1
MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu.......................................................................................................1
2. Nội dung....................................................................................................3
I. Kinh tế thị trường và đạo đức xã hội........................................3
II. Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức...................5
III. Thực trạng và nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức của
một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.....................................11
IV. Tính tất yếu và giải pháp xây dựng, nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên..........................................................14
3. Kết luận....................................................................................................17
2
1. MỞ ĐẦU
Sau đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những phát triển mạnh mẽ
trên mọi phương diện của nền kinh tế. Chúng ta đang cố gắng xây dựng một
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, một nền kinh tế thị trường đầy đủ
có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Sự thay đổi đời sống kinh tế, xã hội nước ta sang
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang dẫn đến những thay đổi trong
đời sống đạo đức xã hội nói chung và đạo đức cách mạng nói riêng..
Đạo đức cách mạng hay đạo đức của người cách mạng có vai trị rất
quan trọng đối với người cách mạng. Trước đây Khổng Tử nói: “Đức là cốt
của quân tử”. Các Mác khẳng định: “Đức là chất của người Cộng sản”. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đức là gốc của người cách mạng. Theo Người:
- Đức là cơ sở của trí, giúp người cách mạng giác ngộ, trung thành với
lý tưởng cách mạng.
- Đức là cơ sở của tài giúp con người hướng thiện.
- Đạo đức còn là động lực mạnh mẽ, là sức mạnh vô tận để người cách
mạng chiến thắng mọi khó khăn cám dỗ, hồn thành nhiệm vụ của mình
(Giàu sang không thể quyến rũ, uy vũ không thể khuất phục).
Đạo đức cách mạng đối với người cách mạng là một sự đòi hỏi tất yếu
như là một chân lý khách quan, mà mỗi người cách mạng cần thấy và hiểu rõ:
“Như sơng phải có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn, cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo, người cách mạng phải có đạo đức,
khơng có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”.
Hiện nay, sự suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên chưa
được ngăn chặn đẩy lùi, biểu hiện cụ thể trên các mặt: Thối hóa biến chất về
3
chính trị, tư tưởng. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên có chiều hướng gia tăng. Tham nhũng, quan liêu lãng phí, sách
nhiễu dân, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vi phạm nghiêm trọng,
kéo dài chưa được chưa được ngăn chặn đẩy lùi. Tình trạng chạy chức, quyền,
bằng cấp vẫn cịn. Khơng trung thực giữa nói và làm, lối sống cơ hội, thực
dụng. Suy thối đạo đức gia đình nghề nghiệp.
Thực trạng suy thối đạo đức xã hội nói chung, đạo đức cách mạng nói
riêng hiện nay đặt ra câu hỏi: Phải chăng sự suy thối đó là hậu quả của sự
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường? Có hay khơng những tác động tích
cực của kinh tế thị trường tới đạo đức xã hội?...
Xuất phát từ các vấn đề nêu trên, học viên chọn đề tài ”Quan hệ giữa
kinh tế thị trường định hướng XHCN và đạo đức cách mạng” làm Tiểu luận
thu hoạch trong khối kiến thức chuyên đề bổ trợ thuộc chương trình đào tạo
cao cấp lý luận chính trị ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
4
2. NỘI DUNG
I. Kinh tế thị trường và đạo đức xã hội
1.1 Vấn đề kinh tế thị trường
a, Kinh tế thị trường (KTTT):
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị
trường với quy luật giá trị giữ vai trò chi phối và được thể hiện bằng quan hệ
cung cầu trên thị trường.
Định nghĩa khác: Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hố đạt đến
trình độ xã hội hố cao và trình độ kỹ thuật cao, trong đó tồn bộ hay hầu hết
đầu vào hay đầu ra của sản phẩm đều phải thông qua thị trường.
b, Sự thay đổi quan niệm về nền kinh tế thị trường
* Quan niệm trước đây: Coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của
chủ nghĩa tư bản. (còn ở CNXH là nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung)
* Quan niệm hiện nay:
+ Khẳng định, kinh tế thị trường là thành tựu chung của nền văn minh
nhân loại.
