MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta ln coi vấn đề bình đẳng
giới và khuyến khích sự tiến bộ của phụ nữ là một mục tiêu quan trọng của
phát triển quốc gia. Việt Nam cũng đồng thời được ghi nhận là một quốc gia
Đông Nam Á thành cơng nhất trong việc xóa bỏ khoảng cách trong 30 năm
qua. Bình đẳng giới của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng
trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, là một trong những nước có
thành tựu về bình đẳng giới cao.
Thế giới đã trải qua hơn 100 năm của chặng đường bình đẳng giới.
Nhìn lại những thành tựu và những tồn tại hiện nay của chặng đường đó, cả
nhân loại phải thừa nhận thành quả của bình đẳng giới đã góp phần rất quan
trọng vào sự tiến bộ chung của thế giới. Bình đẳng giới là cần thiết và có thể
thực hiện được. Ở Việt Nam, vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng và Nhà
nước quan tâm và được đánh giá là một động lực và mục tiêu phát triển quốc
gia. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã
được cụ thể hóa trong Luật Bình đẳng giới do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
của nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thơng qua ngày 29/11/20106 và
có hiệu lực thi hành kết từ ngày 01/7/2007. Bên cạnh đó, ngày 24/12/2010,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2351/2010/QĐ-TTg phê duyệt
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020. Chiến lược có
mục tiêu tổng quát là : “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực
chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền
vững của đất nước”. Mặc dù vậy, việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam
cịn đứng trước những khơng ít khó khăn, thách thức và cần phải giải quyết.
Từ những lý do trên cùng với kiến thức đã được học trong chuyên đề
bổ trợ thuộc khối kiến thức thứ 4 của Chương trình cao cấp lý luận chính trị
và xuất phát từ thực tiễn công tác trong lĩnh vực cơng đồn, tơi chọn đề tài
“Bình đẳng giới - Hiểu thế nào cho đúng, thực trạng và giải pháp thực hiện”
để hoàn thành tiểu luận của bản thân.
NỘI DUNG
1. Bình đẳng giới được hiểu như thế nào?
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau về các đặc điểm
giống nhau và khác nhau giữa nam giới và nữ giới.
Bình đẳng giới là nam và nữ giới cùng có vị thế bình đẳng và được tôn
trọng như nhau: cùng được tạo điều kiện và cơ hội để phát huy khả năng và
thực hiện các mong muốn của mình; cùng có cơ hội để tham gia, đóng góp và
thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển. Bình đẳng giới
là bình đẳng về pháp luật, về cơ hội và các thành quả tạo ra, bao gồm sự bình
đẳng trong việc tiếp cận nguồn lực, bình đẳng cho thù lao trong cơng việc,
bình đẳng trong việc hưởng thụ các thành quả, bình đẳng trong việc quyết
định các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội.
Bản chất của bình đẳng giới là sự tôn trọng, tạo điều kiện cho cả nam
và nữ cùng phát triển, cùng nhau cống hiến nhiều nhất cho xã hội và đáp ứng
các nhu cầu của cá nhân. Hình thành nhận thức xã hội đúng đắn về khái niệm
bình đẳng giới sẽ là một trong những điều kiện để Luật Bình đẳng giới đi vào
cuộc sống.
Luật Bình đẳng giới quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng
giới. Tuy nhiên để Luật Bình đẳng giới đi vào cuộc sống nếu chỉ có luật thơi
thì chưa đủ có nhiều lý do khiếu cho Luật Bình đẳng giới gặp một số khó
khăn để đi vào cuộc sống, trong đó có sự hạn chế trong nhận thức xã hội về
khái niệm “Bình đẳng giới”. Thực tế cho thấy, hiện nay khơng ít người vẫn
chưa hiểu đúng khái niệm “Bình đẳng giới” và cho rằng bình đẳng giới chỉ là
bình đẳng nam – nữ; khơng cơng bằng trong bình đẳng giới nghĩa là khơng
công bằng giữa nam giới và phụ nữ. Thực chất đây mới là một khía cạnh
trong khái niệm bình đẳng giới.
Theo khoản 1,2,3 điều 5 của Luật Bình đẳng giới thì:
1. Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ
2. Giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí và vai trị của nam và nữ trong
tất cả các mối quan hệ xã hội.
3. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
Ở đây, cần phải phân biệt khái niệm giới tính và khái niệm giới. Vì giới
tính chỉ các đặc điểm sinh hoạt của nam và nữ, khái niệm này có những đặc
điểm:
- Bị quy định hồn toàn bởi gen qua cơ chế di truyền từ mẹ sang
con cái.
- Mang tính bẩm sinh (sinh ra đã là nam hay nữ)
- Các đặc điểm sinh học có những biểu hiện thể chất có thể quan sát
được trong cấu tạo, giải phẩu sinh lý người.
- Gắn liền với một số chức năng sinh học.
- Sinh thành, biến đổi tuân theo quy luật sinh hoạt, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của cá nhân.
Khác với khái niệm giới tính, giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí và
vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội nên có những đặc
điểm sau:
- Một phần còn bị quy định bởi các yếu tố, tiền đề sinh học của
giới tính.
- Khơng mang tính di truyền, bẩm sinh mà mang tính tập nhiễm (tức là
bị quy định bởi điều kiện sống của cá nhân và xã hội, được hình thành và phát
triển qua hàng loạt các cơ chế bắt chước, học tập, ám thị …
- Mang tính đa dạng, phong phú cả về nội dung, hình thức và tính chất
(chúng ta thấy các đặc điểm giới bộc lộ qua suy nghĩ, tình cảm và hành vi của
mỗi cá nhân, nhóm).
Như vậy, về bản chất, khái niệm giới tính mang tính bình đẳng bởi đơn
giản nó chỉ là đặc điểm sinh học của nam và nữ. Nhưng chúng ta thấy, trong
khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội thì nam và nữ có những đặc điểm, vị
trí và vai trị khơng ngang bằng nhau. Đó chính là bất bình giới. Bởi vậy, khi
sử dụng thuật ngữ, chúng ta không dùng “bất bình đẳng giới tính” mà chỉ
được dùng “bất bình đẳng giới”.
Khái niệm “bình đẳng giới” phải được hiểu như thế nào?
Theo Luật Bình đẳng giới, thì mọi người, dù là nam giới hay phụ nữ,
với tư cách là các cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để
phát huy tiềm năng sẵn có của mình cũng như có quyền thụ hưởng bình đẳng
trong quá trình phát triển chung như:
- Tiếp cận và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian,
cơ hội …)
- Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
- Tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến việc sử dụng
nguồn lực.
- Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển
- Bình đẳng giới khơng có nghĩa và khơng địi hỏi số lượng phụ nữ và
nam giới tham gia vào các hoạt động phải ngang bằng nhau mà bình đẳng giới
có nghĩa là phụ nữ và nam giới, trẻ em gái và trẻ em trai phải có cơ hội ngang
nhau trong việc sử dụng các quyền của họ. Và vì thế, bình đẳng giới đòi hỏi
các chương trình phát triển, các dịch vụ cơng và các dịch vụ xã hội phải được
thiết kế sao cho đáp ứng được các nhu cầu nhiều mặt phù hợp với mức độ ưu
tiên khác nhau của phụ nữ và nam giới. Nếu làm được việc này thì sự phát
triển kinh tế xã hội sẽ dẫn tới sự công bằng trong việc hưởng thụ các thành
quả và mở ra cơ hội nhu nhau cho phụ nữ và nam giới trong việc phát huy các
tiềm năng của cá nhân họ.
2. Công tác bình đẳng giới ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
Qua 05 năm thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng và Kế hoạch
hành động, các mục tiêu đã được cụ thể hóa phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, đặc biệt là gắn với 7 mục tiêu Chiến lược đề
ra. Cụ thể như sau:
2.1. Mục tiêu 1: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí
quản lý, lãnh đạo nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh
vực chính trị
- Số cán bộ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Tam Kỳ
nhiệm kỳ 2010-2015 là 6/40 đồng chí, chiếm tỷ lệ 15%.
- Số cán bộ nữ tham gia Ban Thường vụ thành phố Tam Kỳ là 2/12
đồng chí, chiếm tỷ lệ 16,7%.
- Năm 2011 diễn ra cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp. Nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy vai trò, trách
nhiệm và quyền bình đẳng trong các lĩnh vực, lãnh đạo các cấp, các ngành từ
thành phố đến cơ sở đã quan tâm giới thiệu phụ nữ tham gia vào HĐND các
cấp, lãnh đạo, quản lý các cơ quan, ban, ngành, hội, đoàn thể các cấp và đạt
được kết quả sau:
+ Số đại biểu nữ tham gia HĐND cấp thành phố nhiệm kỳ 2011-2016
là 8/30 đồng chí, chiếm tỷ lệ 26,6%.
