Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN môn lý LUẬN NHÀ nước và PHÁP LUẬT đề tài hợp ĐỒNG vô HIỆU DO NHẦM lẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.32 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
------------o0o-----------

TIỂU LUẬN
MÔN: LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ĐỀ TÀI: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN
Giảng viên hướng dẫn:
NCS.Ths Châu Quốc An
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 9

TP. HỒ CHÍ MINH, 01/2022


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU DO NHẦM
LẪN............................................................................................................................... 3
1.1. Khái niệm hợp đồng vơ hiệu...................................................................................3
1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn...............................................................3
1.2.1. Định nghĩa...........................................................................................................3
1.2.2. Đặc điểm..............................................................................................................4
1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn......................................................5
1.4. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn...............................................7
PHẦN 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN LIÊN QUAN ĐẾN
HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU DO NHẦM LẪN...................................................................9
2.1. Thực trạng về những vấn đề liên quan đến hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn............9


2.2. Giải pháp hồn thiện liên quan đến hợp đồng vơ hiệu do nhầm lẫn......................11
KẾT LUẬN..................................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................13

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

GDDS

Giao dịch dân sự

HĐVH

Hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật


MỞ ĐẦU
Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất về ý chí, quan điểm giữa các cá nhân cũng
như các tổ chức để từ đó làm căn cứ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể trong giao dịch. Hợp đồng là những tiền đề pháp lý góp
phần tạo nên sự vận động linh hoạt của các giá trị vật chất trong xã hội. Vì thế, trong
hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng như bất kỳ quốc gia nào, luật hợp đồng luôn
luôn được xếp vào vị trí quan trọng bậc nhất. Trong các giao dịch, trao đổi trong cuộc
sống xã hội, từ các hoạt động thương mại, mua bán hay chỉ là để đáp ứng nhu cầu
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, hầu hết đều có sự hiện diện của hợp đồng.
Hiện nay, trong chế định hợp đồng thì vấn đề về HĐVH là một vấn đề nóng hổi
được rất nhiều người quan tâm. Các quy định của vấn đề này bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên chủ thể tham gia hợp đồng cũng như bảo đảm lợi ích chung của
cộng đồng, xã hội. Thế nên nó phải được xây dựng hợp lý, công bằng, cân đối giữa
nghĩa vụ và quyền, lợi ích của các chủ thể hợp đồng cũng như của cộng đồng, Nhà
nước nói chung.
Là vậy, nhưng hiện nay vấn đề về HĐVH do nhầm lẫn nói riêng vẫn cịn tồn tại
nhiều mặt phức tạp, khúc mắc cần được tháo gỡ để tạo niềm tin, trả lời cho những bận
tâm của chủ thể các bên khi quyết định tham gia vào hợp đồng một cách thỏa đáng.
Các căn cứ để tun bố HĐVH cịn có nhiều điểm chưa rõ ràng hay không đảm bảo
được quyền lợi của các bên tham gia quan hệ hợp đồng khi tun bố vơ hiệu hợp
đồng... Đó là những ví dụ quy định ban hành còn nhiều nút thắt, chưa thỏa mãn, vô
cùng cứng nhắc tạo nên những cách hiểu không thống nhất. Hơn thế nữa, chính vì sự
phức tạp, đa phần chung chung khơng rõ ràng đó đã gây ra nhiều khó khăn, cản trở,
làm hạn chế năng lực trong cơng tác xét xử tới các vấn đề có liên quan tới HĐVH do
nhầm lẫn của cơ quan Nhà nước. Trên thực tế cuộc sống cũng không hề hiếm hoi các
trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn hoặc cố tình nhầm lẫn để né
tránh nghĩa vụ của mình.