Bản thân KTTT chỉ là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, ra
đời trước CNTB và phát triển cao ở CNTB.
Trên thế giới đã trải qua các mơ hình kinh tế trong lịch sử kinh tế như:
Kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp; kinh tế hàng hoá (phát triển qua 3 giai đoạn:
kinh tế hàng hoá giản đơn - KTTT sơ khai (thời kỳ XH nô lệ, phong kiến);
KTTT tự do (thời kỳ từ XVII đến nửa đầu XX), nền kinh tế vận hành dưới
điều tiết của "bàn tay vơ hình" - các quy luật kinh tế mà khơng có sự can thiệp
của nhà nước; KTTT hiện đại (từ giữa XX đến nay) vận hành dưới sự điều tiết
5
của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế. Đây là mơ
hình kinh tế phổ biến ở các nước trên thế giới hiện nay.
Quan niệm của Đảng ta tại ĐH VIII khẳng định: kinh tế thị trường là
“thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết
cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng” (Văn
kiện ĐH VIII, tr.97). Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Để đi lên
CNXH, chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” (Văn kiện ĐH X, H, 2006, tr.18). Đại hội XI nhấn mạnh “Tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là tiền đề quan trọng
thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mơ hình tăng trưởng, ổn
định kinh tế vĩ mô, là một trong 3 đột phá chiến lược trong 10 năm tới” Văn
kiện ĐH XI, H, 2011, tr.34)
1.2 Vấn đề đạo đức và Đạo đức cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm
tin cá nhân, bởi truyền thống của dân tộc và bởi sức mạnh của dư luận xã hội.
Khái quát về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội: Đạo đức là một
hiện tượng xã hội, do đó, nó mang bản chất xã hội. Đạo đức gắn liền với con
người và xã hội loài người. Ngay khi xã hội lồi người mới hình thành đã cần
có sự tồn tại của đạo đức để điều chỉnh hành vi con người nhằm đảm bảo sự
tồn tại của cộng đồng.
- Chức năng cơ bản của đạo đức là điều chỉnh hành vi con người. Đạo
đức đòi hỏi mỗi người phải điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với
những nguyên tắc, chuẩn mực được xã hội thừa nhận.(So sánh với sự điều
chỉnh hành vi bằng pháp luật: pháp luật điều chỉnh bằng sự ngăn cấm và
6
cưỡng bức; đạo đức điều chỉnh bằng dư luận xã hội và lương tâm. VD: Hành
vi ăn cắp có thể không bị luật pháp xử lý nhưng sẽ bị đạo đức lên án...)
Đạo đức là một trong những tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ của xã hội.
Khi hành vi con người càng được điều chỉnh bằng đạo đức nhiều hơn bằng
pháp luật thì xã hội càng phát triển.
Đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách mạng, là nền tảng của
con người cách mạng. Đạo đức cách mạng là gốc, là nền, là cái tạo ra những
cái khác, cái mà những cái khác dựa vào nó để phát triển. Đạo đức cách mạng
vừ là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng, đưa cách mạng đền
thắng lợi. Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là thước đo
lòng cao thượng của mỗi con người. Mỗi người có một cơng việc, một nhiệm
vụ, dù to hay nhỏ nhưng cứ giữ được đạo đức cách mạng thì là người cao
thượng. Người viết: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội là một công việc nặng nề nhưng rất vẻ vang, mỗi người mà khơng có đạo
đức thì tự mình đã khơng có căn bản, đã hư hóa xấu xa thì làm nổi việc gì?
Đảng viên, cán bộ phải là người có đạo đức cách mạng, phải tiêu biểu cho trí
tuệ, lương tâm, danh dự của cả dân tộc, cả thời đại. Không thể viết lên trán hai
chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến, quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách đạo đức.