+ Số nữ đại biểu tham gia HĐND xã, phường nhiệm kỳ 2011-2016 là
56/328 đồng chí, chiếm tỷ lệ 17,1%.
+ Tính đến tháng 10/2015, số cán bộ nữ là lãnh đạo của thành phố
(Trưởng, phó phịng, ban, đơn vị trực thuộc, giám đốc, phó giám đốc và tương
đương): 16/58 đồng chí, chiếm tỷ lệ 27,5%.
- Số cán bộ nữ được đề bạt bổ nhiệm trong 03 năm qua là 09/29 đồng
chí, chiếm tỷ lệ 31%.
2.2. Mục tiêu 2: Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong
lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm. Tăng cường tiếp cận của phụ nữ
nghèo nông thôn với các nguồn lực kinh tế và thị trường lao động
- Đây là lĩnh vực luôn được các cấp uỷ Đảng và Chính quyền quan tâm
hàng đầu và dành sự ưu tiên đối với lao động nữ. Đã tham mưu lãnh đạo
thành phố lồng ghép yếu tố giới vào trong cơ chế xây dựng các chính sách
đầu tư, phát triển sản xuất kinh tế - xã hội, đồng thời phối hợp với các ngành
đẩy mạnh việc thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo nghề
gắn với giải quyết việc làm, cho vay vốn giải quyết việc làm và tổ chức tập
huấn kiến thức sử dụng vốn vay có hiệu quả. Từ năm 2011 đến nay, đã giải
quyết việc làm cho 22.934 lao động, trong đó lao động nữ chiếm tỷ lệ trên
53%.
- Căn cứ vào Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ
về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020,
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nơng thơn mới giai đoạn
2010 - 2020, Nghị quyết số 14/2011/NQ-HĐND ngày 19/07/2011 của Hội
đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam về việc phê duyệt Đề án Giải quyết việc làm
gắn với đào tạo nghề giai đoạn 2011-2015, đã tham mưu UBND thành phố
trình HĐND thành phố phê duyệt Chương trình mục tiêu giảm nghèo, chương
trình mục tiêu việc làm thành phố giai đoạn 2011 - 2015. Các chỉ tiêu được
xây dựng cụ thể: Bình quân hằng năm giải quyết việc làm cho 4.600 lao động;
giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 4% và nâng tỷ lệ sử
dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo và
đến năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 2% và tỷ lệ hộ cận nghèo còn dưới
3,0% theo tiêu chí mới. Đây là những chỉ tiêu, nhiệm vụ có tính thách thức
cao đã được ngành triển khai tổ chức thực hiện gắn với các kế hoạch, đề án,
giải pháp cụ thể.
- Phối hợp với Hội LHPN thành phố hỗ trợ công tác tạo việc làm cho
chị em ở cơ sở bằng cách huy động nguồn vốn tại chỗ dưới nhiều hình thức
như góp vốn quay vịng, vay vốn kinh doanh sản xuất, giúp nhau bằng con
giống, cây giống đã tạo điều kiện cho chị em giúp nhau phát triển kinh tế gia
đình, phát huy tinh thần tương thân, tương trợ giúp nhau trong lúc khó khăn,
hoạn nạn, đau ốm, tang khó ...
- Bên cạnh đó, thành phố tiếp tục thúc đẩy các giải pháp tạo việc làm ở
nhiều lĩnh vực phù hợp với lao động nữ như: Phát triển ngành nghề ở khu,
cụm công nghiệp mới, đẩy mạnh hoạt động thương mại dịch vụ tại các khu
vực trung tâm, duy trì, phát triển làng nghề truyền thống, chuyển đổi cây
trồng, vật nuôi tạo thêm việc làm và thu nhập.
- Công tác dạy nghề cho lao động nữ tiếp tục được triển khai và nhân
rộng, thông qua các Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm, tạo ra nguồn
lao động có tay nghề, phù hợp với nhu cầu thị trường. Thực hiện Quyết định
số 1956/2009/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, từ năm 2012
đến năm 2015 thành phố Tam Kỳ đã đào tạo nghề cho 1.051 lao động nông
thôn, trong đó có 384 lao động nữ, chiếm tỷ lệ 36.5%.