Hợp đồng vơ hiệu do nhầm lẫn


1


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

Để đối phó với thực trạng vô cùng cấp thiết này, và đáp ứng cho những yêu cầu
của thực tiễn, bảo vệ được sự cơng bằng, an tồn, tạo niềm tin vững chắc cho các chủ
thể thì cần phải sớm hồn thiện các quy định pháp luật về HĐVH nói chung và
HĐVH do nhầm lẫn nói riêng. Một cơ sở pháp lý phù hợp, minh bạch, dễ hiểu không
chỉ là những mong mỏi thiết thực của các cá nhân hay doanh nghiệp khi họ thực hiện
tham gia hợp đồng và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà cịn là cơ sở để
cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt cơng việc được giao, dần dần hồn thiện chế định
hợp đồng trong hệ thống pháp luật.
Cùng với những lý do trên và sự cấp bách, quan trọng, cần thiết về các quy định
của pháp luật về HĐVH nói chung và HĐVH do nhầm lẫn nói riêng, nhóm chúng tơi
đã lựa chọn đề tài HĐVH do nhầm lẫn để triển khai trong bài tiểu luận này.
* Kết cấu của bài tiểu luận
Phần 1: Những vấn đề lý luận về HĐVH do nhầm lẫn
Phần 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện liên quan đến HĐVH do
nhầm lẫn

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

2


Nhóm 9


Lý luận nhà nước và pháp luật

Phần 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN
1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất về ý chí, quan điểm giữa hai hoặc nhiều cá
nhân cũng như tổ chức để từ đó làm căn cứ thay đổi, phát sinh hoặc chấm dứt các
quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia giao dịch. Ngôn ngữ viết hoặc
ngôn ngữ nói, thậm chí là bằng hành vi cụ thể cũng có thể thực hiện được hợp đồng.
Theo pháp luật quy định hiện hành, hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không đáp ứng
được đầy đủ các điều kiện để hợp đồng đó có hiệu lực đúng theo quy định của pháp
luật. Hợp đồng này hồn tồn khơng hề có giá trị pháp lý cũng như không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết hợp đồng.
Trên cơ sở khái niệm hợp đồng, GDDS vô hiệu, trong phạm vi nghiên cứu của luận
văn: “Hợp đồng vô hiệu được hiểu là hợp đồng khi giao kết và thực hiện khơng đảm
bảo những điều kiện có hiệu lực của GDDS, hoặc đối tượng của hợp đồng không thể
thực hiện được vì lý do khách quan ”.
1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
1.2.1. Định nghĩa
Trong thực tế khơng ít những trường hợp nhầm lẫn, nhầm lẫn là điều hiển nhiên và
trong giao kết hợp đồng yếu tố nhầm lẫn là một sai sót nhỏ mà luật đã chuẩn bị trước
để kết luận HĐVH. Năm 1995 Pháp lệnh hợp đồng dân sự và BLDS đã đưa ra những
quy định về nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng và đây là lần đưa ra quy định đầu tiên.
Cụ thể, theo khoản 3, Điều 15 Pháp lệnh hợp đồng dân sự về HĐVH quy định “ khi
một bên hợp đồng nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng” và Theo quy định tại
điều 116 BLDS 2015 thì GDDS là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn


3


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

GDDS là một sự kiện pháp lý (có thể là từ một bên hay nhiều bên khác nhau)
làm nảy sinh những hậu quả pháp lý. Và tùy vào các giao dịch, trong những trường
hợp cụ thể khác nhau mà làm nảy sinh, thay đổi, kết thúc quan hệ pháp luật dân sự.
Giao dịch là hành vi giữa chủ thể với chủ thể , GDDS là việc làm có ý thức của chủ
thể khi tham gia giao dịch với những mục đích nhất định.
Những quy định liên quan đến vơ hiệu trong GDDS có tầm quan trọng rất lớn
với mục đích là thiết lập trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
pháp nhân và nhà nước; đảm bảo công bằng pháp lý cho các chủ thể khi tham gia giao
dịch. So với BLDS năm 2005 thì BLDS năm 2015 trong quy định về GDDS vơ hiệu
có bổ sung thêm cụm từ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Sự bổ sung
được cho là cần thiết. Trong một số trường hợp, giao dịch có thể thiếu điều kiện quy
định nhưng vẫn khơng vơ hiệu, ví dụ trong điểm a khoản 2 điều 125 BLDS 2015.
Hiện nay vẫn chưa đưa ra được định nghĩa chính xác, nên nhầm lẫn có thể được
hiểu là việc các bên giao dịch hiểu sai về nội dung mà tham gia vào giao dịch, gây ra
hậu quả cho mình hoặc đối phương, sự nhầm lẫn có thể do nhận thức, hiểu biết của
mỗi người hoặc do phán đoán sai lầm về sự việc xảy ra, sự nhầm lẫn phải cụ thể, rõ
ràng, đảm bảo khi căn cứ vào nội dung của giao dịch thì xác định được. Trong trường
hợp nhầm lẫn bị mà chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị
tun bố vơ hiệu.
1.2.2. Đặc điểm
Nhầm lẫn đã có trong BLDS nhưng vẫn chưa được định nghĩa một cách chính xác
nên khơng dễ để có thể xác định được sự tồn tại của nhầm lẫn. Nhầm lẫn trong ngôn