Đạo đức cách mạng là đạo đức tiên tiến góp phần xóa bỏ xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
II. Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức
2.1. Một số quan niệm về mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức
a, Thuyết "trả giá" và thuyết "trượt dốc"
7
Những thuyết này chỉ nhìn thấy ảnh hưởng tiêu cực của KTTT tới đạo
đức. Thuyết “trả giá” khẳng định: Sự phát triển của kinh tế trong nền KTTT
phải được trả giá bằng sự suy đồi của đạo đức.
Giống như thuyết "trả giá", thuyết "trượt dốc" tuyệt đối hoá ảnh hưởng
tiêu cực của KTTT tới đạo đức: Sự chuyển sang KTTT sẽ gây ra sự trượt dốc
về lĩnh vực đạo đức xã hội (Biểu hiện ở sự gia tăng các hiện tượng tiêu cực
trong xã hội: hàng giả, lừa đảo, tham nhũng, gian lận thương mại, vô trách
nhiệm với cộng đồng...)
c, Thuyết "leo dốc"
Thuyết này khẳng định: Xét về tổng thể, việc xây dựng và phát triển
KTTT có xu hướng nâng cao trình độ đạo đức của xã hội vì khi tham gia thị
trường, con người được tự do và bình đẳng trong cạnh tranh, giữ chữ tín trong
trao đổi...Những hiện tượng tiêu cực chỉ là những trạng thái đi kèm với sự vô
trật tự trong buổi ban đầu của KTTT. Đến giai đoạn phát triển, khi nền KTTT
từng bước được kiện toàn, các hành vi phi đạo đức trên sẽ bị loại bỏ. Do vậy,
KTTT hồn tồn có tác động tích cực đến đạo đức.
d, Thuyết "chữ U ngược"
Thuyết này cho rằng, ở giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế thì sự
khơng cơng bằng gia tăng, đến khi tăng trưởng đạt mức cao thì nó lại làm cho
mất cơng bằng giảm đi...
2.2. Thực chất của mối quan hệ KTTT- đạo đức
a, Tác động của KTTT tới đạo đức
* KTTT tác động làm biến đổi mối quan hệ giữa lợi ích và đạo đức
- Trong các xã hội tiền thị trường, lợi ích, đặc biệt là lợi ích cá nhân, lợi
ích vật chất dường như đối lập với đạo đức. Trong quan niệm Nho giáo, con
8
người tìm ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc ở sự nhường nhịn, giúp đỡ, hy sinh
cho người khác. Khổng Tử nói, quân tử cầu nghĩa, tiểu nhân cầu lợi. Trọng
nghĩa, khinh tài (coi trọng việc nghĩa, coi thường tiền tài, vật chất) là định
hướng đạo đức và là thước đo giá trị phổ biến trong xã hội truyền thống.
Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, nghĩa vụ
của con người đối với cộng đồng được đề cao đến mức tuyệt đối hố, con
người ln được định hướng bởi giá trị tập thể, giá trị cộng đồng. Chuẩn mực
giá trị và những yêu cầu đạo đức đòi hỏi con người phải hy sinh tối đa cho lợi
ích xã hội, hướng tới hành động mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, cái cá nhân bị
che lấp bởi cái cộng đồng nên làm mất động lực phát triển. Tất nhiên, trong
điều kiện chiến tranh, điều này là cần thiết).
- Trong nền KTTT, có sự cơng khai thừa nhận và khuyến khích thực
hiện lợi ích cá nhân. Cá nhân thực hiện những lợi ích chính đáng của mình mà
khơng ảnh hưởng đến ích cộng đồng hoặc của những cá nhân khác. Do vậy,
những lợi ích cá nhân này khơng đối lập với đạo đức.
* KTTT chứa đựng các khả năng tác động tích cực đến đạo đức
- Trong nền KTTT, con người buộc phải tuân thủ các nguyên tắc, quy
tắc pháp luật trong hoạt động kinh tế. Từ đó, họ sẽ mở rộng thói quen này
sang các hoạt động ngồi kinh doanh. Điều này sẽ góp phần làm cho đạo đức
xã hội phát triển như: Trong kinh doanh phải giữ chữ tín, là một chuẩn mực
của đạo đức cũng như trong cuộc sống thường ngày.