- Hằng năm, Phòng LĐTB&XH thành phố phối hợp với Liên đoàn Lao
động thành phố, Đội kiểm tra liên ngành tổ chức kiểm tra tình hình thực hiện
Bộ Luật lao động, các chế độ đối với người lao động tại các doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố có trên 60% lao động nữ.
2.3. Mục tiêu 3: Đảm bảo sự tham gia bình đẳng của phụ nữ với
nam giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nữ
- Bằng nhiều hình thức, biện pháp, sự phối hợp đồng bộ giữa các ban,
ngành, đồn thể, đặc biệt là Phịng Giáo dục – Đào tạo đã làm tốt công tác dạy
và học. Huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%.
- Có 100% phụ nữ từ 15 đến 40 tuổi ở khu vực nông thôn biết đọc,
biết viết.
- Từ năm 2011 đến nay, số cán bộ nữ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị là: Cao cấp lý luận chính trị 05/24 đồng chí, chiếm tỷ lệ 20,8%;
trung cấp chính trị 48/149 đồng chí, chiếm tỷ lệ 32,2%; Số cán bộ nữ cử đi thi
nâng ngạch chuyên viên chính 03/07 đồng chí, chiếm tỷ lệ 42,8%.
- Đội ngũ giáo viên nữ ngày càng được nâng cao về chất lượng, số
lượng và trình độ chun mơn nghiệp vụ đạt chuẩn quy định.
2.4. Mục tiêu 4: Đảm bảo bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
- Phối hợp với các ngành đẩy mạnh công tác tun truyền Luật Hơn
nhân - gia đình, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em ở 100% xã, phường
trên địa bàn thành phố.
- Phối hợp tổ chức nhiều hoạt động nhằm nâng cao kiến thức dinh
dưỡng cho bà mẹ mang thai và có con nhỏ, tổ chức khám phụ khoa cho phụ
nữ, khám sức khỏe theo định kỳ cho trẻ em tại địa phương.
- Tuổi thọ trung bình của phụ nữ là: 74 tuổi.
- Tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám thai đủ 3 lần đạt 100%.
- Số phụ nữ đến khám phụ khoa trong thời điểm tổ chức chiến dịch
truyền thông dân số đạt trên 83,67%, tỷ lệ phụ nữ đến trung tâm y tế khám
trong thời điểm tổ chức chiến dịch truyền thông dân số mắc bệnh viêm nhiễm
đường sinh sản chiếm 29 %, tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận với các dịch vụ y tế
đạt 100%, số trạm y tế có nữ hộ sinh đạt 100%.
- Từ năm 2011 đến nay, không để xảy ra tai biến sản khoa gây tử vong
cho bà mẹ; Khơng có phụ nữ mang thai bị nhiễm HIV/AIDS.
- Tỷ lệ phụ nữ sinh tại các cơ sở y tế đạt 100%.
2.5. Mục tiêu 5: Bảo đảm sự tham gia bình đẳng của phụ nữ so với
nam giới trong lĩnh vực văn hóa, thơng tin, thể thao
- Phối hợp với Phịng Văn hóa - Thơng tin, Đài Truyền thanh - Truyền
hình thành phố tổ chức tuyên truyền sâu rộng kiến thức về giới và nhận thức
giới, Nghị quyết 11/NQ/TW của Bộ Chính trị và các Luật liên quan đến phụ
nữ và trẻ em, đặc biệt là Luật Bình đẳng giới, Luật phịng chống bạo lực gia
đình đối với 100% thành viên Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ (VSTBPN) các cấp,
trên 90% đối với tồn dân.
- Việc tiếp cận và thụ hưởng thơng tin giữa nam và nữ luôn được các
cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện, đảm bảo sự bình đẳng nhu cầu
thưởng thức văn hóa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
- Trong năm qua, các sản phẩm truyền thơng mang tính định kiến giới
giảm mạnh, tăng các sản phẩm và thời lượng phát sóng các sản phẩm truyền
thơng cổ vũ cho quan niệm bình đẳng giới.
2.6. Mục tiêu 6: Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình,
từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới
- Phối hợp với các phòng, ban, đơn vị liên quan tổ chức tuyên truyền,
lồng ghép trong các hoạt động làm thay đổi cơ bản tâm lý thích sinh con trai
của người dân, chăm sóc con cái trong gia đình tốt hơn, giảm các hành vi bạo
lực với vợ và bé gái trong gia đình, đảm bảo sự cơng bằng giữa bé gái và trai.