ngữ pháp lý là sự khẳng định khơng chính xác về cái có thật ( nhầm cái sai sự thật là
cái có thật và nhầm sự thật là sai). Nhầm lẫn là sự khác biệt giữa việc một bên là sự
nhận thức vấn đề và một bên thực tế của vấn đề. Ví dụ, chị C mua lại máy tính của anh
D với giá 10 triệu, do anh D mua từ một người khác nữa, nhưng cả chị C và anh D đều
không biết rằng đây là máy tính do ăn trộm. Điều này có nghĩa là bên mua có sự nhận
thức về cái máy tính khác với thực tế mà họ biết. Vì vậy bất kỳ sự khác nhau nào giữa
nhận thức và thực tế đều cũng có thể được coi là nhầm lẫn và phải tồn tại ở thời điểm
Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

4


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

xác lập giao dịch. Tuy nhiên phải phân biệt được nhầm lẫn khác với sự giả tạo. Trong
nhầm lẫn thì người xác nhận hợp đồng không biết được sự thật nên hiểu sai cịn giả tạo
là biết việc đó khơng đúng mà cố ý lờ đi xem như không biết. Việc nhầm lẫn hay giả
tạo cũng khó để phân biệt vì nó thể hiện ở bên trong ý thức của mỗi người.
Bên cạnh sự nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng thì cịn có rất nhiều trường hợp
về việc nhầm lẫn của chủ thể. Ví dụ, bà B khi ký hợp đồng với nhà hàng nổi tiếng tên
D nhưng vơ tình ký nhầm với nhà hàng khác cũng có cùng tên để tổ chức cho một sự
kiện của công ty, ở đây bà B nhầm lẫn về chủ thể và bên công ty mà bà ký cũng khơng
biết đó là sự nhầm lẫn của bà B. Đây là trường hợp một bên có thể nhầm lẫn mà khơng
do lỗi của bên kia, có nghĩa là bên kia hồn tồn khơng có.
Ngồi ra cũng khơng có quy định về việc sự nhầm lẫn đó là do chính bên bị
nhầm lẫn gây ra, ví dụ như sự cẩu thả của công ty A về lơ hàng nhập vào khiến cho
cơng ty bị lỗ thì đó chính do bản thân cơng ty họ phải gánh chịu.
Trong lừa dối cũng có yếu tố của nhầm lẫn. Bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa dối

đều như nhau là hiểu sai về chủ thể, nội dung, sự việc...nên đã xác lập giao dịch. Vì
vậy để tuyên bố HĐVH do lừa dối thì phải chứng minh sự nhầm lẫn phải do hành vi
cố ý của bên kia gây ra. Việc tuyên bố HĐVH trong trường hợp này cần phải được
làm rõ đưa ra chứng cứ và do thẩm phán xử lý. Việc tun bố HĐVH khơng phải là
hình thức được ưu tiên vì mục đích của việc xác lập hợp đồng là đem lại lợi ích hợp
pháp và bảo vệ quyền lợi cho các bên, cho nên tòa án khơng nên loại bỏ hợp đồng
nếu như vẫn có giải pháp khắc phục.
Ngoài ra quy định này chỉ cho phép vô hiệu nếu bên nhầm lẫn yêu cầu mà bên kia
khơng chấp nhận. Bên khơng chấp nhận có khả năng thay đổi nhưng trong trường hợp
không thay đổi được thì mới có quyền u cầu tun bố vơ hiệu. Ví dụ : chiếc xe máy
do ăn cắp thì cả hai bên là bên mua và bên bán không thể thay đổi được, không thể
biến chiếc xe máy do ăn cắp thành chiếc xe máy hợp pháp, mặc dù cả 2 đều mong
muốn như vậy
1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