- KTTT phát triển sẽ cho nhiều hoạt động trở thành hoạt động nghề
nghiệp từ đó hình thành và phát triển đạo đức nghề nghiệp. Điều này cũng
góp phần làm cho đạo đức xã hội phát triển.
- Sự phát triển KTTT mà gắn liền với nó là tăng trưởng kinh tế và tiến
bộ cơng nghệ đã tạo ra nhiều điều kiện cho sự phát triển con người.
9
+ Để có thể tồn tại và phát triển trong nền KTTT, con người phải phát
triển về lý trí và ý chí. Đây chính là những thành tố cơ bản tạo cơ sở cho hành
vi nói chung và các hành vi đạo đức nói riêng.(Con người càng có hiểu biết
thì càng có khả năng thực hiện nhiều hơn và có hiệu quả hơn những hành vi
đạo đức. Xocrat: Tri thức chính là đạo đức)
+ Sự vận hành nền KTTT địi hỏi mở rộng dân chủ và hoạt động có
hiệu quả của nhà nước pháp quyền. Đây chính là cơ sở để con người phát
triển nhân cách của mình. (Khơng có dân chủ, con người sẽ khơng thể trung
thực, nói đúng điều mình nghĩ.
- KTTT tạo cơ chế khuyến khích sự phát triển của tự do và bình đẳng
giữa các cá nhân do đó, tạo cơ sở cho những quan niệm về bình đẳng, cơng
bằng trong quan hệ xã hội.
* KTTT chứa đựng khả năng tác động tiêu cực đến đạo đức
- KTTT khuyến khích lợi ích cá nhân. Điều này sẽ dẫn đến việc con
người tuyệt đối hố lợi ích cá nhân nên dễ vi phạm đạo đức, vi phạm pháp
luật trong kinh doanh. Xu hướng này cũng dễ mở rộng sang các hoạt động
ngoài kinh doanh.
- Trong điều kiện của nền KTTT, giá trị của con người kinh tế được đo
bằng hiệu quả của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh. Giá trị ấy có xu
thế trở thành thước đo phổ biến của nhân cách. Trong giai đoạn trước đây, giá
trị nhân cách được đo bằng sự đóng góp cho cộng đồng, cho xã hội. Người
nào càng đóng góp cho xã hội nhiều thì càng giành được sự kính trọng cao,
cho dù họ có thể rất nghèo: Cuộc đời Hồ Chí Minh... Nhưng trong điều kiện
của nền KTTT, giá trị con người dường như được biểu hiện ở quy mô thu
nhập, ở mức độ thành đạt trong việc thực hiện lợi ích cá nhân. Đang tồn tại xu
hướng tung hơ, đề cao những người giàu có.
10
- Trong nền KTTT, khi tham gia vào thị trường, con người buộc phải
chấp nhận cạnh tranh. Quá trình cạnh tranh địi hỏi con người khơng được thụ
động, trơng chờ, ỷ lại, tự bằng lịng mà phải ln học hỏi, nỗ lực vươn lên,
khẳng định sự hiện diện của mình. Điều này giúp hình thành những tính cách
mạnh, tính năng động, tháo vát... song cũng tạo điều kiện cho sự nảy sinh thói
phơ trương hãnh tiến, kiêu căng, hợm hĩnh, tạo ra sự mâu thuẫn, không phù
hợp giữa giá trị đích thực của con người với hình thức biểu hiện ra bên ngồi
của các giá trị đó.
Như vậy, KTTT tác động tới đạo đức ở cả 2 chiều tích cực và tiêu cực
khi xem xét tác động của KTTT tới đạo đức, cần chú ý cả 2 mặt tích cực và
tiêu cực. Nếu xem xét một cách phiến diện, sẽ dẫn đến kìm hãm, bài xích
KTTT hoặc là để cho đạo đức xã hội bị xói mịn, suy thối.
b, Vai trò của đạo đức trong nền KTTT định hướng XHCN.
* Về nền KTTT định hướng XHCN
Điểm chung với nền KTTT tư bản chủ nghĩa:
- Các chủ thể kinh tế, các hoạt động sản xuất, kinh doanh được thừa
nhận và phải tuân theo yêu cầu của thị trường.
