Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích tín dung- Thực trạng và giải pháp tại Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.02 KB, 12 trang )

PHÂN TÍCH TÍN DỤNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TẠI VIỆT NAM
1. Tầm quan trọng/mục tiêu :
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM.Rủi ro này, có rất
nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hang.Có nhiều
khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn chủ, đẩy ngân hang đến phá sản.Do vậy,các
ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ.
Đó chính là quá trình phân tích tín dụng, bao gồm quá trình thẩm tra trước, trong và sau khi cho
vay,chiết khấu,cho thuê,bảo lãnh.
Quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập thông qua hợp đồng tín dụng với trọng tâm là xác
định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc thực hiện hợp đồng.Do đó,mục
tiêu của phân tích tín dụng la thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định nội dung của hợp
đồngtín dụng bao gồm xác định vị trí thị trường so sanhcủa người nhận tín dụng,sức mạnh cạnh
tranh,rủi ro,mức độ thay đổi kỹ thuật,sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người
vay…trong quá khứ, hiện tại, và tương lai, cho phép ngân hàng điều chính các giá trị trong
quan hệ tín dụng với khách hàng.
Phân tích tín dụng là công việc nghiêm túc.Trong môi trường gia tăng cạnh tranh giữa các
ngân hàng ,khách hang , đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện quy trình phân tích tín dụng
nhanh,gọn và tiết kiệm chi phí ; đây cũng là hoạt động liên quan đến trách nhiệm của nhiều
phòng ban va cán bộ ngân hang.Do vậy,quy trình phân tích tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu
sau:
- Được xây dựng và thống nhất trong toàn NH, tránh tuỳ tiện ,duy ý chí. Quy trình này phải
được ban lãnh đạo NH thong qua và phổ biến đến các phòng có lien quan cung như các cán bộ
tín dụng.
- Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích,tránh chung chung.Mỗi phòng chức năng
trong NH cũng như cán bộ NH cần phải làm gì, đến mức nào;
- Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện các nguyên tắc tín dụng NH.
*Phân tích tín dụng giữ vai trò quan trọng : giúp Ngân hàng phân tích, đánh giá và ra quyết
định cho vay khi đứng trước một yêu cầu vay vốn của khách hàng. Va kiểm soát và quản lý rủi
ro tín dụng khi quyết định cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng nói chung.
2. Quy trình phân tích tín dụng.
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân


hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng . Đó chính là các bước (hoặc nội dung công
việc) mà cán bộ tín dụng , các phòng, ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tài
trợ cho khách hàng.
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng . Nội dung chủ
yếu là thu thập và xử lí các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn
vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các
điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay .
Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lí thông tin :
- Phỏng vấn trực tiếp là rất quan trọng, bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người
vay vốn: Thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động, xem
xét vật thế chấp… Phỏng vấn trực tiếp giúp cán bộ ngân hàng loại trừ các báo cáo “ma”, cảm
nhận cái đang diễn ra….
- Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian (qua các cơ quan quản lí, qua các bạn hàng
chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn ). Rất nhiều người vay lần
đầu tiên đến với ngân hàng ,hoặc chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Tìm hiểu
khách hang này trong thời gian ngắn là không đơn giản. Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua
các trung gian giúp phân tích người vay qua các mối liên hệ của họ, cho thấy uy tín, tình trạng
rủi ro, phát triển hay suy thoái.
- Thông qua các thông tin có được từ báo cáo của người vay. Ngân hàng luôn luôn yêu cầu người
vay vốn phải gửi cho ngân hàng các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán (bảng cân đối
tài sản), báo cáo thu thập, báo cáo bán hàng… ngân hàng cũng yêu cầu hoặc mua những thông
tin về giám đốc, đội ngũ nhân sự, công nghệ…của khách hàng. Các báo cáo này cho thấy các số
liệu trong nhiều năm gian qua, vì vậy, giúp ngân hàng có cơ sở để dự đoán về tình hình của
khách hàng trong tương lai gần. Ngân hàng sử dụng các báo cáo này để ước tính nhu cầu vốn,
trong đó có nhu cầu tài trợ, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ, hoặc không trả đầy
đủ, giá trị các tài sản có thể phát mại khi cần thiết…
Nội dung phân tích:
• Đánh giá tài sản của khách hàng
Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản), trong đó phần tài sản

phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung bình trong kì. Đối với họ,
hoặc người tiêu dùng ngân hàng yêu cầu các thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá nhân,
lương và các khoản thu thập khác. Các thông tin về tài sản cho thấy quy mô, khả năng quản lí
của khách hàng rất quan trọng đối với quyết định cho vay. Quan trọng hơn, tài sản (tất cả hoặc
một phần) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ
khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
Ngân quỹ: Bao gồm tiền gửi ngân hàng , tiền mặt trong két, các khoản phải thu. Tiền gửi và
tiền mặt là tài sản có thể dùng để chi trả ngay, song thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài
sản của khách hàng. Các khoản phải thu (chủ yếu là tiền bán hàng hoá và dịch vụ chưa thu
được tiền) luôn có khả năng chuyển thành tiền gửi hoặc tiền mặt. Ngân hàng cần xem xét kĩ
khoản này để loại trừ các khoản bán chịu không thu được, khó thu được hoặc đã bán lại cho
người khác. Các khoản cho vay ngắn hạn liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân quỹ của khách
hàng, đặc biệt thời hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số ngày của kì thu tiền.Các chứng
khoán có giá : Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các tài sản này làm tăng nguồn thu và
có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
Hàng hoá trong kho: Rất nhiều các món vay ngắn hạn với mục tiêu tăng dự trữ hàng hoá, có
nghĩa là một phần hàng hoá trong kho được hình thành từ vốn vay ngân hàng . Do đó, ngân
hàng quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo hiểm, rủi ro đối với hàng hoá
trong kho. Ngoài xem xét trên sổ sách, ngân hàng còn yêu cầu người vay mở kho hàng kiểm tra
để loại trừ hàng hoá kém, mất phẩm chất, chậm tiêu thụ, phát hiện hàng giả, hàng người khác
gửi…
Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển, thiết bị văn
phòng…thường là đối tượng tài trợ trung và dài hạn.
• Đánh giá các khoản nợ
Nợ của người vay có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Về thời gian: Gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay trung và dài hạn);
nhiều khi ngân hàng còn xem xét các khoản nợ đến hạn trong năm (các khoản nợ ngắn và trung,
dài hạn phải trả trong năm) và các khoản nợ phải trả trong các năm sau. Nhìn chung, các khoản
vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản vay trung và dài hạn
dùng tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, tính tương quan giữa chúng là đối tượng phân tích của

ngân hàng . Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn và
ngân quỹ trong năm của khách hàng la hai yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân hàng .
Ngân hàng cũng quan tâm tới nợ quá hạn và các nguyên nhân.
Ngân hàng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của khách hàng: Có thể là các khoản nợ cũ, các
khoản nợ của các ngân hàng khác, nợ người cung cấp, nợ người lao động. Vị trí của ngân hàng
trong danh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kĩ lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng
nhất, nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác.
Ngân hàng cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm và nợ khác. Các tài sản đã làm
đảm bảo cho khoản vay cũ cần phải được tính lại theo giá thị trường và bị loại trừ; nếu chúng
được lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền
vay cũ.
• Phân tích luồng tiền
Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí có khả năng tạo ra lợi nhuận
trong tương lai. Tuy nhiên, việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt chẽ tới ngân quỹ của người
vay (ví dụ ,cho vay tiêu dùng, nguồn trả nợ là các khoản thu nhập bằng tiền của người vay, kì
hạn thu nợ có thể lệch pha với các khoản thu của người vay). Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu
quan trọng phản ánh khả năng sinh lời, chênh lệch dòng tiền vào và ra là chỉ tiêu quan trọng
nhất đối với dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Tuy nhiên nhiều khoản mục có liên
quan đến dòng tiền không được chỉ dẫn đầy đủ trong cân đối tài sản của công ty: Phần lớn
luồng tiền sau tháng 12 đều không ghi vào bảng cân đối (các tài khoản chỉ ghi lại những gì xảy
ra trong năm vừa qua), phần lớn các trách nhiệm thanh toán không được chỉ ra trong cân đối
khi mà vào thời điểm đó nó không tồn tại. Bán hàng là nguồn tiền quan trọng để trả nợ song
bảng cân đối nói rất ít về bán hàng.
Để hỗ trợ ngân hàng và khách hàng, các luồng tiền trong tương lai – phụ thuộc vào kế
hoạch chi tiêu trong tương lai – cần được dự kiến. Kế hoạch này ghi lại vận động hàng tháng
của các khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản thanh toán hàng tháng. Người vay có lợi
nhuận trong hiện tại có thể có dự án chi trong tương lai cao và với thu bán hàng không đổi, sẽ
có thể có luồng tiền âm (không có khả năng chi trả).
• Sử dụng các tỉ lệ.
Sau khủng hoảng 1929-1932, rất nhiều các ngân hàng phát hiện rằng họ không thu được nợ