5


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

Hợp đồng là sự thoả thuận mà dựa trên nguyên tắc tự do, khơng do ai bắt buộc hay
vì lý do gì. Thế nhưng trong thực tế sẽ có những trường hợp mà các chủ thể trong ký
kết không xuất phát từ sự tự nguyện. Trường hợp này gọi là hợp đồng được ký kết trái
nguyên tắc tự do tự nguyện thỏa thuận ( những trường hợp có thể là nhầm lẫn, lừa dối,
ép buộc,...). Theo quy định của pháp luật thì nhầm lẫn có thể được coi là căn cứ để yêu
cầu toà án tuyên bố HĐVH. Nhầm lẫn được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, ở
nhiều khía cạnh khác nhau và tùy vào pháp luật của nhiều nước khác nhau. Có quan

điểm cho rằng, nhầm lẫn là trường hợp: hợp đồng được ký kết nhưng nhận định của
một hay nhiều bên là khơng đúng vì nhiều lý do khác nhau (có thể do các bên chưa
đưa ra thỏa thuận đầy đủ và rõ ràng, hoặc do sự bất cẩn, trình độ kém, cũng có thể là
sự chủ quan do quá tự tin). Theo ý kiến khác, nhầm lẫn có nghĩa là hợp đồng được ký
kết nhưng không đưa ra đúng ý chí của các bên, khơng có khả năng mang lại kết quả
mà các bên mong muốn tại thời điểm ký kết hợp đồng. Theo pháp luật của Việt Nam
hiện nay, quy định nhầm lẫn về nội dung mà không quy định nhầm lẫn về chủ thể. Mặc
dù trong nội dung pháp luật không quy định cụ thể, nhưng ta biết được rằng sẽ có rất
nhiều vấn đề gặp phải trong nội dung, ví dụ: đối tượng của hợp đồng, tính chất của
hàng hố, cơng việc,...Theo như pháp luật của nhiều nước thì việc xác định một sự
nhầm lẫn là nghiêm trọng hay không nghiệm trọng phụ thuộc vào từng trường hợp,
hoàn cảnh, khả năng nhận thức của các chủ thể khác nhau,… Ở Việt Nam, nhầm lẫn có
hiệu lực nếu nó giúp cho bên bị nhầm lẫn ký hợp đồng. Và chỉ xem xét khi nó là cơ sở
duy nhất, cịn trong trường hợp có khả năng ký với những điều kiện khác thì nó khơng
cịn là động lực chủ yếu trong nhầm lẫn. Nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý trong trường
hợp có liên quan đến đặc tính mà các bên đạt được sự thỏa thuận một cách trực tiếp.
Nguyên nhân và việc xác định lỗi của mỗi bên cần xem xét thận trọng. Nhầm lẫn thì
phải là do lỗi vơ ý, tức là sẽ khơng có sự nhầm lẫn nếu như khơng có lỗi của bên nào
gây ra, trong trường hợp nếu có thì sẽ khơng có ý nghĩa pháp lý, cũng sẽ khơng có căn
cứ để yêu cầu tuyên bố HĐVH.
Nhằm đảm bảo sự ổn định trong các GDDS, nhà làm luật chỉ chấp nhận trong một
số trường hợp nhất định khi nhầm lẫn là nguyên nhân khiến HĐVH. Dựa vào nguyên
nhân, ta thường chia sự nhầm lẫn thành ba loại:

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

6


Nhóm 9


Lý luận nhà nước và pháp luật

- Nhầm lẫn về bản chất hợp đồng ( ví dụ: bà B nhờ bà C giữ hộ một số tiền, nhưng
bà C nghĩ là cho mượn).
- Nhầm lẫn về đối tượng của nghĩa vụ của hợp đồng (ví dụ: 2 bên ký kết hợp đồng
cùng thuê bàn ghế, bên C nghĩ là nhà hàng M trong khi bên D nghĩ sẽ thuê nhà hàng
N).
- Nhầm lẫn về các yếu tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới sự thỏa thuận của các
bên (thực chất, ở đây muốn nói tới nhầm lẫn về một động cơ nào đó khiến một người
muốn ký kết hợp đồng). Ví dụ: khách hàng mua cái cây chỉ vì anh ta nhầm tưởng đó là
cây q, đó là tự anh ta nhầm tưởng nên chỉ có thể yêu cầu tuyên bố HĐVH nếu anh
ta đã hỏi rõ chủ trước khi mua.
1.4. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vơ hiệu do nhầm lẫn
Có nhiều lý do dẫn đến việc hợp đồng bị vô hiệu. Hậu quả pháp lý khi HĐVH do
bị nhầm lẫn khơng thể giống hồn toàn với hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị vơ hiệu vì
những lý do khác. Trong khi đó, BLDS năm 2015 quy định hậu quả pháp lý khi
HĐVH cho mọi trường hợp là như nhau.
Điều 131 BLDS 2015 đã quy định về hậu quả pháp lý của HĐVH như sau:
Thứ nhất, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên khi giao kết hợp đồng.
Kể từ thời điểm giao kết, hợp đồng bị vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên. Nếu thực hiện mới được xác lập, chưa
thực hiện thì các bên khơng thực hiện. Nếu các bên đang thực hiện thì phải dừng thực
hiện. Pháp luật không thừa nhận, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên khi HĐVH,
ngay cả khi các bên đã hoàn thành giao dịch.
Thứ hai, các bên phải thiết lập lại tình trạng như ban đầu, trả lại những gì đã nhận
của nhau, nếu khơng dùng hiện vật để trả thì có thể quy đổi thành tiền