Mức độ chênh lệch giới tính giữa nam và nữ khi sinh hiện nay là 97.74/100.
- Số lượng nam giới tham gia cơng việc gia đình ngày càng tăng. Vai trị
của phụ nữ trong gia đình ngày càng được nâng cao, không chỉ trong đảm bảo
xây dựng tổ ấm mà còn tham gia vào các quyết định quan trọng trong gia
đình.
* Xây dựng địa chỉ tin cậy và mơ hình dịch vụ gia đình: Xây dựng mới
01 địa chỉ tin cậy và duy trì có hiệu quả 32 địa chỉ tin cậy tại cộng đồng, trong
những năm qua đã hướng dẫn và tư vấn gần 50 trường hợp về bạo lực gia
đình.
* Câu lạc bộ Xây dựng Gia đình hạnh phúc: 100% xã/phường duy trì
CLB xây dựng gia đình hạnh phúc (11 CLB “Ni con khoẻ, dạy con ngoan”,
6 câu lạc bộ “Gia đình hạnh phúc”, 01 Câu lạc bộ “Ấm áp gia đình Việt”).
- Từ năm 2011 đến nay, không để xảy ra trường hợp buôn bán phụ nữ và
trẻ em.
2.7. Mục tiêu 7: Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động vì sự tiến
bộ của phụ nữ
- Thường xuyên nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền với Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ từ thành phố đến xã, phường.
- Có 100% các ban, ngành, đồn thể, địa phương được tuyên truyền,
phổ biến nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho cán bộ lãnh đạo.
- Có 100% các ban, ngành, đoàn thể, địa phương thực hiện lồng ghép
các mục tiêu, chỉ tiêu về bình đẳng giới vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, các chương trình, dự án của ban, ngành, đồn thể, địa phương.
- Phối hợp lồng ghép kiểm tra việc thực hiện các chính sách liên quan
đến quyền lợi của các nữ công nhân, viên chức và người lao động trên địa
bàn.
* Đánh giá chung:
Trong những năm qua, thành phố Tam Kỳ đã triển khai thực hiện Luật
Bình đẳng giới và hoạt động của Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ thành phố đạt
nhiều kết quả đáng khích lệ và ngày càng thể hiện phụ nữ được bình đẳng trên
các quyền cơ bản, như trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục –
đào tạo, y tế, văn hóa – thơng tin – gia đình.
Có thể khẳng định rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm, hỗ
trợ của chính quyền thành phố, sự nhận thức về giới ngày càng cao của xã hội
đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội để phụ nữ thành phố phấn đấu vươn lên tự
khẳng định mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội và cống hiến ngày
càng nhiều sức lực, trí tuệ của phụ nữ trong q trình phát triển kinh tế - xã
hội của thành phố.
Công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ thành phố được quan
tâm đúng mức, tạo điều kiện để chị em nâng cao kiến thức và trình độ chun
mơn, nghiệp vụ, tay nghề đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới.
Cơng tác chăm sóc sức khỏe phụ nữ - trẻ em cũng được thành phố quan
tâm hơn: Xây dựng trạm y tế đạt chuẩn, tăng cường đội ngũ bác sỹ về trạm y
tế xã, phường, tạo điều kiện cho nhân dân và đặc biệt là phụ nữ, trẻ em được
tiếp cận với các dịch vụ y tế nhằm trang bị thêm nhiều kiến thức chăm sóc sức
khỏe cho bản thân và gia đình. Đồng thời, cơng tác tun truyền các kiến thức
cơ bản, cần thiết về phòng chống các bệnh như : sốt rét, bướu cổ, phòng
chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, phịng chống HIV/AIDS … đã góp phần giúp
cho chị em phòng trành được các loại bệnh cho bản thân và gia đình.