- Có sự điều tiết của nhà nước ở tầm vĩ mô bằng pháp luật, bằng hệ
thống chính sách và địn bẩy kinh tế.
Điểm khác nhau với nền KTTT tư bản chủ nghĩa.
- Về mục tiêu:
+ KTTT TBCN nhằm phát triển xã hội TBCN, đem lại lợi nhuận cho
giai cấp tư sản từ đó gây nên những mâu thuẫn xã hội.
+ KTTT định hướng XHCN nhằm phát triển xã hội XHCN, đem lại lợi
nhuận cho toàn thể nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động.
11
+ KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo.
* Vai trò của đạo đức trong nền KTTT định hướng XHCN
Vai trò của đạo đức với sự phát triển kinh tế đã được đặt ra từ
lâu, tuy nhiên, hiện nay đã mang tính thời sự cấp bách, gây ra nhiều
cuộc bàn cãi tranh luận ở trong và ngoài nước. Trong kinh doanh có cần đến
đạo đức? Phải chăng kinh tế phát triển thì trình độ đạo đức xã hộitự nhiên sẽ
được nâng cao? Các nguyên tắc đạo đức can thiệp vào kinh tế có cản trở sự
tăng trưởng kinh tế?… Vậy, thực chất vai trò của đạo đức đối với sự phát triển
kinh tế nh- thế nào đòi hỏi chúng ta phải xem xét một số khía cạnh sau:
- Đạo đức góp phần định hướng XHCN cho nền kinh tế
Nước ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền kinh tế lạc hậu, không phải là
sự công sinh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà là sự phản ánh
tổng thể các mối quan hệ biện chứng của các nhân tố xã hội chủ nghĩa. Chủ
nghĩa xã hội vừa là mục tiêu của sự định hướng, vừa hiện diện ngay từ đầu
trong sự định hướng đó với tính cách là nhân tố hợp thành, là những chồi non
đang trưởng thành và phát triển hoàn thiện đạt đến mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội. Những nhân tố đó là "Nhà nước của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng", "nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước đóng
vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng", "tăng
trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội.
- Đạo đức góp phần điều tiết các quan hệ lợi ích trong nền KTTT định
hướng XHCN
Quan hệ đạo đức gắn liền, “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội. Các
chuẩn mực đạo đức duy trì trật tự chung trong các lĩnh vực sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng, điều hoà quan hệ lợi Ých giữa con người với
12
con người. Trong các xí nghiệp thuộc kinh tế nhà nước, vấn đề đặt ra là,
làm sao cho công nhân u mến xí nghiệp mình, làm sao để họ coi trọng lợi
Ých xí nghiệp, và thành quả lao động của cơng nhân gắn bó chặt chẽ với vinh
dự xã hội và lợi Ých vật chất của họ. ở đây không chỉ là tác động của kinh tế,
chính trị mà cịn là yếu tố đạo đức nữa. Trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân,
quan hệ giữa chủ và người làm thuê cũng đặt ra nhiều vấn đề. Ngoài việc phải
tuân thủ chính sách và pháp luật của Nhà nước, giữa họ cịn có quan hệ về
mặt đạo nghĩa: tơn trọng nhân cách của người lao động, quan tâm cải thiện
điều kiện lao động và đãi ngộ phúc lợi…
Trong quan hệ giữa nhà sản xuất - kinh doanh và người tiêu dùng,
yêu cầu đạo đức nghề nghiệp, hàng hoá phải hợp quy cách, đúng chất lượng,
mẫu mã. Chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước người tiêu dùng về
hàng hoá mình bán ra, bảo đảm "hàng thực, giá đúng". Nhà doanh nghiệp
ln ln có ý thức về đạo đức trong kinh doanh, ngồi lợi nhuận chính đáng
cịn phải ln suy nghĩ, đặt vấn đề xem có nên sản xuất loại hàng này khơng?
Hàng hố này có nên đem bán ra thị trường khơng?