Hợp đồng vơ hiệu do nhầm lẫn


7


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

Thứ ba, bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng phải hồn trả lại hoa
lợi, lợi tức đó
Theo khoản 2 Điều 137 BLDS năm 2005 thì khi GDDS vơ hiệu phải hồn trả lại
hoa lợi, lợi tức. Trong khi đó, trước lúc giao dịch được xác lập thì chưa tồn tại hoa lợi,
lợi tức, nếu bên nhận phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức cho bên giao thì tài sản đã nhiều
hơn ban đầu. Do đó BLDS năm 2015 đã có điều chỉnh về việc trả lại hoa lợi, lợi tức
phụ thuộc vào sự ngay tình hay khơng ngay tình của bên nhận tài sản cũng như các
quy định về hồn trả tài sản do chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật.
Thứ tư, bên gây ra lỗi, thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường theo quy định:
Theo nguyên tắc, người gây ra thiệt hại thì phải đền bù. Tuy nhiên, trong thực tế,
có thể tồn tại lỗi của một bên hoặc lỗi của hai bên. Nếu tồn tại lỗi của hai bên thì phải
xem xét mức độ của các bên để quy ra trách nhiệm bồi thường tương ứng
HĐVH do nhầm lẫn là việc các bên hiểu không đúng về nội dung, hay chủ thể của
giao dịch mà khi bên tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho chính mình hoặc cho đối
phương. Theo đó, sự nhầm lẫn có thể xuất phát từ nhận thức của các bên, căn cứ vào
nội dung của hợp đồng phải xác định được sự nhầm lẫn.
Tại khoản 1 Điều 126 BLDS 2015 quy định rằng bất kể lỗi của bên nào gây ra
cũng đều có thể dẫn đến HĐVH. Trường hợp sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các
bên khơng đạt được mục đích của việc xác lập hợp đồng thì bên bị nhầm lẫn có quyền
u cầu Tịa án tun bố GDDS vơ hiệu. Cịn nếu như các bên đã thỏa thuận được
mục đích của hợp đồng hoặc sự nhầm lẫn khơng đáng kể thì hợp đồng sẽ không bị
tuyên bố là vô hiệu, theo khoảng 2 điều 126 BLDS 2015.


Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

8


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

Phần 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN LIÊN QUAN ĐẾN
HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU DO NHẦM LẪN
2.1. Thực trạng về những vấn đề liên quan đến HĐVH do nhầm lẫn

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

9


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

Các quy định của hệ thống Pháp luật Việt Nam đều nhằm mục đích là duy trì sự ổn
định của trật tự xã hội, đảm bảo lợi ích chung cho cộng đồng, cũng như quyền và
nghĩa vụ hợp pháp của các chủ thể tham gia hợp đồng. Tuy nhiên, các quy định về
HĐVH nói chung và HĐVH do nhầm lẫn vẫn cịn nhiều vướng mắc.
BLDS năm 2015 là bộ luật có sự thay đổi, bổ sung từ BLDS năm 2005. Sau khi đã
có sự thay đổi, bổ sung đó, cả hai BLDS 2015 và BLDS 2005 đều khẳng định rằng
nhầm lẫn là yếu tố dẫn đến HĐVH, tuy nhiên lại không nêu khái niệm như thế nào là