(và như vậy là không có khả năng chi trả) ngay cả khi họ cho vay các khoản vốn lưu động phù
hợp. Cùng các khoản cho vay ngắn hạn, đã xuất hiện ngày càng nhiều các khoản cho vay dài
hạn mà mối tương quan với vốn của chủ sở hữu và các luồng trả nợ trở nên rất quan trọng. Để
quá trình phân tích tín dụng được thực hiện với thời gian ngắn và phần nào được tiêu chuẩn
hoá, các ngân hàng đều cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực tài chính của người vay
có liên quan đến khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này sẽ được áp dụng trong phân tích đối với từng
người vay có tính đến các điều kiện cụ thể. Trong nhiều trường hợp,, ban lãnh đạo ngân hàng
còn yêu cầu cán bộ tín dụng sắp xếp và cho điểm đối với từng tỉ lệ của mỗi người vay. Điểm
cần chú ý là các tỉ lệ này thường được cấu thành từ hai số có bản chất khác nhau, do đó, tìm
kiếm các số liệu có mối tương quan với nhau là rất cần thiết. Hơn nữa các tỷ lệ này lấy từ các
báo cáo tài chính phản ánh tình hình đã và đang xảy ra, do đó, các tỷ lệ này không phải lúc nào
cũng là những chỉ dẫn cho các quyết định của ngân hàng .
Các loại tỷ lệ: Những tỷ lệ đo thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ khả năng
tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro.
Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Đo khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài
chính ngắn hạn. Dựa vào đó ngân hàng tìm kiếm khả năng thanh toán các trái khoán khi đến
hạn của người vay. Nhìn chung các tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh toán của người vay có
thể càng tốt. Một là, tỷ lệ thanh khoản nhanh được đo bằng ngân quỹ của người vay trên các
khoản nợ hiện hành( gồm các khoản nợ ngắn hạn và trung, dài hạn đến hạn trong kì). Mẫu số
phản ánh nợ đến hạn sắp phải trả, trong khi đó tử số gồm tiền mặt trong két và tiền gửi ngân
hàng hiện có, các khoản đang trong quá trình thu (sắp thu). Chú ý là tiền mặt và tiền gửi ngân
hàng có thể giảm nhanh chòng do người vay cần thanh toán tiền mua hàng hoá hoặc trả lương,
các khoản đang trong quá trình thu có thể không thu được. Do đó, ngân hàng cần xem xét kĩ
lưỡng các khoản đang trong quá trình thu, tính số ngày của một kì thu, loại trừ nợ nần dây dưa.
Hai là, tỷ lệ thanh khoản trung bình đo bằng tỷ lệ tài sản lưu động trên nợ hiện hành. Tử số gồm
ngân quỹe và hàng hoá của người vay (hàng hoá trong kho, trên đường, trên quầy). Điều đáng
quan tâm là giá cả hàng hoá tồn kho và các loại hàng hoá kém luân chuyển. Ngân hàng phân
loại những hàng hoá này ra khỏi tử số của tỷ lệ thanh khoản.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng phân tích các tỷ lệ thích hợp. Nếu cho vay trong
thời gian ngắn 2-3 tháng, ngân hàng cần chú ý đến tỷ lệ thanh toán nhanh; còn cho vay 9-12