Như vậy, đạo đức có vai trị hết sức quan trọng và là yếu tố
bên trong của chính nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức nghề nghiệp trong kinh tế là bộ phận hợp thành quan trọng của đạo
đức xã hội chủ nghĩa, là điểm kết hợp tốt nhất cơ sở để xây dựng văn minh
vật chất và văn minh tinh thần.
III. Thực trạng và nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức của một
bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay
1.
Thực trạng đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện
nay
Nhận xét về tình trạng suy thối về đạo đức của một bộ phận cán bộ
đảng viên hiện nay, Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng đã nói rõ.
13
Hội nghị TƯ 4 (khoá XI), ngày 16-1-2012 ra nghị quyết "Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đã chỉ rõ, "đa số cán bộ đảng viên
có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức
phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng" Tuy nhiên, hiện vẫn cịn "một bộ
phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh
đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối về đạo đức, chính trị, lối
sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội,thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa,
địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, vơ ngun tắc"
1.
Ngun nhân của tình trạng suy thoái về đạo đức
a, Nguyên nhân khách quan
- Sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đơng Âu
- Tính phức tạp của thời kỳ quá độ lên CNXH
Nghị quyết TƯ 4 cũng đã chỉ rõ một số nguyên nhân khách quan:
- Do quá trình chuyển đổi quản lý kinh tế, hội nhập quốc tế, tác động từ mặt
trái của cơ chế KTTT với tính chất phức tạp mà chúng ta chưa lường hết được.
- Một bộ phận cán bộ có chức, quyền nắm trong tay khối lượng tài sản
lớn, dễ tạo điều kiện để những tiêu cực nảy sinh.
- Các thế lực thù địch ln có âm mưu chống phá.
b, Ngun nhân chủ quan
- Sự bất cập của công tác tư tưởng, lý luận;
- Do cơ chế xin-cho;
- Sự sơ hở trong chủ trương, chính sách;
- Hoạt động kiểm tra, giám sát chưa có hiệu quả.
14
Tại Hội nghị TƯ 4 cũng đã xác định các nguyên nhân:
- Một số cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí
chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân.
- Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số
nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật khơng nghiêm, nói không đi đôi
với làm, hoặc làm chiếu lệ.
- Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi
bị bng lỏng trong thực hiện.
- Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích
ứng với q trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể.
- Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa chú trọng
phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; khơng kiên
quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
- Cơng tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
nhiều khi cịn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý
chí cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm
đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm
khơng được phê phán, xử lý nghiêm minh
- Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật chưa chặt chẽ,
thường xuyên; đấu tranh với những vi phạm cịn nể nang, khơng nghiêm túc.
Vai trị giám sát của nhân dân thơng qua Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao.
15
IV. Tính tất yếu và giải pháp xây dựng, nâng cao đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
1.
Tính tất yếu
- Xuất phát từ vai trị, vị trí của cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp cách
mạng "cán bộ là cái gốc của công việc"
- Xuất phát từ thực trạng của đạo đức cán bộ, đảng viên hiện nay
- Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn hiện nay
1.
Một số giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN (trong
CNXH, khơng có nền kinh tế tự thân mà phát triển kinh tế luôn đi đôi với
phát triển văn hố, tiến bộ, cơng bằng xã hội, tạo cơ sở vật chất cho sự phát
triển của đạo đức mới)
- Phát triển kinh tế xã hội theo hướng nhanh, bền vững nhằm tạo tiền đề
vật chất để xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên:
Vấn đề phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là “con đường rút ngắn
thời gian so với các nước đi trước, phát huy tối đa những tiềm năng và lợi thế
của đất nước, gắn cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa trong từng bước, gắn
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế”. Mặt khác, “phát triển nhanh phải đi liền với
phát triển bền vững. Phát triển bền vững phải bao trùm các mặt của đời sống
kinh tế, xã hội, tức là phải gắn kết sự phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện mơi trường, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh”.