Mơ hình xây dựng gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”
được triển khai lồng ghép với việc xây dựng gia đình văn hóa … đã góp phần
đáng kế vào cơng tác bình đẳng giới. Đặc biệt là việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cây trồng, con vật nuôi, chuyển giao khoa học kỹ thuật, vấn đề vay vốn
giải quyết việc làm … đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải
thiện đời sống vật chất, tinh thần cho phụ nữ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn cịn những tồn tại bất cập, đó là:
Hoạt động của Ban VSTBPN chưa được thường xuyên; Các thành viên của
Ban VSTBPN chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm, thường xun có sự thay đổi vị
trí cơng tác nên việc củng cố, kiện tồn đơi lúc chưa kịp thời, ảnh hưởng đến
hoạt động của Ban; Công tác kiểm tra giám sát chưa thường xuyên; Công tác
quy hoạch cán bộ chưa được quan tâm đúng mức; lao động nữ chủ yếu vẫn
chiếm số đông ở những lĩnh vực không địi hỏi chun mơn kỹ thuật cao nên
có thu nhập thấp và việc làm bấp bênh, độ rủi ro cao; Bên cạnh đó, nhận thức,
thái độ và hành vi mang tính định kiến giới vẫn tồn tại ngay trong cán bộ công
chức; Khoảng cách giữa quy định của pháp luật về bình đẳng giới với việc
thực thi cịn khá lớn, nhiều cán bộ vẫn lúng túng trong việc lồng ghép giới
vào các lĩnh vực đang quản lý hoặc đang thực hiện.
Như vậy, để đạt được sự bình đẳng giới, phụ nữ phải được tạo điều kiện
và cơ hội như nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Như thế vẫn chưa đủ, cần nhấn mạnh đến khía cạnh thứ hai của bình đẳng
giới là đối xử đặc biệt. Khi hoàn cảnh và điều kiện chưa như nhau, xuất phát
điểm của phụ nữ không ngang bằng với nam giới, thì đối xử như nhau chưa
đủ mà phụ nữ cần được đối xử đặc biệt mới có thể mang lại bình đẳng nam –
nữ như mong muốn. Luật Bình đẳng giới (2006) gọi đó là Biện pháp thúc đẩy
bình đẳng giới.
3. Giải pháp thực hiện bình đẳng giới trong thời gian đến
Hiểu đúng đắn về khái niệm bình đẳng giới sẽ là một trong những điều
kiện để Luật Bình đẳng giới đi vào cuộc sống và góp phần thúc đẩy phát triển
xã hội, vì hế trong thời gian đến cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
việc thực hiện bình đẳng giới đối với cơng cuộc phát triển đất nước.
Thực hiện tốt công tác truyền thông nâng cao nhận thức cho cán bộ và
nhân dân về mối quan hệ biện chứng giữa bình đẳng giới và phát triển xã hội
là một trong những định hướng quan trọng hiện nay. Thơng qua các hình thức
tun truyền (các phương tiện thơng tin đại chúng, tập huấn, hội thảo, lồng
ghép và các hoạt động cộng đồng …) nâng cao nhận thức cho tồn xã hội về
vị trí, ý nghĩa của bình đẳng giới, rằng xã hội sẽ dân chủ, công bằng, văn
minh hơn chỉ khi nào mỗi cá nhân, không phân biệt nam nữ được phát triển
đầy đủ, không bị phân biệt đối xử.
Kinh nghiệm của các quốc gia có trình độ phát triển về kinh tế, xã hội
cho thấy, một trong những bí quyết thành cơng là họ đi tiên phong về phát
triển con người, trong đó đi tiên phong về phát triển giới, thực hiện bình đẳng
giới. Các nghiên cứu về phát triển đã chỉ rõ: một đồng tiền đầu tư cho phụ nữ
sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều so với đầu tư cho nam giới. Tổ chức Liên hợp
quốc cũng khẳng định: đầu tư cho phụ nữ là đầu tư cho phát triển, tăng quyền
lực cho phụ nữ là tăng quyền lực cho nhân loại. Xã hội sẽ phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững hơn khi có sự đóng góp tích cực của phụ nữ với tư cách
là lực lượng lao động và với tư cách là người mẹ, người thầy đầu tiên của con
người.
Thông qua những tấm gương thành công của quốc tế và những điểm
sáng ở Việt Nam để tuyên truyền, nêu gương sẽ đem lại hiệu quả thiết thực
nhất. Trước đây, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ đảng viên trong công tác
tuyên truyền cần lấy tấm gương người thật, việc thật, vì “một tấm gương sống
cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Khi mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức nhận thức được ý nghĩa của bình
đẳng giới đối với phát triển, họ sẽ có quyết tâm, có cam kết và tự nguyện tìm
ra các điều kiện để thực hiện bình đẳng giới.
Hai là, xóa bỏ dần các định giới trong xã hội gây cản trở việc thực
hiện bình đẳng giới.