tháng ngân hàng cần chú ý đến thanh khoản trung bình.
Nhóm tỷ lệ sinh lời: Đo khả năng tạo lợi nhuận của người vay. Khả năng sinh lời của người
vay quyết định khả năng hoàn trả vốn và lãi ngân hàng . Các tỷ lệ này đều có tử số là lợi nhuận
ròng trước hoặc sau thuế lợi tức, hoặc doanh thu và mẫu số là vốn tự có, vốn lưu động, vốn cố
định hoặc tổng vốn. Có thể hỏi tại sao ngân hàng lại quan tâm đến khả năng sinh lợi khi mà
luồng tiên có tầm quan trọn đối với khoản trả nợ? Khả năng trả nợ thực chất là bắt nguồn từ
khả năng tạo thu nhập, tức là người vay có khả năng thu về lượng giá trị lớn hơn giá trị đầu tư
ban đầu. Một người vay làm ăn thua lỗ mà vẫn trả nợ được ngân hàng thì chỉ có thể dùng vốn
tự có (hoặc giảm vốn tự có) hoặc dùng nợ nuôi nợ (vay người này trả người khác). Cả hai con
đường này đều tiềm ẩn tổn thất đối với người cho vay.
Để phân tích tỷ lệ sinh lợi, bên cạnh bảng cân đối tài sản ngân hàng cần có báo cáo thu nhập
của người vay.
Nhóm tỷ lệ rủi ro (RR): RR của người vay rất đa dạng.Chúng ta cần có nhiều trường hợp
điều chỉnh RR trong mọi trường hợp. Danh sách sau trình bày cách tiếp cận rủi ro của người
vay:
Sản xuất: Doanh nghiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên vật liệu? Tác động trong thay đổi
chi phí là gì? Cái gì là yếu tố chi phí quan trọng nhất? Lao động? Vốn? Có thay đổi nhanh trong
kĩ thuậ? Chi phí là bao nhiêu? Tính phụ thuộc vào các doanh nghiệp khác như thế nào? Tác
động của nghiên cứu và phát triển? Tác động của thay đổi cơ cấu chi phí là gì? RR tác động tới
việc sử dụng trang thiết bị là gì?
Tiếp thị : Các nhân tố tác động tới việc bán hàng? Cầu co giãn với giá? Thu nhập là co dãn?
Sản phẩm thay thế là gì ? Nhập khẩu có lớn không? Chiến lược cạnh tranh là gì? Những gì cản
trở việc đối thủ khác gia nhập vào ngành? Thay đổi trong nhu cầu của khách? Người bán có
quyền lực hơn người mua? Rủi ro thua lỗ của khách hàng chính là gì?
Nhân sự: Cái gì làm năng suất lao động tăng? Cái gì khuyến khích người lao động? Rủi ro
của đình công? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào những cá nhân đặc biệt?
Tài chính : Sức chịu đựng của doanh nghiệp đối với lãi suất ? Có bao nhiêu cách huy động tiền?
Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào một dự án? Việc đa dạng các nguồn thu?
Chính sách của Chính phủ: Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thể tác động tới khách hàng
như thế nào? Chính sách kinh tế? Bảo vệ nhập khẩu? Trợ cấp xuất khẩu? Hợp đồng với Nhà

nước? Giấy phép đối với sản phẩm mới?
Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn sở hữu: Thông thường một doanh nghiệp phải có
vốn sở hữư đủ dể tài trợ một phần cho tài sản lưu động và tài sản cố định.
Tỷ lệ tài trợ bằng vốn sở hữu =Vốn sở hữu/ Tổng tài sản
Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
tỷ lệ này vào khoảng 0,3- 0,4 hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải thận trọng và kiểm soát chặt
chẽ các khoản cho vay.
Tuỳ theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập trung chú ý vào tỷ lệ
tài trợ cho tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay ngắn hạn, ngân hàng xem xét vốn
lưu động tự có của doanh nghiệp. Một khoản xin vay ngắn hạn có thể được ngân hàng chấp
nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ của doanh nghiệp ( ngân hàng sẽ cộng thêm khoản
vay mới để xác định lại tỷ lệ này). Nếu doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn thì khấu hao và
thu nhập sau thuế cùng với giá trị còn lại của tài sản cố định là những yếu tố ảnh hưởng đến
quyết định cho vay của ngân hàng .
• Các điều kiện kinh tế.
Các kết quả phân tích trên cho ngân hàng thấy một phần quá khứ và hiện tại của khách
hàng. Điều ngân hàng quan tâm hơn là khả năng trong tương lai của khách hàng, có thể là trong
mấy tháng hoặc mấy năm. Thời hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động
của các điều kiện kinh tế. Thiên tai,các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng
hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành… làm thay đổi các tính toán ban
đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng. Tổn thất của khách hàng đến tổn
thất của ngân hàng chỉ trong gang tấc.
Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người nhận tài trợ (khách hàng)
và ngân hàng , với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín
dụng (hoặc hạn mức tín dụng ) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín
dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín
dụng , đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các luật , các quy định. Do vậy, cả ngân hàng
lẫn khách hàng đều cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi kí kết hợp đồng tín dụng . Sau đây là nội
dung chính của hợp đồng tín dụng .

- Khách hàng: Họ tên, địa chỉ , tư cách pháp nhân (nếu có).
- Mục đích sử dụng: Khách hàng phải ghi rõ vay để làm gì.
- Số lượng tín dụng : Là số tiền (hoặc hạn mức tín dụng ) ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng.
Số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời gian khác nhau và dưới các hình
thức tiền tệ khác nhau.
- Lãi suất : Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng trả đồng thời xác định tính chất
của lãi suất (là lãi suất cố định hay biến đổi trong suốt kì hạn tín dụng ). Nếu lãi suất có thay
đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó.

×