16
- Phát huy vai trị của hệ thống chính trị các cấp trong việc xây dựng
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên:
Bất kỳ tổ chức nào cũng do con người lập ra và đến lượt nó, các tổ
chức lại quy định hành vi của các thành viên theo những chuẩn mực nhất
định. Cán bộ, đảng viên là những người hoạt động trong các tổ chức thuộc hệ
thống kinh tế - chính trị, trong đó, Đảng là hạt nhân lãnh đạo. Việc phát huy
vai trò của các tổ chức nhằm quản lý, giáo dục, kiểm tra, giám sát, phê bình
cán bộ, đảng viên có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những biểu
hiện tiêu cực khác về mặt đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Chúng ta cần xác định việc thực hiện nhiệm vụ chính trị phải gắn với xây
dựng tổ chức, trong đó có tổ chức Đảng và các tổ chức đồn thể, làm cơng tác
đảng viên, cơng tác cán bộ đồng thời cũng phải làm công tác về bộ máy.
- Chú trọng tự giáo dục và giáo dục đạo đức cách mạng, đẩy mạnh
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong
cán bộ, đảng viên. Tổ chức tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh một trong những nguyên tắc giáo dục đạo đức là làm gương
"Trên gương mẫu làm trước, dưới tiếp bước theo sau". Hồ Chí Minh: “Nếu
miệng thì tun truyền bảo người ta siêng làm mà mình thì ăn trưa ngủ trễ;
bảo người ta tiết kiệm mà tự mình thì xa xỉ, lung tung thì tun truyền 100
năm cũng vơ ích” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, nxb CTQG, H, 2011,
tr.108).
Bốn là: Nâng cao trình độ về các mặt, nhất là trình độ lý luận chính trị hành chính của cán bộ, đảng viên
Cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên tiến nhất của giai cấp công nhân.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên dù trong hoàn cảnh nào, cương vị nào cũng đòi
17
hỏi phải có cả đức lẫn tài. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX chỉ
rõ: “Các cấp ủy và chi bộ tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học tập,
rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn chun mơn,
nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý”. Việc nâng cao trình độ về lý luận
chính trị - hành chính sẽ tạo sự phát triển ngày càng hoàn thiện cho mỗi cán
bộ, đảng viên, là yếu tố để mỗi cán bộ, đảng viên phát huy hết mọi khả năng
đối với công việc, góp phần làm tăng hiệu quả trong cơng tác nhất là đối với
công tác quản lý, lãnh đạo.
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường sự giám sát của nhân
dân đối với cán bộ, đảng viên
- Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện
tiêu cực về đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
- Thực hiện nghiêm nguyên tắc phê và tự phê (loại bỏ ngay việc xử lý
nội bộ mà thực chất là bao che, dung túng cho nhau)
- Thực hiện tốt công tác tổ chức cán bộ (chấm dứt việc mua quan, bán
chức; tình trạng cục bộ địa phương, bè phái. Muốn thế, quy trình bầu cử, bổ
nhiệm phải thực sự dân chủ, công khai...
- Thực hiện nghiêm nguyên tắc dân chủ hoá đời sống xã hội.
- Tập trung xây dựng hệ thống luật pháp và nâng cao ý thức tuân thủ
luật pháp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
18
KẾT LUẬN
Đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách mạng, là nền tảng của
con người cách mạng. Đạo đức cách mạng là gốc, là nền, là cái tạo ra những
cái khác, cái mà những cái khác dựa vào nó để phát triển. Đạo đức cách mạng
vừ là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng, đưa cách mạng đền
thắng lợi. Bên cạnh đó kinh tế thị trường là “thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH
và cả khi CNXH đã được xây dựng. Đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng
có vai trị vơ cùng quan trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế thị
trường định hướng XHCN và đạo đức cách mạng là sự cần thiết trong giai
đoạn hiện nay nhằm thấy được thực chất của mối quan hệ này, cũng như tác
động qua lại giữa chúng. Qua đó, phát huy các tác động tích cực, hạn chế các
tác động tiêu cực nhăm xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN phát triển tồn diện và ổn định. Phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.