nhầm lẫn. Chúng tơi có một ví dụ cụ thể như sau:
Ngày 22/9/2005, ơng T và ông H giao kết hợp đồng thuê nhà với điều khoản: Ơng
H cho ơng T th tồn bộ căn nhà 4A6 Cư xá 307, phường 25, quận Bình Thạnh, hàng
tháng tiền thuê là 5.000.000 đồng, trả 3 tháng 1 lần và đặt cọc trước 3 tháng. Một thời
gian sau, hai bên xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp. Lúc này, tòa án cho rằng căn nhà đó
do cha mẹ ơng H là chủ sở hữu. Khi mất họ không viết di chúc và bà Tr, bà A ( những
người thừa kế theo quy định) cũng không ủy quyền cho ông H. Do đó, việc ơng H cho
ơng T th căn nhà và ký nhận đặt cọc thuê căn nhà đó là GDDS vơ hiệu do bị nhầm
lẫn. Có lẽ đã có sự nhầm lẫn về chủ thể cho thuê tài sản ở đây, vì ơng H chỉ là 1 trong
3 người thừa kế, bà Tr và bà A không thể hiện việc chấp nhận cho th ngơi nhà
đó [7].
Tuy nhiên, ngày 19/9/2005, ơng H có trình bày rằng ơng T đến nói về chuyện th
nhà, ơng nói rõ với ơng T về tình trạng căn nhà hiện tại (vẫn do cha mẹ ơng H đứng
tên) . Ơng T đồng ý và đặt cọc 100 USD, hẹn đến ngày 22/9/2005 bắt đầu xác lập giao
dịch. Ông H đã đưa đủ giấy tờ liên quan đến ngơi nhà và giao chìa khố nhà cho ơng
T, giao dịch coi như có hiệu lực. Theo như ông H đã khai, mặc dù ông T biết ông H
không phải chủ sở hữu ngôi nhà nhưng ông vẫn chấp nhận thuê, tức là trong nhận thức
của ông T đã biết rõ về tình trạng của ngơi nhà, sự nhầm lẫn là hồn tồn khơng có
[7].
Việc Tịa án áp dụng điều luật về nhầm lẫn là không hợp lý. Có lẽ, Tịa đã hơi vội
khi xác định hợp đồng bị nhầm lẫn, tuy nhiên trong BLDS không hề định nghĩa khái
niệm này.
Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

10


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật


Theo quy định BLDS năm 2015 thì GDDS do nhầm lẫn được hiểu là việc các bên
hiểu không đúng về nội dung của GDDS mà khi bên tham gia vào giao dịch gây thiệt
hại cho mình hoặc cho bên kia. Vậy, pháp luật hiện hành chỉ quy định nhầm lẫn về nội
dung mà không quy định nhầm lẫn về chủ thể. Trong thực tế, có vài ví dụ về nhầm lẫn
về chủ thể tham gia hợp đồng, cụ thể như sau:
Ngày 21/4/2006, bà K và ơng T có ký hợp đồng hợp tác thành lập Công ty cổ phần
đầu tư thẩm mỹ Xuân Trường, địa chỉ tại 139AB Nguyễn Trãi, quận 1, TP.Hồ Chí
Minh. Bà K góp vốn bằng ngơi nhà 139AB Nguyễn Trãi, quận 1, TP.Hồ Chí Minh,
ơng T góp vốn bằng tiền đầu tư thành lập công ty, sửa chữa mặt bằng. Tuy nhiên sau
khi công ty đi vào hoạt động, đầu tháng 7/2006, bà K tự ý cho công ty dừng hoạt động,
cất giấu toàn bộ hồ sơ giấy phép, dấu mộc của công ty, ngừng hợp đồng với ông T
trước thời hạn, và không cho nhân viên của ông T làm việc. Nhận thấy bà K vi phạm
hợp đồng gây ảnh hưởng đến quyền lợi của mình, ơng T khởi kiện bà K yêu cầu đền
bù thiệt hại. Sau thời gian xem xét, Tòa án đã tuyên hợp đồng hợp tác giữa ông T và bà
K là HĐVH do nhầm lẫn, nhầm lẫn ở đây là việc ông T khơng phải là bác sĩ phẫu
thuật thẩm mỹ, khơng có bằng cấp chun mơn. Tịa án đã khẳng định rằng vì nguyên
đơn cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng nên giao dịch bị tuyên bố
vô hiệu [8].
Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng bà K nghĩ ông T là bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ nên
mới giao kết hợp đồng, tức là có sự mâu thuẫn giữa nhận thức và thực tế ,và đây là
nhầm lẫn về chủ thể chứ không phải là nhầm lẫn về nội dung như nhận định của Tòa
án [8].
Nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng là sự nhầm lẫn của một hoặc hai bên chủ thể
tham gia hợp đồng. Việc xác lập chủ thể chính xác vơ cùng cần thiết, không những
giúp hợp đồng được thực hiện một cách dễ dàng mà cịn có thể xác định quan hệ tranh
chấp phát sinh (nếu có) sau này.
2.2. Giải pháp hoàn thiện liên quan đến HĐVH do nhầm lẫn

