed này để tất cả các hải quan địa phương tham
khảo và có ý kiến phản hồi về nội dung trả lời nếu thầy chưa thỏa đáng.
Nghiên cứu ban hành sổ tay nghiệp vụ về phân loại hàng hóa, trong đó đưa ra
nhiều ví dụ về những mặt hàng khó phân loại và thường gặp vướng mắc trong quá
trình phân loại để cán bộ hải quan nắm bắt kịp thời.
Thứ tư : Mối quan hệ phối thuộc

Củng cố tăng cường mối quan hệ phối thuộc giữa các đơn vị trong ngành hải quan
về phân loại hàng hóa XNK, quy chế về phân tích phân loại hàng hóa XNK, rà soát
sửa đổi các qui định không phù hợp với thực tiễn. Xây dựng kế hoạch thường xuyên
mở các lớp tập huấn về nguyên tắc phân loại hàng hóa đối với một số mặt hàng nhạy
cảm, khó phân tích phân loại cho hải quan các địa phương. Cần có kế hoạch phối thuộc
chặt chẽ giữa các Trung tâm phân tích phân loại với các đơn vị sự nghiệp kỹ thuật
chuyên ngành để đáp ứng các yêu cầu phân tích phân loại hàng hóa XNK của hải quan
các cửa khẩu.
Thứ năm : Hiện đại hóa ngành Hải quan
Thực hiện kế hoạch hiện đại hóa ngành Hải quan, Tổng cục Hải quan cần đầu tư
cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc và đội ngũ kỹ thuật viên có trình độ cao cho các
Trung tâm; phân theo chương trình ngắn hạn, dài hạn tiến tới đáp ứng tiểu chuẩn
Phòng thí nghiệm của Tổ chức Hải quan Thế giới ( WCO). Tăng cương năng lực, khả
năng phân tích phân loại hàng hóa, thực sự là chỗ dựa vững chắc cho công tác kiểm tra
thực tế hàng hóa tại cửa khẩu, là nhân tố đẩy nhanh thông quan hàng hóa.





22
KẾT LUẬN
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động phân tích phân loại hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu trong ngành Hải quan sẽ đóng góp phần tạo nên những hiệu quả to
lớn trên nhiều phương diện
I. Hiệu quả về quản lý nhà nước
Chủ động trong việc trực tiếp giải quyết cơ bản các khó khăn về phân loại xác
định tên gọi và mã số hàng hóa cho hải quan và doanh nghiệp bằng việc ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại trong phòng thí nghiệm hải quan và việc vận dụng
các quy tắc phân loại hết sức khoa học của Hệ thống hài hòa về mô tả và mã hóa hàng

hóa của Công ước HS.
Thông qua việc xác định đúng tên hàng và mã số hàng hóa bằng “Hàng rào kỹ
thuật” góp phần tăng cường quản lý cơ chế điều hành XK, NK của Nhà nước; bảo đảm
thu đúng, thu đủ thuế cho Nhà nước.
Góp phần bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan đến hàng hóa
XNK.
II. Hiệu quả về chính trị - xã hội – kinh tế
Góp phần tự động hóa và hiện đại hóa ngành Hải quan để thực hiện cải cách hành
chính về Hải quan, tạo điều kiện thông thoáng hoạt động XK, NK tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng, thuận lợi, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, thu hút đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
Góp phần giải quyết các tranh chấp về mã hàng, Biểu thuế giữa cơ quan quản lý nhà
nước và doanh nghiệp thông qua việc xác định đúng tên hàng, mã hàng, bằng các
phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, đồng thời cũng
bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp bằng việc tạo cơ sở khoa học và cơ sở
pháp lý cho việc thu đúng, thu đủ thuế XK, NK.


23
Góp phần bảo vệ an ninh xã hội thông qua việc phân tích phát hiện tiền chất và ma
túy, bảo vệ môi trường thiên nhiên của đất nước thông qua việc phân tích chất lượng
hàng nhập khẩu theo các tiêu chuẩn Việt Nam.
Góp phần tạo ra môi trường thực thi công vụ lành mạnh của Hải quan, chống tiêu
cực, tham nhũng.
Góp phần hạn chế những sơ hở về chính sách, pháp luật, tăng cường công tác đấu
tranh chống gian lận thương mại, chống buôn lậu có hiệu quả.
Mặc dù đã rất cố gắng bám sát vào nội dung và tình huống trong thực tế để phân
tích, đánh giá, và đề xuất các kiến nghị cho công tác xử lý các vướng mắc trong phân
tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong lĩnh vực hải quan. Tuy nhiên, do
thời gian hạn chế nên trong nội dung tiểu luận không tránh khỏi các thiếu sót. Rất

mong sự đóng góp của các thầy cô và đồng nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!.
















24
MỤC LỤC
Trang

Lời nói đầu…………………………………………………………………… …… . 2
A TÌNH HUỐNG ……… ………………………….………………………… …… 4
I. Hoàn cảnh ra đời ………….………………………….…………………………… 4
II. Diễn biến tình huống ……………………………………….…………….……….4
B, PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG … ………………………….…………… 7
I. Xác định mục tiêu xử lý tình huống …………………………………………… 7
II. Cơ sở lý luận …………………………………………………… ………………. 9

III. Phân tích tình huống ……………………………………………………………10
IV. Phương án giải quyết ………….……………………………………… …… 12
C. KIẾN NGHỊ ………………………………………………………… ……… 19
Kết luận ……………………………… …………………………………………… 22



×