Tuyên truyền để thay đổi định kiến giới trong xã hội vì sự phân cơng
lao động giới trong gia đình, ngồi xã hội được coi là một trong những biện
pháp hữu hiệu hiện nay.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua giáo dục,
đào tạo, tập huấn, nói chuyện, tọa đàm … ở các cơ sở, địa phương, ngành …
trang bị kiến thức giới, thay đổi nhận thức cỗ hữu của mỗi người về định kiến
giới. không nên và không thể quy công việc gia đình là của phụ nữ, cơng việc
xã hội là của nam giới, bởi xét cả về góc độ sinh hoạt và góc độ xã hội đều
khơng phù hợp và gây áp lực cho cả nam giới, nữ giới. Sự cân bằng trách
nhiệm, chia sẻ cơng việc gia đình và đánh giá giá trị của mỗi công việc phải
khách quan và đảm bảo tính cơng bằng trên cơ sở con người là chủ yếu,
khơng phân biệt giới tính. Một số quốc gia trên thế giới từ lâu đã có các chính
sách khuyến khích nam giới chia sẽ cơng việc gia đình cùng với người phụ nữ
(kể cả thời gian ghỉ sinh con) đã đem lại tính cơng bằng, hiệu quả rất cao
trong các hoạt động kinh tế - xã hội, nhờ đó xã hội nhân văn, văn minh hơn.
Danh hiệu “giỏi việc nước, đảm việc nhà” của Ban Nữ công Tổng Liên đoàn
Lao động, cần nghiên cứu lại, bổ sung cho phù hợp. Danh hiệu cao quý này
phải dành cho cả nam giới để họ chung tay gánh vác, chia sẻ với phụ nữ việc
nhà, việc nước.
Mặt khác, công tác truyền thông về giới cần nhấn mạnh về tính cơng
bằng của giá trị cá nhân. Dù là nam hay nữ, đã là một con người, một cơng
dân phải có giá trị như nhau, quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Quan niệm
chồng phải hơn vợ, nam phải lãnh đạo nữ … khơng cịn phù hợp với thực tế,
là vi phạm cơ bản các điều luật về quyền con người ở Việt Nam cũng như
quốc tế hiện nay. Trong quá trình tuyên truyền nên khai thác những yếu tố
thực tiễn, tấm gương điển hình tiên tiến trong xã hội làm căn cứ.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, pháp luật về bình đẳng
giới và xây dựng các cơ chế, chế tài giám sát việc thực hiện bình đẳng
giới.
Cần thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các quy định, chính sách của
Đảng, Nhà nước về lao động nữ nói chung, bình đẳng giới nói riêng. Có thể
nói, Đảng, Nhà nước đã có khá nhiều chính sách, luật pháp quy định về quyền
bình đẳng giới. Gần đây nhất là Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về
cơng tác phụ nữ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (2007), Luật
Bình đẳng giới (2006), Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011
– 2020 … đã có một số quy định, chỉ tiêu tạo ra nhiều cơ hội, điều kiện thuận
lợi dành cho phụ nữ trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Chẳng hạn, trong lĩnh
vực lãnh đạo, quản lý. Cho đến nay đã có những quy định như: Trong các cơ
quan, đơn vị có từ 50% lao động nữ thì phải có ít nhất một nữ trong vị trí lãnh
đạo cấp chủ chốt; cần đảm bảo tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo tại các
trường lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước từ 30% trở lên; phấn
đấu đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban Nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ …
Tuy nhiên, trên thực tế, các chỉ tiêu trên hầu như chưa đạt được hoặc
khó đạt được cho đến kỳ hạn. Hơn nữa, các chế tài kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các chỉ tiêu này vẫn cịn hình thức, chưa đi vào thực chất, chưa tạo
ra động lực đối với mỗi đơn vị, cơ sở. Do vậy, cần phải có cơ chế kiểm tra,
giám sát cụ thể, có chế tài khen, phạt rõ ràng đối với các đơn vị, địa phương
khi triển khai công tác cán bộ nữ.