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn


11


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

Qua phân tích các ví dụ trên, chúng tơi xin đưa ra một số kiến nghị với mục đích
hồn thiện những bất cập trong vấn đề “ nhầm lẫn dẫn đến HĐVH ” như sau:
Thứ nhất, cần bổ sung khái niệm nhầm lẫn trong BLDS.
Thực tế cho thấy, nhầm lẫn là sự mâu thuẫn trong nhận thức một vấn đề. Bất kỳ sự
khác biệt nào giữa nhận thức và thực tế đều có thể được xem là nhầm lẫn. Trên thực tế
vẫn tồn tại trường hợp một bên nhận thức rõ thực tế vấn đề và khơng có sự nhầm lẫn
nhưng lại được Tòa án tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn. Tòa án đã có phần thiếu cơ sở
pháp lý để đưa ra phán quyết này. Thơng qua tình huống ví dụ đã nêu ở trên, luật pháp
nên bổ sung khái niệm nhầm lẫn trong BLDS. Ta có thể tham khảo bộ nguyên tắc
Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế để chỉnh sửa BLDS: “Nhầm lẫn là sự nhận
thức nhầm liên quan tới các sự kiện hoặc về pháp luật đang tồn tại khi hợp đồng được
giao kết.”
Thứ hai, cần bổ sung thêm đối tượng của nhầm lẫn, bao gồm nhầm lẫn về nội dung
và chủ thể. BLDS chỉ giới hạn nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng, thế nhưng, thực tế
có trường hợp tịa án tun bố HĐVH do nhầm lẫn về chủ thể. Để những phán quyết
của Tòa án có đủ cơ sở pháp lý đối với các trường hợp trên, BLDS nên thêm quy định
nhầm lẫn về chủ thể đối với HĐVH.
Hiện nay trên thế giới có nhiều quốc gia đang sử dụng hệ thống luật pháp quy định
rõ HĐVH do nhầm lẫn về chủ thể. Điển hình như BLDS Pháp cho phép tuyên bố
HĐVH do nhầm lẫn về chủ thể, nếu đó là nhầm lẫn về những yếu tố quan trọng của
đối tác và nhân thân của đối tác có vai trị quan trọng với quyết định kết giao hợp
đồng.

Thơng qua phân tích các trường hợp thực tiễn ở Việt Nam và so sánh với BLDS
Pháp, chúng ta cần bổ sung quy định nhầm lẫn về chủ thể: một bên có quyền u cầu
Tịa án tun bố HĐVH do nhầm lẫn về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng.

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

12


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

KẾT LUẬN
Trong bài tiểu luận này, để thống nhất các nhận thức trong tất cả quy định của
pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn cũng như làm rõ, minh bạch các trường hợp đó một
cách cụ thể, dễ hiểu, khơng chỉ được ban hành qua BLDS Việt Nam năm 2005 hay
2015 mà còn trong một số văn bản, quy định pháp luật hiện hành của nhiều nước khác
trên thế giới. Nhóm chúng tơi đã đi từ việc giải thích, nêu rõ các khái niệm, các nhận
định pháp luật cho đến phân tích, đi sâu vào các đặc điểm của đề tài.
Ngồi việc tìm hiểu các vấn đề lý luận ví dụ như quy định, hậu quả… về HĐVH
do nhầm lẫn. Bên cạnh đó trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng tôi cũng triển khai,
lồng ghép vào các trường hợp thực tiễn có liên quan đến vấn đề cần khai thác và nhận
ra được thực trạng đáng lưu tâm ngày nay. Qua đó, để tìm và đưa ra các điểm cịn
nhiều khúc mắc trong những quy định, quy chế của pháp luật hiện hành cũng như
những hạn chế trong các hoạt động công tác của cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể như
có một số quy định cịn mang tính chung chung, khơng thống nhất và bao quát được
các trường hợp, các quy chế có phần khó hiểu và cịn cứng nhắc, thiếu sót. Ví dụ như
pháp luật hiện hành chỉ quy định nhầm lẫn về nội dung mà không quy định nhầm lẫn
về chủ thể, hay vẫn còn tồn tại những quy định chưa rõ ràng, chưa thỏa mãn với thực

tiễn cuộc sống .... Cùng với đó, đường lối và các giải pháp để giải quyết những tranh
chấp trong quá trình vướng phải HĐVH do nhầm lẫn cịn có q nhiều “nút thắt”, chưa
đảm bảo được sự công bằng, quyền và lợi ích hợp pháp cũng như cho các bên chủ thể
sự tin tưởng thỏa đáng. Vì thế, việc áp dụng, sử dụng pháp luật cịn phải đối mặt với
những khó khăn, không chuẩn xác.
Nhận thấy được thực trạng vô cùng cấp bách đó, các quy định về “ HĐVH do
nhầm lẫn” cần sớm được nâng cao, cải thiện và hoàn thành để tạo ra tính khả thi, bao
quát dễ hiểu và phù hợp với thực tiễn cũng như điều kiện cuộc sống. Hơn nữa, còn
phải tạo tiền đề, “bàn đạp” vững chắc để vai trò của hợp đồng được phát huy một cách
tối đa trên nền kinh tế thị trường. Với mong muốn được góp phần vào khắc phục
những hạn chế, ở phần cuối cùng mục nội dung, nhóm chúng tơi đã nêu ra một số giải
pháp, kiến nghị vô cùng rõ ràng từ góc độ xây dựng và triển khai bài luận văn.
Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

13


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Thị Diễm (2019), Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo pháp luật Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội

[2] Trịnh Tuấn Anh (2019), Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn - Thực trạng và hướng

hoàn thiện, Tạp chí Tồ án nhân dân điện tử, < truy cập ngày 03/01/2022


[3] Phạm Thị Hồng Mỵ (2015), Cần bổ sung khái niệm nhầm lẫn và nhầm lẫn về

chủ thể vào dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Wiki Luật,
< truy cập ngày 03/01/2022

[4] Đỗ Văn Đại (2010), Nhầm lẫn trong chế định hợp đồng: những bất cập và hướng
sửa đổi Bộ luật Dân sự phần 2, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
< > truy cập ngày 03/01/2022

[5] Dương Anh Sơn (2017), Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo Bộ Luật Dân sự năm
2015, Thế giới Luật, < truy cập ngày 12/01/2022

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

14


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

[6] Bạch Thị Thu Hà và nkk. (2017), Đề tài nghiên cứu Pháp luật căn bản về hợp
đồng, Thế giới Luật, < truy cập
ngày 11/01/2022

[7] Bản án số 702/2016/TLST-KDTM ngày 16/10/2006 "V/v tranh chấp giữa
thành viên Cơng ty về hợp đồng góp vốn” của Tịa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh

[8] Bản án số 97/2007/DS-PT ngày 19/01/2007 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ

Chí Minh

[9] Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự năm 2005

[10] Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015

[11] Đỗ Văn Đại (2009), Nhầm lẫn trong chế định hợp đồng: những bất cập và hướng
sửa đổi Bộ luật Dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Thế giới Luật
< truy cập ngày 11/01/2022

[12] Dương Anh Sơn (2011), Quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm
lẫn và vấn đề nâng cao giải thích pháp luật của thẩm phán, Tạp chí Khoa học
Pháp lý Việt Nam, Trường Đại học Luật TP.HCM

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

15


Nhóm 9

Lý luận nhà nước và pháp luật

[13] Vũ Thị Minh Hiền & Khổng Xuân Thành (2020), Pháp luật về hợp đồng và
giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh, Sở tư pháp tỉnh Tuyên
Quang, tr. 13-15

[14] EFY- eCONTRACT (2021), Hợp đồng vơ hiệu là gì? Phân loại và hậu quả

pháp lý khi hợp đồng vô hiệu, < truy cập ngày 07/01/2022


[15]HTC-Việt Nam, Phân biệt hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương,
< truy cập ngày 07/01/2022

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

16



×