Tuổi nghỉ hưu của cán bộ, công chức, viên chức cũng cần tiếp tục xem
xét và điều chỉnh cho phù hợp trên cơ sở công bằng và hiệu quả, nhất là đối
với lao động nữ. Do phải thực hiện chức năng cao quý của xã hội, người phụ
nữ đã dành khá nhiều thời gian và tâm sức để tạo nên thế hệ cơng nhân tương
lai có chất lượng cao. Họ cần phải được hỗ trợ để nâng cao trình độ kỹ năng
và các điều kiện khác để tham gia vào quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, trong đó
có quỹ thời gian. Khi xem xét tình trạng giảm dần tỷ lệ nữ trong Quốc hội
mấy khóa vừa khoa, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đã thấy có
vướng mắc rất lớn liên quan đến trần tuổi về hưu của phụ nữ. Đảng, Nhà nước
đã có những chỉ đạo, triển khai nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên cho đến
nay liên quan đến vấn đề này còn tranh cải, nhiều ý kiến khác nhau.
Mặc dù Bộ Luật Lao động cho đến nay vẫn chưa có đổi mới quy định
tuổi về hưu của nam và nữ, song thiết nghĩ phải có một số nghiên cứu khoa
học cung cấp cho các nhà xây dựng luật, xây dựng chính sách những căn cứ
lý luận, thực tiễn, khách quan, chủ quan, sinh học và xã hội … để điều chỉnh
tuổi nghỉ hưu của phụ nữ và nam giới cho hợp lý về tính pháp lý (ngang
bằng), tính hiệu quả (đóng góp) và tính cơng bằng (thụ hưởng), tạo động lực
để mỗi cá nhân được bình đẳng về quyền lợi, trách nhiệm như nhau, không
gây áp lực cho cả nam và nữ.
Bốn là, tăng cường vị trí, nguồn lực của các tổ chức tham mưu thực
hiện bình đẳng giới.
Thực hiện bình đẳng giới là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, trong đó
nịng cốt là hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên, Đảng và
Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho cơ quan trực tiếp cơng tác tham mưu về cơng
tác này.
Hiện tại, có ba tổ chức, đơn vị chịu trách nhiệm thực hiện cơng tác
tham mưu về bình đẳng giới, đó là Vụ Bình Đẳng giới (Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội), Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Các tổ chức này có hệ thống từ Trung ương tới
cơ sở.
Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới theo Luật Bình
đẳng giới và Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04/6/2008 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới, ba cơ quan
nêu trên có nhiệm vụ phối kết hợp thực hiện:
Thứ nhất, xây dựng, trình bàn hành, ban hành theo thẩm quyền văn bản
quy phạm pháp luật về bình đẳng giới và các văn bản có liên quan;
Thứ hai, lồng ghép giới trong xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật;
Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về bình
đẳng giới;
Thứ tư, cơng tác xây dựng, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt động
về bình đẳng giới;
Thứ năm, cơng tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực bình đẳng giới;
Thứ sáu, Cơng tác kiểm tra, thơng tin, báo cáo về tình hình thực hiện
bình đẳng giới trong phạm vi cả nước;
Thứ bảy, hợp tác quốc tế vì bình đẳng giới.
Tuy nhiên, cho đến nay, nguồn lực cho ba đơn vị này còn hạn chế. Đội
ngũ cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới mới được hình thành, nên cịn rất
thiếu về số lượng và hạn chế về kiến thức giới, kỹ năng lồng ghép giới, đặc
biệt ở địa phương, cơ sở; công tác thống kê, thơng tin báo cáo cịn rất nhiều
khó khăn do chưa hình thành được hệ thống cơ sở dữ liệu có lồng ghép giới
trên các lĩnh vực của ngành; việc xây dựng và ban hành một số văn bản quy
phạm pháp luật về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ cịn chậm, nên
đã ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng triển khai, thực hiện Luật Bình đẳng
giới.
Do vậy, cần hồn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ làm cơng tác bình đẳng giới từ Trung ương đến
địa phương. Triển khai thực hiện Đề án đào tạo cán bộ làm công tác bình đẳng
giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ; tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Chỉ thị
số 27/2004/CT-TTg ngày 15/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ và xây dựng
Đề án kiện tồn, thành lập Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các Bộ, ngành và
các tổ chức chính trị - xã hội.
KẾT LUẬN
Có thể nói, việc bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay có tiến bộ vượt bậc so với trước. Phụ nữ và nam giới có sự bình
đẳng về thực chất trên các lĩnh vực cuộc sống.
Để tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới, hướng tới mục tiêu chung của
Đảng và Nhà nước, thực hiện Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ của
Chính phủ, địi hỏi các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, vận động cùng thực hiện góp phần thay đổi nhận thức về
bình đẳng giới. Từ đó góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược quốc
gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở nước ta và cũng là góp phần thực hiện thành
công hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.